Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Xây dựng hệ thống câu hỏi định hướng phát triển tư duy của học sinh trong dạy học chương cân bằng và chuyển động của vật rắn vật lí 10 chương trình chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 100 trang )

1

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng Đại học vinh
- - - - -- - - - -

LÊ THị TìNH

Xây dựng hệ thống câu hỏi định hớng phát triển
t duy của học sinh trong dạy học chơng
CÂN BằNG Và CHUYểN ĐộNG CủA VậT RắN
vật lí 10 chơng trình CHUẩN

Luận văn thạc sĩ giáo dục học

NGHệ AN - 2013


2
Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng Đại học vinh
- - - - -- - - - -

LÊ THị TìNH

Xây dựng hệ thống câu hỏi định hớng phát triển
t duy của học sinh trong dạy học chơng
CÂN BằNG Và CHUYểN ĐộNG CủA VậT RắN
vật lí 10 chơng trình CHUẩN
Chuyờn ngnh: LL&PPDh BM Vật lý
Mó s: 60.14.01.11



Luận văn thạc sĩ giáo dục học
Ngi hng dn khoa hc:
Pgs.ts. Nguyễn đình thớc

NGHệ AN - 2013


3

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình hoàn thành luận văn này, tác giả đã nhận được sự giúp
đỡ tận tình của các thầy cô giáo, bạn bè, một số đồng nghiệp, người thân.
Tác giả xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới những người đã giúp đỡ tác
giả hoàn thành luận văn này.
Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo, PGS.TS.
Nguyễn Đình Thước, người đã tận tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tác
giả trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn hai thầy giáo phản biện là PGS.TS. Hà
Văn Hùng và TS.Nguyễn Thị Nhị đã đóng góp những ý kiến quý báu để
luận văn được hoàn thiện.
Tác giả gửi lời cảm ơn tới các thầy giáo, cô giáo trong tổ PPGD Vật lí
và các thầy cô giáo giảng dạy khoa vật lý Trường Đại học Vinh.
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu, các giáo viên, tổ Lý
- Tin - Công nghệ trường THPT Quỳnh Lưu I.
Cuối cùng, Tác giả xin chân thành cảm ơn gia đình, đồng nghiệp và bạn
bè đã động viên, giúp đỡ Tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành Luận văn này.
Vinh, ngày 25 tháng 08 năm 2013
Tác giả

Lê Thị Tình


4

MỤC LỤC
LuËn v¨n th¹c sÜ gi¸o dôc häc.........................................................................1
LuËn v¨n th¹c sÜ gi¸o dôc häc.........................................................................2


5

DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG, SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ, BIỂU ĐỒ
LuËn v¨n th¹c sÜ gi¸o dôc häc.........................................................................1
LuËn v¨n th¹c sÜ gi¸o dôc häc.........................................................................2


6

DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CH
CHĐH
GV
HS
SGK
SBT
THPT
VR
TN

TNSP
ĐC

Câu hỏi
Câu hỏi định hướng
Giáo viên
Học sinh
Sách giáo khoa
Sách bài tập
Trung học phổ thông
Vật rắn
Thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm
Đối chứng


1

MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Ngành giáo dục và đào tạo đang tích cực, nỗ lực đổi mới phương pháp
dạy và học sao cho phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo của học
sinh. Nhiều hoạt động đổi mới phương pháp dạy học đã được triển khai với
nhiều hình thức khác nhau. Đặc biệt đối với môn Vật lý – một bộ môn khoa
học thực nghiệm càng có nhiều điều kiện, cơ hội để đa dạng hóa hình thức,
phương pháp dạy học. Để phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo của
học sinh thì chìa khóa của vấn đề là giáo viên phải đặt câu hỏi gợi mở kích
thích trí tò mò của học sinh, tạo hứng thú của học sinh trong học tập và định
hướng hoạt động tư duy, gợi mở đúng lúc.
Câu hỏi là phương tiện dạy học, là phương tiện tương tác giữa thầy và

trò. Bản chất câu hỏi là một “vấn đề”, “một bài toán nhận thức” mà học sinh
cần giải quyết trong quá trình học tập. Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay
là yêu cầu học sinh phải tích cực, tự lực hoạt động nhận thức, giáo viên không
thể làm thay mà chỉ thông qua hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh làm việc.
Vì thế, tương tác giữa học sinh và giáo viên được tăng cường thông qua hệ
thống câu hỏi.
Đặt câu hỏi khi lên lớp là một công việc rất đỗi quen thuộc với mỗi giáo
viên nhưng thực tế họ cũng chưa chú trọng tới vai trò của câu hỏi trong dạy học
nên việc đặt câu hỏi đạt kết quả chưa cao. Đặc biệt là hệ thống câu hỏi phát
triển tư duy của học sinh trong hoạt động dạy và học. Câu hỏi định hướng tư
duy có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng kiến thức mới, củng cố, mở
rộng, hoàn thiện kiến thức lí thuyết và rèn luyện cho học sinh khả năng giải
quyết vấn đề một cách tự lực. Trong thực tế chúng ta thấy rất ít tài liệu viết về
mảng câu hỏi định hướng phát triển tư duy trong quá trình dạy học.


