Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Điều tra thành phần loài tảo silic (Bacillariophyta) và chất lượng nước trong một số đầm nuôi tôm tại huyện Quỳnh Lưu Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.5 MB, 61 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ THANH TÂN

§

Điều tra thành phần loài tảo Silic

(Bacillariophyta) và chất lượng nước trong một số
đầm nuôi tôm tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ
An”.

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

NGHỆ AN - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ THANH TÂN

§ Điều

tra thành phần

loài

tảo Silic


(Bacillariophyta) và chất lượng nước trong một số
đầm nuôi tôm tại huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ
An”.

Chuyên ngành: Thực vật học
Mã số: 60.42.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

PGS. TS. NGUYỄN ĐÌNH SAN


3

NGHỆ AN - 2013


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này trước hết tôi xin chân thành cảm ơn sự
giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của PGS. TS. Nguyễn Đình San
Xin chân thành cảm ơn Ban Chủ Nhiệm khoa Sinh học, Phòng đào tạo
Sau Đại học Trường Đại học Vinh.
Xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo phụ trách các Phòng thí
nghiệm Sinh lý - Hóa sinh, Thực vật, nuôi cấy mô thực vật thuộc Trung tâm
thực hành thí nghiệm trường Đại học Vinh.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Đài khí tượng thuỷ văn Nghệ An,
Phòng thống kê Huyện Quỳnh Lưu, UBND xã Quỳnh Bảng, Quỳnh Xuân, các

bạn học viên lớp cao học 19 chuyên ngành Thực vật và những người thân
trong gia đình đã động viên, tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Nghệ An, tháng 10 năm 2013
Tác giả
Trần Thị Thanh Tân


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

8

Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU.........................................................................
1.1. Vài nét về tình hình nghiên cứu tảo Silic trên thế giới và ở Việt Nam..................10
1.1.1. Trên thế giới..........................................................................................................10
1.1.2. ỞViệt Nam............................................................................................................12
1.2. Đặc điểm hình thái của tảo Silic..............................................................................17
1.2.1. Hình thái vỏ (vách tế bào)....................................................................................17
1.2.2. Cấu trúc vỏ tảo.......................................................................................................18
1.3. Vai trò và ứng dụng của tảo trong nuôi trồng thủy sản............................................20
1.4. Điều kiện tự nhiên của của địa bàn nghiên cứu........................................................21

Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
...............................................................................................................
2.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................................24
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu.............................................................................24
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu..............................................................................................24
2.2.2. Thời gian nghiên cứu.............................................................................................24
2.4. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................25

2.4.1. Phương pháp thu mẫu nước...................................................................................25
2.4.2. Phương pháp thu mẫu tảo Silic..............................................................................25
2.5. Phương pháp phân tích............................................................................................25
2.5.1. Phương pháp phân tích thủy lý, thủy hóa.............................................................25
2.5.2. Phương pháp định loại tảo Silic............................................................................26
2.5.3. Phương pháp định lượng tảo Silic.........................................................................26

Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN........................................
3.1. Kết quả phân tích chỉ tiêu thuỷ lý, thuỷ hoá mẫu nước ở một số đầm nuôi tôm
Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An.........................................................................................27
3.1.1. Một số chỉ tiêu thủy lý...........................................................................................27
3.1.2. Một số chỉ tiêu thủy hóa........................................................................................30
3.1.3. Đánh giá chung.....................................................................................................39
3.2. Kết quả phân tích mẫu tảo ở một số đầm nuôi tôm huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An. 40
3.2.1. Đa dạng về taxon tảo Silic (Bacillariophyta).........................................................40
3.2.2. Đa dạng tảo Silic trong mối quan hệ với môi trường sống trong khu v ực nghiên
cứu
46
3.2.3. Sự biến động số lượng tảo Silic ở Quỳnh Lưu - Nghệ An.....................................48

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ........................................................................................


6
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................
PHỤ LỤC

55



DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Nhiệt độ môi trường ở các địa điểm nghiên cứu qua đợt 1 thu mẫu
...............................................................................................................
Bảng 3.2. Nhiệt độ môi trường ở các địa điểm nghiên cứu qua đợt 2 thu mẫu
...............................................................................................................
Bảng 3.3. Độ trong trung bình ở các địa điểm nghiên cứu qua 2 đợt thu mẫu
...............................................................................................................
Biểu đồ 3.1. Độ trong trung bình ở các địa điểm nghiên cứu qua 2 đợt thu
mẫu........................................................................................................
Bảng 3.4. Độ mặn trung bình ở các địa điểm nghiên cứu qua 2 đợt thu mẫu...........
Bảng 3.5. Độ pH trung bình ở các địa điểm nghiên cứu qua 2 đợt thu mẫu.............
Biểu đồ 3.2. Độ pH trung bình ở các địa điểm nghiên cứu qua 2 đợt thu mẫu
...............................................................................................................
Bảng 3.6. Hàm lượng Oxy hòa tan trung bình trong nước tại các điểm nghiên
cứu qua 2 đợt thu mẫu..........................................................................
Biểu đồ 3.3. Hàm lượng Oxy hòa tan trung bình trong nước tại các điểm
nghiên cứu qua 2 đợt thu mẫu..............................................................
Bảng 3.7. Nhu cầu Oxy hóa học tại các điểm nghiên cứu qua 2 đợt thu mẫu..........
Bảng 3.8. Hàm lượng NO3- trung bình qua các đợt nghiên cứu...............................
Biểu đồ 3.4. Hàm lượng NO3- trung bình qua các đợt nghiên cứu...........................
Bảng 3.9. Hàm lượng NH4+ trung bình qua 2 đợt nghiên cứu.................................
Bảng 3.10. Hàm lượng PO43- trung bình qua các đợt nghiên cứu...........................
Biểu đồ 3.5. Hàm lượng PO43- trung bình qua các đợt nghiên cứu.........................
Bảng 3.11. Hàm lượng SiO2 trung bình qua các đợt nghiên cứu..............................
Biểu đồ 3.6. Hàm lượng SiO2 trung bình qua các đợt nghiên cứu...........................
Bảng 3.12. Danh lục thành phần loài tảo Silic tại một số đầm tôm ở huyện
Quỳnh Lưu - Nghệ An qua 2 đợt nghiên cứu.......................................