2

Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Xây dựng hệ thống câu hỏi định
hướng phát triển tư duy học sinh trong dạy học chương “Cân bằng và
chuyển động của vật rắn” Vật lý 10, chương trình chuẩn”.
2. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng hệ thống câu hỏi định hướng phát triển tư duy của học sinh
trong dạy học chương “Cân bằng và chuyển động của vật rắn” vật lý 10
chương trình chuẩn và đề xuất phương án sử dụng vào qúa trình dạy học nhằm
góp phần bồi dưỡng tư duy và năng lực sáng tạo cho học sinh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Quá trình dạy học vật lý ở trường phổ thông.
- Câu hỏi định hướng phát triển tư duy của học sinh trong quá trình dạy

học vật lý.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Câu hỏi định hướng phát triển tư duy của học sinh trong dạy học chương
“Cân bằng và chuyển động của vật rắn” vật lý 10 chương trình chuẩn trong
dạy học ở lớp 10.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng được hệ thống câu hỏi định hướng phát triển tư duy của
HS trong dạy học chương “ Cân bằng và chuyển động của vật rắn” vật lý 10
chương trình chuẩn và sử dụng chúng vào dạy học một cách hợp lý thì sẽ bồi
dưỡng được tư duy khoa học cho HS, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu các đặc điểm của tư duy vật lý và các biện pháp tích cực
hóa hoạt động tư duy của học sinh.
5.2. Nghiên cứu lý luận về vai trò, đặc điểm của câu hỏi trong quá trình
dạy học.


3

5.3. Tìm hiểu thực tế về việc sử dụng câu hỏi trong dạy học vật lý ở
trường phổ thông.
5.4. Nghiên cứu chương “Cân bằng và chuyển động của vật rắn” vật lý
10 chương trình chuẩn.
5.5. Xây dựng hệ thống câu hỏi định hướng phát triển tư duy của học
sinh trong dạy học chương “Cân bằng và chuyển động của vật rắn” vật lý 10
chương trình chuẩn.
5.6. Thiết kế tiến trình dạy học một số bài học sử dụng câu hỏi định
hướng phát triển tư duy của chương “Cân bằng và chuyển động của vật rắn”
vật lý 10 chương trình chuẩn.
5.7. Thực nghiệm sư phạm

6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về câu hỏi trong quá trình dạy học.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi định hướng phát triển tư duy của học sinh
trong dạy học chương “Cân bằng và chuyển động của vật rắn” vật lý 10
chương trình chuẩn.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm:
- Điều tra thực trạng dạy học vật lý ở trường THPT.
- Thực nghiệm sư phạm.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
- Xử lí số liệu điều tra và kết quả thực nghiệm sư phạm.
7. Cấu trúc luận văn
Gồm 4 phần:
*Phần mở đầu:
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu


4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Giả thuyết khoa học
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Kết quả đóng góp của đề tài
* Phần nội dung: Gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lí luận về câu hỏi và sử dụng câu hỏi trong dạy học vật lý.
Chương 2: Xây dựng hệ thống câu hỏi định hướng phát triển tư duy của
học sinh trong dạy học chương “Cân bằng và chuyển động của vật rắn” vật lý
10, chương trình chuẩn.

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
* Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
8. Đóng góp của luận văn
Phân tích được vai trò, chức năng của câu hỏi với việc bồi dưỡng và phát
triển tư duy của học sinh trong dạy học vật lý.
Đề xuất được phương pháp xây dựng câu hỏi định hướng phát triển tư
duy cho quá trình dạy học vật lý.
Xây dựng được hệ thống câu hỏi định hướng phát triển tư duy trong dạy
học chương “Cân bằng và chuyển động của vật rắn” vật lý 10, chương trình
chuẩn.
Đề xuất các hình thức và biện pháp dạy học với câu hỏi định hướng phát
triển tư duy nhằm bồi dưỡng năng lực sáng tạo cho học sinh.


5

Chương 1
CỞ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG
CÂU HỎI ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TƯ DUY CỦA HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC VẬT LÝ
1.1. Dạy học phát triển, vận dụng vào dạy học vật lý
Trong lịch sử phát triển của lý luận dạy học đã từng tồn tại ba khuynh
hướng khoa học về quan hệ giữa dạy học và sự phát triển [9]:
- Khuynh hướng thứ nhất: (Do bác sĩ Phrêit, người Áo và nhà tâm lý học
Pi-a-giê, người Thụy Sĩ đề xuất) “Dạy học và sự phát triển, các quá trình này
không phụ thuộc vào nhau”.
- Khuynh hướng thứ hai: (Được nhà triết học tâm lý Giêm, người Mỹ trình
bày) “Từ chưa biết đến biết, chưa biết đến học thuộc, có nghĩa là đã phát triển”.
- Khuynh hướng thứ ba: (Do nhà tâm lý học người Nga Lep Vư-gốt-xki)

quan niệm rằng: “Dạy học và sự phát triển là hai quá trình không phụ thuộc
vào nhau nhưng luôn luôn có sự liên kết với nhau”.
Khuynh hướng thứ ba đã được Lep Vư-gốt-xki trình bày chi tiết trong
công trình “Tâm lý học sư phạm” và hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, khuynh hướng
này đã được phát triển trong các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học,
của các nhà sư phạm mà có thể kể đến như V.V. Đa-vư-đốp, A.I Le-ôn- chep,
Ga-lô-pe-rin, Lê-ông-chi-ép, En-kô-nhin, Dan-cốp... Qua đó tư tưởng khoa
học “dạy học phát triển” của Lep Vư-gốt-xki đã được kiểm chứng là đúng đắn
và đang được ứng dụng rộng rãi ở trong nhà trường. Dạy học truyền thống và
dạy học phát triển khác nhau ở điểm nào? Thông qua đặc trưng của hai hệ
thống có hai hình thức dạy học này chúng ta có thể nhận thấy rõ hơn những
điểm khác biệt (xem Bảng 1.1).
Những tư tưởng chính của dạy học phát triển:


6

- Kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo là cơ sở của nền tảng thông tin để phát triển
khả năng tiềm ẩn của con người.
Bảng 1.1: Bảng so sánh đặc trung dạy học truyền thống và dạy học
phát triển
Đặc trưng hệ thống
Mục đích giáo dục

Dạy học truyền thống
Dạy học phát triển
Chuyển giao kiến Phát triển năng lực (năng
thức, kỹ năng, kỹ xảo. khiếu, tài năng)

Phương châm chính

Em hãy làm như tôi
của nhà sư phạm
Quan điểm của nhà sư
Tôi đối với các em
phạm
Người chuyển thông
tin; người tuyên truyền
Vai trò của giáo viên
kiến thức; người giữ
quy phạm
Quan hệ của nhà sư
Thông báo kiến thức
phạm
Phong cách giảng dạy Dựa trên quyền uy
Mối quan hệ giữa GV-HS Độc thoại
Phương pháp phổ biến
Thuộc về thông tin
nhất của dạy học
- Thuộc về trực diễn
Các dạng tổ chức kiến
cho cả lớp
thức
- Thuộc về các nhóm
Hoạt động phổ biến Thụ động đến thiếu
nhất của HS
yêu thích
Được xuất hiện một
Động cơ đến với HS
cách ngẫu nhiên, không
thường xuyên, tạm thời

Được hình thành tạm
Không khí tâm lý giờ
thời, đôi lúc sau giờ
học
học là sự “trầm lặng”

Em hãy nghĩ như đang làm
Tôi cùng các em
Người tổ chức hoạt động cho
học sinh và cộng tác, cố vấn,
chỉ đạo quá trình học tập
“Vun trồng” con người
Dựa trên dân chủ
Đàm thoại
Đi tìm vấn đề
- Thuộc về các cá nhân
- Thuộc về các nhóm
Tự tìm vấn đề, hoạt động
nhận thức sáng tạo
Được hình thành thường
xuyên, có mục đích rõ rệt
Luôn luôn được hình thành
mục đích không khí hứng
khởi


7

- Xây dựng các vùng học tập dựa trên các vùng phát triển tích cực và
kích thích tiến tới vùng phát triển gần.

- Trình bày tài liệu học tập ở những điểm khó và mức độ đề cao theo
nguyên tắc học sinh cần khai thác những điểm chưa biết, tự thực hiện các bài
tập, yêu cầu theo chiều sâu của công việc trí tuệ.
- Dạy lướt qua những kiến thức đã biết trong đề tài, không dừng lại lâu
những vấn đề cũ.
Có thể nói cơ sở dạy học phát triển là tích cực hóa hoạt động độc lập của
HS. Theo V.V. Đavưđốp, dạy học phát triển trong các bài học nhất thiết cần
xây dựng theo sơ đồ:
Nhu cầu → động cơ → mục đích → điều kiện đạt được mục đích → quá
trình đạt được mục đích → kết quả.
Tùy vào những đề tài bài học vật lý cụ thể mà chúng ta có thể lựa chọn
các cách tổ chức hoạt động dạy học, phối hợp các phương pháp dạy học tích
cực để đạt hiệu quả tối ưu. Dạy học vật lý là sự phát triển trí tuệ của học sinh
được thực hiện trong quá trình hình thành tri thức và vận dụng tri thức. Sự
phát triển đó dựa trên và thể hiện sự phát triển ngôn ngữ, sự phát triển năng
lực quan sát, sự phát triển khả năng nhận ra cái bản chất trong hiện tượng, sự
phát triển tư duy logic và tư duy biện chứng, sự phát triển khả năng vận dụng
các phương pháp nhận thức khoa học tổng hợp. Quá trình hoạt động dạy và
học phải hướng tới sự phát triển của lĩnh vực thao tác tư duy và lĩnh vực kỹ
năng thực hành. Ta có thể xây dựng mô hình các thao tác hành động của HS
theo hướng độc lập tự lực theo mô hình 1.1.