8
Bảng 3.13. Sự đa dạng bậc trên loài tảo Silic qua 2 đợt nghiên cứu trong một
số đầm nuôi tôm ở huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An................................
Bảng 3.14. Sự phân bố taxon loài/dưới loài tảo Silic qua 2 đợt nghiên cứu
trong một số đầm nuôi tôm ở huyện Quỳnh Lưu.................................
Bảng 3.15. Kết quả phân tích mẫu định lượng tảo Silic ở Quỳnh Lưu - Nghệ
An (TB/lít)............................................................................................

MỞ ĐẦU
Trong hệ sinh thái tự nhiên hay trong các ao đầm nuôi trồng thuỷ sản
(trong đó có đầm nuôi tôm) thực vật nổi là một trong những yếu tố hữu sinh
đóng vai trò hết sức quan trọng trong trao đổi vật chất và năng lượng của hệ.
Chúng là cơ sở thức ăn tự nhiên, tác nhân lọc sinh học và là nguồn ôxy hoà tan
trong nước, đặc biệt là ở các ao nuôi thương phẩm. Thực vật nổi phản ứng rất
nhanh với nguồn dinh dưỡng bổ sung vào môi trường nước, bởi vậy được xem
là chỉ số quan trọng để đánh giá mức độ dinh dưỡng của các ao nuôi. Sinh khối
và tốc độ sinh trưởng của thực vật nổi thay đổi theo mùa và phụ thuộc vào các
yếu tố môi trường (ánh sáng, nhiệt độ, độ mặn, muối dinh dưỡng…). Nhưng
mức độ biến động của thực vật nổi (khi chúng phát triển quá nhiều hoặc quá ít)
lại là tác nhân chính ảnh hưởng đến chất lượng nước của ao. Trong các ao nuôi
với một số loài hay mật độ của chúng trong khoảng cho phép sẽ có lợi hay ít
nhất là vô hại đối với các đối tượng nuôi, nhưng khi chúng phát triển quá
mạnh, kèm theo đó là tàn lụi và lắng đọng cũng như sự phân huỷ của chúng
trong ao sẽ là nguyên nhân làm chậm sự phát triển của đối tượng nuôi, gián tiếp
ảnh hưởng đến năng suất nuôi trồng. Không những thế, một số thực vật nổi gây
hại đối với các đối tượng nuôi (sống bám, tiết độc tố…).
Để ổn định và phát triển nghề nuôi tôm thương phẩm, chúng ta không
những hoàn thiện các quy trình nuôi mà còn phải quan tâm đến việc quản lý
các yếu tố môi trường ao nuôi, trong đó có thực vật nổi. Điều quan trọng là



9
phải tìm ra những thành phần nào, những yếu tố và thời gian nào ảnh hưởng
đến tốc độ sinh trưởng và tạo sinh khối của thực vật nổi để tạo ra các biện
pháp cần thiết để điều khiển thực vật nổi trong ao nuôi. Song ở nước ta, các
công trình nghiên cứu về thực vật nổi và mối quan hệ giữa chúng với các yếu
tố môi trường lý, hóa học trong ao nuôi tôm còn quá ít. Vì thế chưa đánh giá
đúng mức về sự phát triển cũng như vai trò của thực vật nổi trong hệ sinh thái
ao nuôi, gây khó khăn cho việc quản lý chất lượng nước và khai thác nguồn
thức ăn tự nhiên trong ao nuôi.
Trong các thuỷ vực nước ngọt Tảo Silíc thường là một trong các thành
viên chính tạo nên năng suất sơ cấp cho thuỷ vực. Trong các biển và đại
dương Tảo Silíc luôn là thành phần chính cả về thành phần loài cũng như sinh
khối, thường chiếm trên 70%, có nơi có lúc chúng hầu như quyết định 100%.
Người ta ước tính hàng năm toàn bộ thực vật phù du trong đó chủ yếu là Tảo
Silíc đã tạo nên khoảng 19 tỷ tấn chất hữu cơ, nuôi sống khoảng 5 tỷ tấn động
vật không xương sống. Và trong ngành thuỷ sản sự xuất hiện của tảo Silíc là
một trong những tín hiệu quan tâm của người nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản.
Hiện nay, tại huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An nghề nuôi tôm công
nghiệp đã trở thành phong trào nơi đây. Nếu như cuối những năm 90 của thế
kỷ trước, người nông dân khu vực ven biển chỉ áp dụng kinh nghiệm của tỉnh
bạn cải tạo ao đầm ven biển để nuôi tôm theo lối quảng canh, thì đến nay
nghề nuôi tôm đã trở thành nghề chính cho nông dân ven biển khu vực này.
Có những xã diện tích nuôi tôm công nghiệp lên đến hàng trăm ha như Quỳnh
Xuân, Quỳnh Bảng, Trịnh Môn.
Từ thực tế đó chúng tôi tiến hành đề tài “Điều tra thành phần loài tảo
Silic (Bacillariophyta) và chất lượng nước trong một số đầm nuôi tôm tại
huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An”.
Mục tiêu của đề tài:
Mục tiêu của đề tài nhằm xác định thành phần loài tảo Silic ở một số