8
Lĩnh vực thao
tác tư duy
Phân lớp
Hệ thống hóa

Tổng quát hóa


Trừu tượng hóa
So sánh
Cụ thể hóa
Tổng hợp
Quy nạp
Phân tích

Diễn dịch

HỌ
C
SIN
H

Làm việc với SGK,
tài liệu tham khảo

PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ
Giải những bài tập sáng tạo
Rút ra những nhận xét

Viết báo cáo tổng kết

Đối chiếu kết quả với lý thuyết
Diễn đạt bằng lời
Tiến hành thí nghiệm

Thiết kế thí nghiệm
Thực hiện quan sát


Làm bài tập

Mô hình 1.1:

Lĩnh vực kỹ
năng thực hành
Mô hình 1.1:
Các thao tác hoạt động hướng tới sự phát triển trí tuệ của học sinh


9

Trong đổi mới giáo dục ở nhà trường là vận dụng những phương pháp dạy
học theo quan điểm phân hóa, cá biệt hóa, phát huy tính tích cực, tự lực trong
hoạt động nhận thức, bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu hướng đến sự
phát triển tư duy khoa học và năng lực sáng tạo. Vì vậy quan điểm lí luận dạy
học hiện đại đều hướng tới cá nhân, chủ thể của hoạt động nhận thức, dạy
cách tự học. Đó cũng chính là những tư tưởng chủ đạo dạy học lấy người học
làm trung tâm.
Bản chất dạy học lấy người học làm trung tâm là người học độc lập, tự
lực tích cực hoạt động nhận thức thông qua hành động học. Hoạt động tư
duy khoa học của người học được bồi dưỡng và phát triển. Các phương
pháp dạy học tích cực đều cùng mục đích hướng đến sự phát triển trí tuệ
của học sinh.
1.2. Tư duy vật lý và các biện pháp tích cực hóa tư duy của học sinh
trong quá trình dạy học
1.2.1. Khái niệm tư duy vật lý
Tư duy vật lý là sự quan sát các hiện tượng vật lý, phân tích một hiện
tượng phức tạp thành những bộ phận đơn giản và xác lập giữa chúng mối

quan hệ định tính và định lượng của các hiện tượng và các đại lượng vật lý,
dự đoán các hệ quả mới từ các thuyết và vận dụng sáng tạo những kiến thức
khái quát thu được vào thực tiễn [8], [10].
1.2.2. Một số thao tác tư duy của học sinh thường dùng trong học
tập vật lý
Mục tiêu học tập vật lý của học sinh là hình thành kiến thức, kỹ năng phát triển tư duy và năng lực sáng tạo. Trong quá trình hình thành cơ sở lý
thuyết bao gồm khái niệm, những định luật, những nguyên lý và vận dụng
những tri thức đó vào thực tiễn đòi hỏi học sinh phải hoạt động tư duy một


10

cách tích cực thông qua những hành động và các thao tác tư duy tương ứng
trong hoạt động khám phá, tìm kiếm tri thức vật lý cho bản thân.
Trên con đường hình thành khái niệm, hình thành định luật và vận dụng
tri thức, một số thao tác tư duy vật lý của học sinh thường được huy động đó
là: so sánh, phân tích, tổng hợp, phân tích - so sánh, phân tích - tổng hợp, trừu
tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa…
Việc hình thành và phát triển tư duy vật lý thông qua hoạt động rèn
luyện các thao tác tư duy trong quá trình dạy học là một nhiệm vụ quan trọng
đối với giáo viên và học sinh.
Hành động học của mỗi học sinh đòi hỏi phải vận hành các thao tác tư
duy một cách nhanh nhạy và hợp lý. Nhờ đó mà hoạt động nhận thức của học
sinh đạt được hiệu quả trong hoạt động.
1.2.3. Các biện pháp tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh
trong dạy học vật lý.
Dựa vào cơ sở lý luận và thực tiễn trong dạy học vật lý trong nhà trường,
chúng ta có thể vận dụng một số biện pháp chính để tích cực hóa hoạt động tư
duy của học sinh [3], [8], [10], [11].
- Biện pháp 1: Tạo nhu cầu hứng thú, kích thích sự ham muốn hiểu

biết của học sinh
Từ những mâu thuẫn nội tại của quá trình nhận thức, học sinh khao khát
hiểu biết trước những “tình huống có vấn đề” hay là những bài toán nhận thức nảy
sinh ra trong quá trình học tập. Theo X.L. Rubinstein “Tư duy bắt đầu từ một vấn
đề hay một câu hỏi, từ sự ngạc nhiên hay sự thắc mắc, từ sự mâu thuẫn. Tình
huống có vấn đề như thế có tác dụng lôi cuốn cá nhân vào quá trình tư duy”.
Trong quá trình dạy học, giáo viên dạy vật lý thường tìm cách tạo ra
những “tình huống có vấn đề” dưới dạng như: tình huống phát triển, tình
huống lựa chọn, tình huống bế tắc, tình huống ngạc nhiên bất ngờ…