đầm nuôi trồng thủy sản tại huyện Quỳnh Lưu- Nghệ An, đồng thời tìm hiểu


10
sự phân bố của chúng trong mối liên quan với một số yếu tố sinh thái của môi
trường làm cơ sở cho các giải pháp kỹ thuật nhằm làm ổn định và nâng cao
chất lượng nguồn thức ăn tự nhiên trong các đầm nuôi.
Đề tài được tiến hành từ tháng 12 năm 2012 đến tháng 9 năm 2013 tại
các đầm nuôi tôm Quỳnh Lưu - Nghệ An và phòng thí nghiệm Bộ môn Thực
vật, Trung tâm thí nghiện thực hành - Trường Đại học Vinh.
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Vài nét về tình hình nghiên cứu tảo Silic trên
thế giới và ở Việt Nam
1.1.1. Trên thế giới
Nghiên cứu phân loại tảo Silic được tiến hành rất sớm, từ những thập
niên đầu thế kỷ XIX, với công trình đầu tiên là “Systema Algarum” của
Agardh C.A. năm 1824. Sau đó, Ehrenberg C.G., Kuetzing F.T., Smith W.,
Ralfs J. đã đề xuất các hệ thống phân loại tảo Silic. Tuy nhiên, cơ sở phân loại
của các tác giả còn đơn giản, chủ yếu dựa và số lượng thể sắc tố và các rãnh
có hay không để phân loại. Sau đó, hệ thống phân loại tảo Silic đã được
Kastern G. (1928), Kokubo A. (1955), Kim Đức Tường (1965)... bổ sung
[Dẫn theo 1].
Do sự phát triển chung của khoa học kỹ thuật, những tri thức về tảo
Silic ngày một phong phú. Chúng đã được nghiên cứu theo nhiều hướng:
phân loại, hình thái, sinh lí, sinh hóa, sinh thái và ứng dụng. Mặt khác chúng
cũng được nghiên cứu theo các hướng sinh thái khác nhau: tảo nước ngọt, tảo
biển, tảo đất, tảo bì sinh, tảo sống trên băng tuyết...
Theo hướng nghiên cứu về tảo phù du biển, Cupp E.E. (1943) đã điều
tra, nghiên cứu thành phần loài tảo Silic biển ven bờ ở khu vực Bắc Mỹ;



11
Crossby và Cassie (1959) nghiên cứu tảo Silic ở Ôxtrâylia và Niudilân hay
Sournia A. (1968) khảo sát tảo Silic phù du ở vùng biển ven bờ Môzămbic.
Đáng chú ý hơn cả là những công trình điều tra, khảo sát Silic trên vùng biển
Ấn Độ Dương mà Kastern G. là người đầu tiên thực hiện vào năm 1907. Về
sau, vào những năm 1964 - 1965 một số nhà khoa học đã nghiên cứu đối
tượng này tại 103 điểm, trong đó có một số khu vực mà Kastern G. đã quan
tâm 60 năm trước đó. Kết quả được Reimer Simonsen (1974) tổng hợp trong
cuốn “The Diatoms Plankton of The India Ocean”, mô tả 247 taxon loài và
dưới loài thuộc 80 chi, trong đó có 15 loài, 1 thứ và 3 chi được coi là mới đối
với khoa học [Dẫn theo 4].
Kokubo A. (1955) đã công bố cuốn “Tảo Silic phù du” bằng tiếng
Nhật, trong đó đã mô tả chi tiết 370 loài tảo Silic ở biển và ao, hồ của Nhật
Bản. Năm 1965, Kim Đức Tường và cộng sự đã xuất bản cuốn “Trung Quốc
hải dương phù du khuê tảo loại” trình bày 228 loài tảo Silic phù du ở các
vùng biển Trung Quốc, là nơi có mối quan hệ mật thiết với biển và sông ngòi
của nước ta [Dẫn theo 1].
Nghiên cứu tảo Silíc trên thế giới phải kể đến các công trình của Foged
N. Ông đã dành trọn cuộc đời mình để nghiên cứu tảo Silic ở rất nhiều nơi trên
thế giới, từ châu Âu, châu Á, châu Mỹ đến châu Úc với hình vẽ chi tiết các
taxon tảo Silíc đã phát hiện được. Năm 1976 [25] ông đã tiến hành nghiên cứu
tảo Silic nước ngọt ở Srilanka trên 22 vùng khác nhau, công bố được 310 loài,
thuộc 34 chi, trong đó có 1 loài mới. Tiếp đó năm 1978 [26] tác giả tiến hành
nghiên cứu ở phía đông nước Úc đã phát hiện và công bố được 860 loài thuộc
70 chi, trong đó có 10 loài mới. Năm 1984 [27] trong công trình “Tảo Silic ven
biển Cuba” ông đã phát hiện và công bố 203 loài, trong đó có 16 loài mới.



12
Ngoài việc điều tra và phân loại tảo thì hướng sử dụng vi tảo trong đó
có tảo Silic để chỉ thị cho chất lượng nước cũng được một số tác giả đề cập
đến [Dẫn theo 4].
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở miền Nam, dẫn liệu về tảo Silic phù du ở nước ta đã được đề cập khá
sớm. Năm 1926, Rose M. đã công bố 13 chi với 20 loài tảo Silic khi nghiên
cứu vùng biển vịnh Nha Trang [Dẫn theo 1]. Hoàng Quốc Trương (1962 1963) đã phát hiện 154 loài tảo Silic ở vịnh Nha Trang [23].
Năm 1966, trong cuốn “The plankton of South Vietnam”, cùng với các
loài tảo nước ngọt, Shirota A. đã giới thiệu 213 loài tảo Silic trong 15 vùng
nước lợ, nước mặn ven biển từ Thừa Thiên Huế đến Kiên Giang [28]. Tuy chỉ
mới trình bày bảng tên loài cùng với những hình vẽ còn đơn giản, không có
phần mô tả hình thái mà chỉ nêu các kích thước nhưng đây là công trình
nghiên cứu quan trọng về thực vật phù du biển. Với danh mục loài phong phú,
công trình đã giới thiệu bao quát về thực vật nổi vùng ven biển miền Nam
Việt Nam - điều mà trước đó chưa có tác giả nào thực hiện được.
Trong danh mục loài thực vật phù du ở vùng biển Thuận Hải, Minh Hải
công bố năm 1982 do Viện nghiên cứu biển Nha Trang tổ chức điều tra năm
1977 - 1980 có ghi tên 170 loài tảo Silic [Dẫn theo 1].
Ở miền Bắc, trong những năm từ 1959 - 1962 và 1965 - 1966, chương
trình hợp tác điều tra cơ bản tổng hợp vịnh Bắc Bộ đã được Trung Quốc và
Việt Nam tiến hành ở vịnh Bắc Bộ, kết quả có trên 140 loài tảo Silic đã được
công bố [Dẫn theo1].
Trần Trường Lưu (1970) [14], trong báo cáo “Tổng kết thực vật phù du
các vực nước điều tra”, đã thống kê được 74 chi thực vật nổi trong đó tảo
Silic: 29, tảo lục: 23, tảo lam: 14, tảo mắt: 4, tảo giáp: 1, tảo vàng: 2, tảo vàng
ánh: 1.


13

Sau đó, năm 1972 Trương Ngọc An và một số đồng nghiệp đã tiến
hành khảo sát vùng cửa sông Hồng, sông Đáy, sông Ninh Cơ và vùng biển
ven bờ tỉnh Nam Hà. Kết quả sơ bộ cho thấy sự ưu thế vượt trội của tảo Silic
phù du (110 loài, chiếm 88%) trong những thủy vực nước lợ đó [2].
Năm 1972, Cudơmina A.l. có một báo cáo về thực vật phù du trong
mùa hè ở vịnh Bắc bộ, do tàu Peelamida vớt mẫu vào tháng 7 năm 1961 đã
đưa ra danh lục trong đó có 61 loài tảo Silic [Dẫn theo 1].
Cũng Trần Trường Lưu (1975) [15] đã tiến hành nghiên cứu trên sông
Hồng, sông Đà, sông Mã và một số sông đào khác và đã thống kê được 98 chi
tảo sông thuộc các ngành: tảo Silic, tảo lục, tảo lam, tảo mắt, tảo giáp, tảo
vàng và tảo vàng ánh.
Năm 1978, trong báo cáo “Thực vật phù du vùng ven biển Quảng Ninh
- Hải Phòng”, Trương Ngọc An đã giới thiệu một bảng tên loài ghi danh 156
loài tảo Silic. Dựa vào các nguồn tài liệu trước đó ông đã biên soạn cuốn
“Phân loại tảo Silic phù du biển Việt Nam” mô tả 225 loài tảo thuộc 2 bộ, 18
họ, 60 chi tảo Silic [1]. Với danh mục loài phong phú, phần mô tả chi tiết, dễ
hiểu, các hình vẽ rõ ràng, cuốn sách thực sự là một tài liệu chuyên sâu về
phân loại có giá trị, rất cần thiết và thuận lợi trong nghiên cứu tảo Silic.
Dương Đức Tiến (1981) nghiên cứu thực vật nổi trên một số sông, suối
tiêu biểu thuộc các miền khác nhau ở Việt Nam, đã phát hiện được 286
loài/dưới loài, trong đó tảo Silic chiếm ưu thế với 180 loài. Ở một số con sông
lớn như sông Hồng, trong số 55 loài vi tảo đã phát hiện có 33 loài tảo Silic, ở
sông Hương có 64 loài tảo Silic (trong số 95 loài được tìm thấy), còn ở sông
Cửu Long tác giả đã phát hiện 136 loài vi tảo, trong đó tảo Silic có 83
loài/dưới loài .
Ở miền Trung, những nghiên cứu về TVN trong các vũng, vịnh, đầm
phá ven biển phía Nam có các công trình tiêu biểu sau: Tôn Thất Pháp (1993)


14

khi nghiên cứu khu hệ thực ở nước trong Phá Tam Giang (Thừa Thiên Huế),
đã công bố 238 taxon bậc loài và dưới loài TVN, trong đó có 19 taxon mới
đối với Việt Nam. Trong khu hệ có loài chỉ xuất hiện vào mùa ngọt hoá hay
mặn hoá của Phá, song cũng có loài xuất hiện quanh năm (tảo Silíc Lông
chim Pennales) [19]. Ở vịnh Quy Nhơn, có 185 loài TVN được xác định và
tảo Silíc chiếm 83,7 % về số loài. TVN có mật độ cao trùng vào thời kỳ độ
muối của nước trong vùng tương đối cao và giảm thấp vào các tháng mùa
mưa, liên quan đến sự thiếu hụt của những loài nước mặn. Mật độ TVN dao
động từ (2,27 - 321,82) × 106tb/m3 [17].
Lê Thị Thúy Hà, Võ Hành (1999), trong công trình “Chất lượng nước
và thành phần loài vi tảo (Microalgae) ở sông La - Hà Tĩnh” đã xác định
được 136 loài và dưới loài trong đó có 60 loài tảo Silic (chiếm 44,12%) [10].
Nguyễn Đình San (2001), giới thiệu trong Luận án Tiến sĩ Sinh học của
mình một danh mục gồm 196 loài thuộc 5 ngành tảo trong một số thủy vực bị
ô nhiễm ở 3 tỉnh Bắc miền Trung, trong đó có 59 loài tảo Silic phù du [20].
Ở sông Lam (Nghệ An), Lê Thị Thuý Hà (2004) với đề tài“Khu hệ
thực vật nổi ở vùng Tây Nam hệ thống sông Lam (Nghệ An - Hà Tĩnh)”, Luận
án Tiến sỹ Sinh học, đã phát hiện được 165 loài tảo Silic, trong đó bộ
Discales và bộ Diraphinales có nhiều loài nhất. Tác giả cũng nghiên cứu yếu
tố phân bố địa lý theo Murapharov (1981) và đã kết luận yếu tố địa lý của tảo
Silic ở vùng Tây Nam hệ thống sông Lam mang đầy đủ các yếu tố: Yếu tố
phân bố rộng (134 loài), yếu tố ôn đới Bắc (17 loài), yếu tố nhiệt đới và á
nhiệt đới (7 loài), yếu tố châu Úc đại dương (1 loài) [9].
Trong các đầm nuôi tôm quảng canh cải tiến và bán thâm canh thuộc
hai vùng Quỳnh Lưu - Nghệ An và Thạch Hà - Hà Tĩnh) số loài tảo Silíc cũng
cao hơn các ngành khác (với 47/72 loài, chiếm 64,38%), kế đó là tảo Hai Roi
với 10 loài (13,7%), ngành tảo Mắt có số loài thấp nhất (4 loài, chiếm 5,48%).