11

+ Tình huống phát triển: Khi học sinh đứng trước một vấn đề chỉ mới
được giải quyết một phần, một bộ phận, trong một phạm vi hẹp, cần phải được
tiếp tục phát triển hoàn chỉnh mở rộng sang những phạm vi mới, lĩnh vực mới.
Trên con đường sử dụng những kiến thức, kỹ năng, phương pháp đã biết cho
đến khi gặp mâu thuẫn không giải quyết được nhờ vốn hiểu biết đó thì gọi là
tình huống phát triển.
+ Tình huống lựa chọn: Một “vấn đề” có mang một số dấu hiệu quen
thuộc liên quan đến những kiến thức, phương pháp đã biết, nhưng không biết
chắc chắn nên dùng kiến thức nào hay dùng phương pháp nào sẽ cho kết quả
chắc chắn. Khi đó vấn đề là tình huống lựa chọn.
Tình huống lựa chọn được dùng phổ biến khi dạy các thuyết vật lý, lúc
này để trả lời câu hỏi nhận thức thì giáo viên đưa ra hai quan điểm trái ngược
nhau và cho học sinh lựa chọn một trong hai quan điểm. Sau khi học sinh đã
lựa chọn thì giáo viên phân tích tiếp. Làm như vậy học sinh như được chứng
kiến toàn bộ quá trình lịch sử của nhân loại khi trả lời câu hỏi đó. Trong
chương trình vật lý phổ thông, khi dạy các trường vật lý chúng ta cũng có thể
dùng tình huống lựa chọn để gây hứng thú cho học sinh.

+ Tình huống bế tắc: Trước một hiện tượng học sinh thấy, nhưng không
hiểu vì sao, coi đó là bí mật của tự nhiên. Học sinh được giao nhiệm vụ để giải
quyết nhưng chưa biết dựa vào đâu. Đó là tình huống bế tắc.
Ví dụ: Ta biết rằng nếu nối hai vật tích điện trái dấu có độ lớn bằng nhau
bằng một dây dẫn thì sau một thời gian ngắn hai vật sẽ trung hòa về điện. Vậy
do nguyên nhân nào mà nguồn điện có thể tạo dòng điện chạy khá lâu trong
mạch kín?(Dùng khi dạy bài “Nguồn điện”).
+ Tình huống ngạc nhiên bất ngờ: Tình huống này xảy ra theo chiều trái
với suy nghĩ thông thường (có tính chất nghịch lý, khó tin đó là sự thật).


12

+ Tình huống lạ: là tình huống có những nét đặc biệt lôi cuốn sự chú ý
của học sinh mà họ chưa bao giờ nghĩ tới và nhìn thấy.
Ví dụ: Lấy nước sôi đổ vào nửa chai, đậy nắp lại. Hiện tượng gì sẽ xẩy ra
khi thầy đổ nước lạnh vào trên chai?
- Biện pháp 2: Xây dựng logic nội dung phù hợp đối với đối tượng
học sinh
Muốn dạy học có hiệu quả thì phải dạy học phân hóa. Dạy học phân hóa
trong một lớp là dạy học phân hóa vi mô. Giáo viên cần phân nhóm học sinh
có cùng năng lực tư duy để giao nhiệm vụ một cách thích hợp. Rõ ràng việc
xây dựng logic nội dung trong tiến trình dạy học là cần thiết.
- Biện pháp 3: Rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy, những hành
động nhận thức phổ biến trong dạy học vật lý [3], [5], [6], [7], [8].
Trong quá trình hoạt động nhận thức vật lý, học sinh cần thực hiện các thí
nghiệm, do đó học sinh cần đến các thao tác chân tay như: bố trí thí nghiệm,
thực hiện các thao tác đo lường, sử dụng các phép đo, ghi chép số liệu, tính
toán, xử lí sai số…; các thao tác tư duy như: so sánh, phân tích, khái quát hóa,
trừu tượng hóa…; các hành động nhận thức như: xác định bản chất của sự vật

hiện tượng, tìm nguyên nhân, xác định các mối quan hệ…
Việc rèn luyện kỹ năng, các thao tác tư duy và những hành động nhận
thức của học sinh có thể thực hiện có hiệu quả nếu học sinh được rèn luyện
một cách thường xuyên. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh tự lực hoạt
động tư duy bằng các cách sau:
+ Tổ chức quá trình học tập, trong từng giai đoạn làm xuất hiện tình
huống có vấn đề, bắt buộc học sinh phải huy động các thao tác tư duy, các
hành động nhận thức thì mới giải quyết được vấn đề.
+ Giáo viên đưa ra những câu hỏi định hướng phát triển tư duy cho học
sinh, giúp học sinh hành động tư duy đúng.