15

Thành phần loài TVN trong đầm nuôi tôm ở hai vùng có sự khác nhau, với hệ
số giống nhau S = 0,34. Mật độ tế bào TVN trong các đầm này cũng khá
phong phú (17,8 - 25) × 103tb/L ở đầm nuôi Quỳnh Lưu, 25 - 28 × 105tb/L ở
đầm nuôi Thạch Hà [5].
Võ Hành cùng Phan Tấn Lượm (2010) [8] đã thống kê được 110 loài
tảo Silic ở cửa Cung Hầu (sông Tiền Giang), trong đó các chi chủ đạo thuộc
về

Coscinodiscus,

Chaetoceros,

Pleurosigma,

Cyclotella,

Nitzschia,

Rhizosolenium, Gyrosigma và Biddulphia.
Lương Quang Đốc (2007) đã phát hiện 113 loài/dưới loài tảo Silic sống
trên nền đáy mềm ở đầm, phá tỉnh Thừa Thiên - Huế [6].
Ở Miền Nam, các công trình nghiên cứu về sự phân bố thành phần loài
tảo trong các ao nuôi tôm còn được đề cập trong công trình nghiên cứu của
Đỗ Thị Bích Lộc (2002) khi đánh giá sự ô nhiễm ao nuôi tôm Sú qua chỉ số
tảo (phytoplankton) trong các ao tôm tại Cần Giờ (TP. HCM), TVN có số loài
thấp (14 - 48 loài, tảo Silíc chiếm ưu thế), trong khi mật độ tế bào lại khá cao
từ 8 × 103 - 7.720 × 109tb/L. Các ao nuôi trên ruộng lúa có mật độ thấp hơn (3,2
- 7,7 ×106tb/L), ưu thế thuộc về các loài thuộc chi tảo Lam Phormidium,
Oscillatoria và tảo Silíc Nitzschia, Pleurosigma. Trong một số ao nuôi tôm
thuộc Cần Giuộc (Long An) tảo phát triển mạnh, gây ô nhiễm môi trường với

mật độ dao động 4.436 × 106 - 17.266 × 106tb/m3 cùng với chỉ số đa dạng loài
rất thấp (< 2). Từ kết quả nghiên cứu của mình, tác giả kết luận rằng thành
phần loài TVN trong các ao nuôi thấp, trong khi mật độ tế bào lại cao hơn so
với kênh rạch (nơi cấp nước cho ao). Sự phát triển quá mạnh của một số loài
đã lấn át sự phát triển của các loài khác, vì thế độ đa dạng loài của TVN trong
ao nuôi tôm thấp hơn so với mực nước tự nhiên. Với môi trường nước tĩnh và
giàu dinh dưỡng là điều kiện tốt cho các loài tảo Lam phát triển mạnh, tạo
đỉnh cao về mật độ tế bào trong ao nuôi [12]. Nguyễn Văn Hảo (2002) cũng
đưa ra một số dữ liệu về TVN trong các ao nuôi tôm ở Tiền Giang, Bến Tre,


16
Cà Mau với thành phần loài dao động 16 - 44 loài (tảo Silíc chiếm ưu thế) và
mật độ tế bào đạt từ 0,2 - 6,6 × 103tb/L. Theo ông, thành phần loài và mật độ
tảo trong ao qua các đợt khảo sát nghèo nàn, trong các loài đã định danh
không có tảo độc. Bên cạnh sự nghèo nàn về thành phần loài và mật độ tảo
là sự hiện diện khá phong phú của nhóm động vật không xương sống
Copepoda (ưu thế là Oithona spp) [11]. Trong luận án tiến sỹ của Hoàng Thị
Bích Mai, với đề tài “Biến động thành phần loài và số lượng thực vật nổi
trong ao nuôi tôm Sú tại Khánh Hoà”, tác giả cho biết có 122 thuộc 5 ngành
TVN được xác định: ngành Heterokontophyta có 88 loài (là các loài thuộc lớp
Bacillariophyceae), chiếm 72%; ngành Dinophyta có 11 loài, chiếm 9%;
ngành Cyanobacteria có 14 loài, chiếm 11,5%; ngành Chlorophyta có 6 loài
(5%) và ngành Euglenophyta với 3 loài, chiếm 2,5%. Từ kết quả này, tác giả
cho rằng thành phần loài TVN trong ao nuôi tôm ở Khánh Hoà khá phong
phú, song diễn biến về sự phát triển của chúng trong các ao còn phụ thuộc vào
hình thức nuôi, mức độ tác động của con người [12].
Hiện nay, các nghiên cứu về tảo được gắn liền với nhiều thiết bị và
phương pháp hiện đại, trong đó việc sử dụng kính hiển vi điện tử trong những
nghiên cứu sâu về từng nhóm tảo giúp cho việc phân loại chính xác hơn. Các

phương pháp phân tích ADN được áp dụng với một số nhóm tảo, nhất là với
các nhóm có tính độc tố giúp cho việc xây dựng cây phát sinh chủng loại và
phát hiện các loài và dưới loài mới cũng như thẩm định lại các loài đã biết. Có
thể kể đến các công trình của Nguyễn Thị Thu Liên, Lê Như Hậu và Nguyễn
Hữu Đại, Đặng Diễm Hồng và cộng sự, Đặng Đình Kim và cộng sự. Các ứng
dụng về toán học và tin học trong sinh học cũng được sử dụng để đánh giá tác
động của các yếu tố môi trường lên tảo[Dẫn theo 18].
Bên cạnh những thành tựu nói trên, chắc chắn còn có nhiều cuộc điều
tra, khảo sát đã được tiến hành trên quy mô nhỏ hay mang tính địa phương


17
nhưng chưa được công bố đầy đủ, dù vậy chúng đều có những đóng góp đáng
kể trong việc nghiên cứu về tảo Silic ở nước ta.
1.2. Đặc điểm hình thái của tảo Silic
Tảo Silic là cơ thể đơn bào dạng hạt sống đơn độc hay sống thành tập
đoàn dạng palmella, dạng sợi, dạng chuỗi, dạng zíc zắc, dạng băng, dạng sao,
dạng các ống nhầy không phân nhánh hay phân nhánh đơn giản hoặc phức tạp
dạng cây. Kích thước của tế bào từ vài µm đến vài trăm µm. Tế bào Tảo silíc
có nhân là lưỡng bội. Tảo silíc khác biệt với tất cả các ngành tảo khác bởi cấu
trúc độc đáo của vách tế bào là gồm hai mảnh cấu thành bởi lớp trong là
pectin và lớp ngoài là chất silíc (SiO 2. 7H2O). Hai mảnh vỏ có cấu trúc như
hai nắp của một cái hộp lắp vào với nhau, bên trong chứa tế bào chất. Như
vậy có một mảnh vỏ lớn và một mảnh vỏ nhỏ hơn. Bề mặt của mỗi mảnh vỏ
là mặt vỏ của tế bào. Như vậy mỗi tế bào có hai mặt vỏ. Mặt bên của mảnh vỏ
khi lắp vào với mặt bên của mảnh vỏ thứ hai tạo thành mặt đai của tế bào.
Nếu mặt vỏ có hình tròn, hình elíp hay hình có hai góc thì mỗi tế bào chỉ có
hai mặt đai, còn mặt vỏ có hình nhiều góc thì tương ứng với mỗi cạnh của
hình đa giác của mặt vỏ là một mặt đai. Những Tảo silíc trên mặt vỏ có các
cấu trúc hoa văn là các vách hay sườn ngang hoặc xiên hoặc các chấm xếp