13

- Biện pháp 4: Dạy học sinh nhận thức theo phương pháp nhận thức của
các nhà vật lý.
Việc học tập của học sinh là quá trình nhận thức tích cực và quá trình
học tập có nhiều nét giống quá trình nhận thức khoa học của các nhà khoa
học. Dạy cho người học phương pháp nhận thức môn học là quan trọng và có
ý nghĩa to lớn. Chúng ta có thể dạy cho học sinh các phương pháp nhận thức
cần thiết trong hoạt động học vật lý [5], [8], [10].
• Phương pháp phân tích, tổng hợp.
• Phương pháp trừu tượng hóa và cụ thể hóa.
• Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch, phương pháp suy lý
bằng tương tự.
• Phương pháp lý thuyết.
• Phương pháp thực nghiệm.
• Phương pháp mô hình.
Dạy cho học sinh phương pháp nhận thức vật lý là đã dạy cho học sinh
cách học vật lý.

- Biện pháp 5: Rèn luyện ngôn ngữ vật lý cho học sinh.
Ngôn ngữ là hình thức phản ánh tư duy. Việc rèn luyện cho học sinh
phát biểu, trình bày những kiến thức vật lý thông qua ngôn ngữ nói và ngôn
ngữ viết đúng ngôn ngữ khoa học vật lý là cơ sở đảm bảo cho ngôn ngữ bên
trong phát triển, đó là tư duy vật lý của các em phát triển.
1.3. Câu hỏi - Phương tiện dạy học, tích cực hóa hoạt động nhận
thức của học sinh.
1.3.1. Câu hỏi
Câu hỏi là dạng cấu trúc ngôn ngữ diễn đạt một yêu cầu, một đòi hỏi, một
mệnh đề cần được giải quyết. Có thể hiểu câu hỏi là một mệnh đề trong đó


14

chứa một vấn đề chưa biết. Câu hỏi được sử dụng vào những mục đích khác
nhau ở những khâu khác nhau của quá trình dạy học [3], [4].
Câu hỏi thường dùng trong dạy học là câu hỏi đưa ra các tình huống về lí
thuyết hoặc thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng giữa kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo đã biết với cái chưa biết. Mâu thuẫn này kích thích học sinh tìm
cách giải quyết. Vì vậy giáo viên cần đưa ra câu hỏi có sự định hướng phát
triển tư duy của học sinh để học sinh suy nghĩ và trả lời trùng với câu trả lời
kỳ vọng của mình. Trong quá trình dạy học giáo viên có thể dùng hệ thống
câu hỏi định hướng phát triển tư duy cho học sinh để hoàn thành từng mục
tiêu dạy học.
Ví dụ có thể định hướng tư duy để học sinh đưa ra ý nghĩa của chiết suất
tuyệt đối như sau: sau khi thông báo về mỗi quan hệ giữa vận tốc ánh sáng và
chiết suất tuyệt đối, GV có thể sử dụng các câu hỏi định hướng tư duy sau:
• Tốc độ của ánh sáng sẽ thay đổi như thế nào khi ánh sáng truyền từ
chân không (n1 = 1) sang môi trường có chiết suất tuyệt đối n2 = 2?
• Chiết suất tuyệt đối của một môi trường cho ta biết điều gì?

1.3.2. Quy trình xây dựng câu hỏi cho quá trình dạy học
Câu hỏi là một phương tiện dạy học, nên việc hỏi và sử dụng câu hỏi cần
tuân thủ một quy trình nhất định. Giáo viên có thể lựa chọn cách thích hợp
nhất với khả năng và ý đồ của mình nhưng tối thiểu phải qua những bước cơ
bản sau: [2], [4], [12].
Bước 1: Chuẩn bị câu hỏi ban đầu.
Thiết kế hay hình thành hệ thống câu hỏi là việc làm trước khi tiến hành
bất kì một nhiệm vụ dạy học nào. Trong bước chuẩn bị phải xác định nội
dung học tập của học sinh, cần phải hỏi về những gì, hỏi để làm gì. Kiểu và
hình thức ngôn ngữ của câu hỏi chưa cần được khẳng định nhưng cần dự kiến
hai nhóm câu hỏi: Nhóm một là câu hỏi mục tiêu nội dung học tập cơ bản, có


15

liên quan đến những ý chính của bài học, khoảng 3 đến 4 câu hay 3 đến 4 ý
chính; Nhóm hai là câu hỏi mở rộng hay câu hỏi bổ sung, các câu hỏi này
được chuẩn bị dưới dạng các tình huống dự kiến, giả định còn câu hỏi cụ thể
thì chưa xác định được vì loại câu hỏi này chỉ thực sự xuất hiện tuỳ tình
huống cụ thể. Các câu hỏi trong nhóm này tuy không chuẩn bị chính xác được
nhưng phải có ý định rõ ràng vì chúng có vai trò quyết định trong việc thảo
luận, giữ cho các tư tưởng nhận thức liên tục, các tình huống được sinh động
và hấp dẫn.
Bước 2: Đối chiếu các câu hỏi với đặc điểm và trình độ khác nhau
của học sinh.
Trước khi đặt câu hỏi cần phân tích đặc điểm và tính chất của học sinh sẽ
sử dụng sao cho đáp ứng tốt các trình độ tri thức, kĩ năng và kinh nghiệm của
học sinh về chủ đề hay nội dung bài học. Giáo viên có thể tìm hiểu đặc điểm
về cá nhân trong nhóm để định hướng tư duy về kiểu, loại câu hỏi đồng thời
lựa chọn hình thức ngôn ngữ thích hợp. Để thực hiện tốt trong bước này thì

câu hỏi phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Tính rõ ràng, sáng sủa.
Câu hỏi phải đơn giản, tránh đánh đố hoặc có thể hiểu theo nhiều cách và
đa nghĩa, dễ làm học sinh hoang mang. Câu hỏi phải rõ nghĩa, rõ ý, tập trung
vào một vấn đề có liên quan đến một chủ đề hoặc khái niệm chủ yếu. Không
nên chọn những câu hỏi quá dài, quá nhiều từ mà ý lại tản mạn. Còn những
câu hỏi khó, phức tạp, vừa phân kì vừa có tính vấn đề lại vừa trừu tượng, vừa
nghiêng về lí thuyết, vừa sâu sắc về giá trị tuy không quá tải với phần lớn học
sinh song sẽ mất rất nhiều thời gian đặt câu hỏi, giải thích và dễ lạc đề, làm
học sinh mất phương hướng suy nghĩ đồng thời chúng có thể làm cho giáo
viên lúng túng khi nảy sinh những tình huống bất ngờ đặc biệt khi học sinh
hoàn toàn không trả lời nổi.


16

+ Tính thách thức.
Câu hỏi không nên lặp đi lặp lại, đơn điệu về từ ngữ và cấu trúc; không
nên hỏi những câu hỏi quá dễ, ai cũng trả lời được. Câu hỏi cần phải làm cho
người trả lời cảm thấy hãnh diện và thoả mãn khi trả lời được, tránh những
câu hỏi mà đáp án đã có sẵn trong sách giáo khoa. Tính thách thức tương
đồng với tính vấn đề nhưng có thể có câu hỏi thách thức nhằm khơi gợi cảm
xúc và khuyến khích thái độ tích cực.
+ Tính định hướng nhóm hay số đông.
Câu hỏi không dành riêng cho cá nhân học sinh nào cả mà hướng vào cả
nhóm hay lớp. Nếu câu hỏi được chuẩn bị để cho cá nhân trả lời thì đó là một
sai lầm. Nếu làm như vậy thì kĩ thuật hỏi không còn giá trị hỗ trợ giáo viên
tác động tích cực đến học sinh. Do định hướng nhóm hay số đông, câu hỏi sẽ
tác động đến nhiều người, tác động ấy có ảnh hưởng khuyến khích sự tham
gia, cùng suy nghĩ, sự đồng cảm, sự liên kết và hợp tác hành động, quan hệ

thân thiện và ý thức trách nhiệm chung cho nhiều học sinh. Để làm rõ tính
định hướng nhóm hay số đông, giáo viên phải chọn câu hỏi và cách biểu đạt
sao cho học sinh có cảm giác đó không phải là giáo viên hỏi mà cảm thấy đó
là các bạn hỏi, là thắc mắc từ trong lòng mình, là giáo viên nói hộ vấn đề hay
ý tưởng của mình. Câu hỏi phải gây phản ứng ở nhiều học sinh, ai cũng thấy
mình có trách nhiệm phải giải đáp, ai cũng phải suy nghĩ, do đó không khí
học tập trong nhóm hay lớp sôi nổi. Các đại từ chỉ định ở câu hỏi nên dùng ở
số nhiều, tránh gọi đích danh một học sinh, tránh dùng ngôi "tôi" mà nên
dùng "chúng ta", "lớp ta", "nhóm ta", "vấn đề này của chúng ta"...
+ Tính vừa sức đối với từng đối tượng học sinh.
Đây là yêu cầu chung cho mọi phương pháp dạy học. Câu hỏi phải nằm
trong giới hạn của khả năng tri giác thông tin ngôn ngữ, hiểu ngữ nghĩa và ý
trong câu, kinh nghiệm cảm giác các tình huống giao tiếp, năng lực tư duy,