thành hang và đối xứng qua trục dọc tế bào theo kiểu lông chim thì thuộc lớp
Tảo silíc lông chim. Thường các hoa văn nằm hai bên mặt vỏ để lại một dăi ở
chính phần trục dọc không có hoa văn gọi là vùng trục. Những Tảo silíc có
hoa văn là các đường vạch, là các chấm, các vân dạng vảy hay dạng mắt sàng
xếp lộn xộn hay xếp theo quy luật nhất định trên bề mặt vỏ thì thuộc lớp Tảo
silíc trung tâm.
1.2.1. Hình thái vỏ (vách tế bào)
Tảo Silic rất đa dạng về mặt hình thái, có ít nhất 16 kiểu khác nhau:
hình que, hình thuyền, hình đĩa, hình chuỗi, sợi, dải, sao... [7].


18

Đa dạng tảo Silic nhìn từ mặt vỏ
1,2 - elip nhỏ, 3 - elip to, 4 - đàn ghi ta, 5 - thước kẻ, 6 - kim găm, 7 - hình trứng,
8,9 - dao chích, 10 - hình thoi, 11,13 - nửa dao chích, 12 - nửa vòng cung, 14 - hình chữ S,
15 - hình chữ nhật, 16 - hình u lồi [Dẫn theo 7].

- Tập đoàn có thể tách rời: các tế bào được liên kết lại với nhau nhờ cơ chất
và trong những điều kiện thích hợp, chúng có thể tách ra những tập đoàn nhỏ hơn.
- Tập đoàn không thể tách rời: Các tế bào được liên kết lại với nhau
nhờ vách có tẩm Silic hoặc nhờ các gai, sừng để móc với nhau.
- Tập đoàn vỏ phân cách: giữa các tế bào liền kề nhau, do có cấu trúc
khác nhau nên chúng có thể nối với nhau thông qua mặt vỏ.
- Chuỗi: các tế bào nối với nhau liên tiếp tạo thành chuỗi dài nhờ vỏ
phân cách, các gai, các lông gai.
- Dạng dải: các tế bào nối lại với nhau liên tiếp nhờ các mặt vỏ tiếp xúc
hoặc các gai ở viền mép mặt vỏ.
- Dạng chuỗi bậc chồng nhau: các tế bào liền nhau nối với nhau bằng
cách một phần của tế bào này gối lên một phần của tế bào kia.

- Dạng chữ chi (zigzag) hay hình sao: đầu mút của mỗi tế bào dính lại
với nhau theo kiểu zigzag hay hình sao nhờ các tấm chất nhầy.
1.2.2. Cấu trúc vỏ tảo


19
Tảo Silic có cấu tạo gồm hai mảnh vỏ lồng vào nhau tương tự như hộp
đĩa petri, nên khi quan sát tảo có thể thấy mặt đai (nhìn ngang) hoặc một vỏ
(nhìn từ trên xuống).

Cấu tạo vỏ tảo Silic
a. Nhìn thẳng, b. Nhìn nghiêng:
1. Mảnh vỏ ngoài; 2. Mảnh vỏ trong;
3. Đường rãnh; 4. U lồi
(Nguồn: Trung tâm dữ liệu thực vật Việt Nam www.botanyvn.com)

Ngoài các đặc điểm về hình dạng, kích thước (chiều dài, chiều rộng,
chiều cao) của tế bào tảo thì các cấu trúc và vi cấu trúc lỗ trên bề mặt của vỏ
tảo như hình dạng, số lượng, cách sắp xếp của chúng cũng phải được quan sát
để căn cứ vào đó mà định danh.
- Tảo Silic trung tâm: hình dạng, số lượng, cách sắp xếp dải lỗ vân (đơn
lẻ hay thành nhóm) từ trung tâm đến viền mép của mặt vỏ; bề mặt vỏ (lồi,
lõm, phẳng, hình nón hay gợn sóng); số lượng, hình dạng các u lồi, lông gai,
gai, mấu, chúng sắp xếp ở trung tâm hay viền mép mặt vỏ.
- Tảo Silic lông chim không rãnh: thường có dạng hình que, kích thước
rất nhỏ, đa số sống bám. Những đặc điểm cần chú ý: hình dạng, cách liên kết
các tế bào, có hay không có rãnh giả, số lượng các dải vân, sự sắp xếp các dải
vân, các dải trơn chạy dọc theo mặt vỏ, đặc điểm phân bố các dải vân ở trung
tâm với vùng đầu của mặt vỏ.



20
- Tảo Silic lông chim có rãnh: rãnh hay khe có phía ngoài rộng và hẹp ở
giữa, chia mặt vỏ thành hai phần bằng nhau hoặc có thể lệch sang bên, rãnh
có một u lồi ở trung tâm và kết thúc bởi 2 u lồi ở cực tế bào.
Ngoài ra, trong thực tế khi định danh còn phải sử dụng một số các đặc
điểm khác như: gần phía đầu mặt vỏ và hai bên mép mặt vỏ thắt lại rồi mở
rộng ra tạo thành hình đầu; đoạn kết thúc của rãnh ở trung tâm hoặc đầu mặt
vỏ có hình dạng như thế nào; quanh vùng trục có hay không có cấu trúc dạng
hạt; cấu trúc trơn dạng chữ H trên bề mặt vỏ; rãnh lệch tâm hay không lệch
tâm. Ở nhiều loài tảo Silic trung tâm chỉ có thể định danh qua hình dạng và
cấu trúc của mặt đai; một số loài tảo Silic lông chim có cấu trúc vỏ khác nhau:
một vỏ có rãnh (thường là nắp dưới) và một vỏ không có rãnh.
1.3. Vai trò và ứng dụng của tảo trong nuôi trồng thủy sản
Vi tảo là sinh vật sản xuất của mọi hệ sinh thái thủy vực, cung cấp chất
hữu cơ và dưỡng khí cho các sinh vật khác sống trong nước. Đại dương và biển
chiếm 71% diện tích trái đất, nhiều tác giả cho rằng hàng năm tảo sống trong
đó đã tạo nên 19 - 53 tỉ tấn chất hữu cơ thậm chí một số tác giả người Mỹ còn
đưa ra con số 70 - 280 tỉ tấn/năm. Trong nghề nuôi cá thực vật nổi đóng vai trò
then chốt, đúng như Gollerbakh M.M. nhà nghiên cứu về tảo lớn của thế giới
đã từng nói “không có thực vật nổi thì không có nghề cá” [Dẫn theo 22].
Thực vật phù du tạo nên cơ sở cho chuỗi thức ăn trong môi trường
biển. Do đó có lẽ không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy rằng các vi tảo là
nguồn thức ăn không thể thiếu trong nuôi thương phẩm nhiều đối tượng, bao
gồm tất cả các giai đoạn sinh trưởng của nhuyễn thể hai mảnh vỏ, các giai
đoạn ấu trùng của một số loài giáp xác và giai đoạn sinh trưởng rất sớm của
một số loài cá. Ngoài ra tảo cũng được dùng để sản xuất khối lượng lớn các
động vật phù du (luân trùng, động vật chân chèo, Artemia) và các động vật



21
này sẽ được dùng làm thức ăn cho các giai đoạn ấu trùng và ấu thể ban đầu
của các loài giáp xác và cá [3].
Trên thế giới, năm 1910 Allen G.O. và Nelson E.M. đã sử dụng tảo Silic
làm nguồn thức ăn cho một số động vật không xương sống. Năm 1939 Bruce D.
đã phân lập và nuôi 2 loài tảo đơn bào (Isochrysis galbana và Pyramimonas
grosii) để nuôi ấu trùng hàu. Ở Nhật Bản việc nuôi tảo silíc Skeletonema
costatum và Chaetoceros sp. làm thức ăn cho ấu trùng tôm là điều kiện tiên
quyết sự thành bại của nghề nuôi tôm. Hiện nay, việc nuôi tảo theo quy mô công
nghiệp để phục vụ cho nuôi trồng thủy sản đã rất phổ biến và đang phát triển
thành công nghệ ở nhiều nước như: Ostrâylia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung
Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Singapo, Malaysia, Philippin… [Dẫn theo 22].
Ở Việt Nam, các nhà khoa học Việt Nam đã thử nghiệm đưa Spirulina
vào thức ăn của cá mè trắng, mè hoa, trắm cỏ, rô phi với tỉ lệ 5% đã làm tăng
tỉ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của cá [18]. Từ năm 1980 đến nay nhiều địa
phương đã tiến hành nuôi trồng vi tảo để làm thức ăn cho các cơ sở nuôi
trồng thủy sản, đặc biệt ở Quảng Ninh, Đà nẵng, Bình Định, Khánh Hòa…
[Dẫn theo 22].
1.4. Điều kiện tự nhiên của của địa bàn nghiên cứu
Vị trí địa lý: Quỳnh Lưu là huyện đồng bằng ven biển, với diện tích
tự nhiên 43.762,87ha, dân số 279.977 (tính đến 03/4/2013); có 33 đơn vị
hành chính (gồm 32 xã và 1 thị trấn), 406 thôn, bản, khối phố. Huyện có
tuyến đường Quốc lộ 1A, Quốc lộ 48, đường sắt Bắc Nam, đường Tỉnh lộ
537 đi qua;
Quỳnh Lưu là huyện ven biển, nằm ở phía Bắc Tỉnh Nghệ An, cách
Thành phố Vinh 74 km. Có bờ biển dài 34 km từ xă Quỳnh Thọ đến xã
Quỳnh Lập (12 xã,), có 3 cửa lạch (lạch Cờn, lạch Quèn và lạch Thơi) và có
tới 12 xã chịu ảnh hưởng trực tiếp và hưởng lợi từ nguồn sản phẩm của biển.



22
Phía bắc giáp huyện Tĩnh Gia - Thanh Hoá, phía nam giáp huyện Diễn
Châu, phía đông giáp biển, phía tây giáp huyện Yên Thành, Nghĩa Đàn.
Tọa độ địa lý: từ 105o8 đến 105o36 độ kinh Đông; từ 22o14 đến 22o49
độ vĩ Bắc.
Địa hình địa thế: Quỳnh Lưu nằm trong vùng ven biển với độ dốc lớn,
địa hình chia cắt. Phía tây là vùng dốc, phù hợp canh tác lâm nghiệp, phía
đông giáp biển, có nhiều cửa sông và bãi triều ven sông và vùng bãi ngang
rộng lớn có điều kiện phù hợp phát triển sản xuất giống và nuôi trồng thủy
sản.nước mặn, nước lợ.
Đặc điểm khí hậu: Là Vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2 mùa rõ
rệt là mùa nóng (từ tháng 4 đến tháng 11) và mùa lạnh (từ tháng 11 đến tháng
3 năm sau). Nhiệt độ trung bình năm là 23,8OC, cao nhất tuyệt đối là 39,8OC
và thấp nhất tuyệt đối là 6,0oC. Độ ẩm không khí trung bình là 86%. Lượng
mưa không lớn, trung bình chỉ 1.500-1.600mm.
Nhìn chung, đặc điểm tự nhiên và thời tiết khí hậu phù hợp phát triển
sản xuất giống và nuôi trồng các đối tượng lợ mặn, đặc biệt là giáp xác.
Điều kiện kinh tế - xã hội
Đất đai: Huyện Quỳnh Lưu có diện tích tự nhiên là 58.507ha, gồm ba
vùng sinh thái chủ yếu là vùng núi, vùng đồng bằng và ven biển. Riêng vùng
ven biển có 12 xã có diện tích đất tự nhiên 7.936 ha chiếm 13,68 % đất tự
nhiên của toàn huyện. Tổng diện tích đất sử dụng của các ngành nghề chủ yếu
(nông nghiệp, thuỷ sản, lâm nghiệp và muối) chiếm khoảng 40% tổng diện
tích tự nhiên của huyện, trong đó diện tích sử dụng nuôi thuỷ sản chiếm trên
5% diện tích đất tự nhiên.
Tổng số hộ của huyện năm 2007 là 75.000 hộ, dân số khoảng 400.000
người. Vùng ven biển có mật độ dân số đông nhất, bình quân là 2.350
người/km 2. Tuy nhiên diện tích đất nông nghiệp cho mỗi nhân khẩu chỉ
dưới 450 m2.



23
Lao động và thu nhập
Tổng số lao động của huyện năm 2007 là 250.000 Lao động, trong đó
lao động nam chiếm 65%, còn lại là lao động nữ. Vùng ven biển có 50.000
lao động, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 25%, lao động đánh cá là
19%, thấp nhất là nuôi tôm chỉ có 5%.
Thu nhập bình quân 1 nhân khẩu ở Quỳnh Lưu khá cao so với các
huyện trong tỉnh và có xu hướng tăng nhờ lợi thế phát triển kinh tế thủy sản.
Riêng vùng ven biển, thu nhập bình quân của lao động cao hơn rất nhiều so
với các vùng khác.
Giá trị sản xuất
Do là một huyện vùng ven biển nên Quỳnh Lưu chủ yếu vẫn dựa vào
thế mạnh sản xuất nông nghiệp và thủy sản. Tỷ trọng nông nghiệp của huyện
(gồm cả thuỷ sản) chiếm khoảng 48%. Vùng ven biển, tuy diện tích đất tự
nhiên chỉ chiếm 13,68% đất tự nhiên của toàn huyện nhưng tổng sản phẩm xã
hội chiếm khoảng 30% tổng thu nhập của toàn huyện.
Các hoạt động nuôi tôm chủ yếu tập trung dọc theo sông Mơ, từ xã
Quỳnh Lộc cho đến xã An Hoà, đặc biệt phát triển mạnh ở một số xã như:
Quỳnh Bảng, Quỳnh Liên, Mai Hùng, Quỳnh Lộc. Riêng hai xã Quỳnh Lộc
và Quỳnh Bảng, tổng diện tích tiềm năng chiếm gần 30% tổng diện tích của
huyện, phần lớn hệ thống nuôi tại đây phù hợp với nuôi tôm thâm canh năng
suất cao, đặc biệt với tôm chân trắng-là loài thích nghi với vùng bãi ngang.
Tiêu thụ các sản phẩm thuỷ hải sản thuận lợi. Giá cả tôm nuôi như sau: Tôm
sú (Penaeus monodon) có giá 100.000đ/kg (loại 40 con/kg), tôm chân trắng là
75.000 - 110 000 đ/kg (loại 60-70 con/kg) (năm 2010, 2011).


24
Chương 2

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số chỉ tiêu thủy lý, thủy hóa và
thành phần loài tảo Silic ở một số đầm nuôi tôm và mương cấp nước ở Huyện
Quỳnh Lưu - Nghệ An
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Chúng tôi chọn một số đầm tôm thuộc xã Quỳnh Xuân và Quỳnh Bảng
thuộc huyện Quỳnh Lưu nơi có diện tích nuôi tôm lớn nhất của huyện Quỳnh
Lưu làm địa điểm nghiên cứu. Tại mỗi xã có ba đầm nuôi tôm được chúng tôi
chọn lựa ngẫu nhiên và mương cấp nước để tiến hành thu mẫu, nghiên cứu.
Mẫu được thu tại 3 đầm, mỗi đầm thu 2 điểm: gần bờ và giữa đầm mương
cấp thu 01 mẫu/ xã.
2.2.2. Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu tài liệu:
Từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 9 năm 2013
Thời gian thu mẫu: Chia làm 2 đợt
Đợt 1: Tháng 4 năm 2013: Thời gian vừa thả tôm
Đợt 2: Tháng 7 năm 2012: Thời gian tôm vào giai đoạn thu hoạch
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Phân tích một số chỉ tiêu thủy lý - thủy hóa tại địa bàn nghiên cứu.
- Điều tra thành phần loài tảo silic cũng như số lượng của chúng ở một
số đầm nuôi trồng tôm tại Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An.
- Đánh giá mối liên quan giữa chất lượng nước với sự đa dạng của tảo
silic và số lượng của chúng.


25
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp thu mẫu nước

Mẫu nước được thu vào chai Thạch Bích 1,25 lít, bảo quản ở 4 0C và
phân tích trong vòng 24 giờ. Mẫu nước dùng để phân tích chỉ tiêu oxy hòa tan
(DO) được thu riêng và cố định ngay trong lọ thủy tinh nút mài 125 ml.
2.4.2. Phương pháp thu mẫu tảo Silic
Mẫu tảo được thu bằng lưới vớt thực vật nổi N 075, vợt qua vợt lại trên
tầng mặt nhiều lần để thu mẫu định tính. Lấy 10 lít nước lọc qua lưới nêu
trên để lấy 50 ml làm mẫu định lượng. Các mẫu tảo được cố định bằng
formol 4% (gồm 28 mẫu định tính và 28 mẫu định lượng, tất cả đều được
ghi nhãn đầy đủ).
2.5. Phương pháp phân tích
2.5.1. Phương pháp phân tích thủy lý, thủy hóa
- Nhiệt độ, pH được đo tại chỗ bằng máy đo Watertest.
- Độ trong đo bằng đĩa Secchi.
- Độ mặn được đo tại chỗ bằng máy đo độ mặn ATAGO.
- Xác định hàm lượng Oxi hòa tan (DO) bằng phương pháp Winkler.
- Xác định độ Oxi hóa học (COD) bằng phương pháp Kalipemanganat.
- Xác định hàm lượng NH4+: Sử dụng phương pháp so màu với thuốc
thử Nesler ở bước sóng λ = 420nm.
- Xác định hàm lượng NO3-: Sử dụng phương pháp so màu với axít
phenoldisunfonic ở bước sóng λ = 440nm.
- Xác định hàm lượng PO 43-: Sử dụng phương pháp so màu với thuốc
thử SnCl2 ở bước sóng λ = 650nm.
- Xác định hàm lượng SiO2 bằng phương pháp so màu với thuốc thử
K2CrO4 ở bước sóng λ = 440nm.
- Phương pháp so màu được thực hiện trên máy quang phổ tử ngoại.


×