17

tưởng tượng, khả năng độc thoại và diễn đạt ý của học sinh. Nhưng yêu cầu
đặc biệt ở đây là cần sử dụng hài hoà, cân bằng các kiểu câu hỏi; tránh dùng
câu hỏi quá khó, quá phức tạp, có tính vấn đề cao, quá đa trị đối với học sinh
yếu kém nhưng cũng không nên dùng những câu hỏi quá dễ, quá đơn giản,
đơn điệu đối với những học sinh này. Đối với học sinh giỏi cũng cần tránh hai
thái cực như vậy.
+ Tính biến đổi hay tính tình huống.
Câu hỏi được đưa ra phải linh hoạt. Trong một số trường hợp có thể có
câu đã định dùng rồi phải bỏ, có những câu hỏi khi tình thế đòi hỏi sẽ phải
nhanh chóng đưa ra. Không cần hỏi lấy được, nhưng phải hỏi khi có cơ hội
thích hợp. Tập hợp câu hỏi cần hỗn hợp về thể loại, về độ khó, về khuynh
hướng và về tính đối tượng. Cần tận dụng các câu hỏi khác nhau, hình dung
rõ khi nào và làm thế nào có thể sử dụng những câu hỏi nào để dạy học có

hiệu quả cao.
Bước 3: Diễn đạt câu hỏi bằng lời sao cho đạt mục đích tốt nhất.
Đó là tìm cách phản ánh tốt nhất các ý và nội dung sẽ đưa vào tương tác
hỏi - đáp dưới hình thức ngôn ngữ hội thoại hay đối thoại, xác định các câu
hỏi bằng hình thái vật chất chứ không còn là ý tưởng nữa. Những từ và cụm
từ nghi vấn thường dùng là "ai", "cái gì", "khi nào", "ở đâu", "điều kiện nào",
"hiện tượng nào"... Những từ tương tự như thế về chức năng ngữ pháp thường
được sử dụng ở các câu hỏi hội tụ, đơn trị, đơn giản, trình độ thấp, nhằm vào
sự kiện, các câu hỏi tái hiện. Yêu cầu liên tưởng, ôn tập, hệ thống hoá, tìm
hiểu kinh nghiệm của học sinh cần đến các câu hỏi trình độ cao, khó, đa trị,
phức tạp, có tính vấn đề, gợi suy nghĩ, suy luận khái quát hoá. Để xây dựng
các câu hỏi này người ta thường dùng các từ hỏi như "tại sao", "vì sao", "như
thế nào", "do đâu", "làm thế nào", "nguyên nhân nào", "sẽ ra sao". Với cùng
một nội dụng, ý tưởng và mục đích, câu hỏi càng ngắn gọn, ít từ, ít mệnh đề,


18

cấu trúc đơn giản, ít thuật ngữ mới lạ càng tốt. Trong câu hỏi nên tránh các
hình thức tu từ, tránh từ láy, từ điệp, điệp ngữ, tránh dùng nghĩa bóng và tránh
từ đồng âm khác nghĩa.
1.3.3. Tiêu chuẩn về câu hỏi sử dụng trong dạy học
Câu hỏi sử dụng trong quá trình dạy học phải đảm bảo các yêu cầu sau [10]:
- Câu hỏi phải được diễn đạt chính xác về ngữ pháp và nội dung khoa học.
- Câu hỏi phải diễn đạt chính xác điều định hỏi.
- Nội dung câu hỏi phải đáp ứng đúng đòi hỏi của sự định hướng hành
động tư duy của học sinh trong tình huống cụ thể đang nghiên cứu.
- Câu hỏi phải vừa sức, phù hợp với năng lực tư duy và năng lực nhận
thức của người học.
1.3.4. Các dạng câu hỏi trong dạy học

Câu hỏi có thể được chia thành các kiểu dựa vào những dấu hiệu khác nhau:
* Theo quá trình tư duy từ thấp đến cao thì câu hỏi được chia thành hai
loại: Câu hỏi cấp thấp và câu hỏi cấp cao [12].
+ Câu hỏi cấp thấp. Loại câu hỏi này nhấn mạnh vào trí nhớ và nhớ lại thông
tin. Những câu hỏi này tập trung vào các dự kiện và không kiểm tra được sự
hiểu biết hay kĩ năng giải quyết vấn đề của học sinh. Chúng tương ứng với
các quá trình nhận thức thấp. Các câu hỏi cấp thấp thường dùng các từ hỏi
như đại lượng nào, điều kiện nào, khi nào, thuyết nào, định luật nào.
Ví dụ: Gia tốc xuất hiện trong những chuyển động nào?
Định luật nào thể hiện mỗi quan hệ giữa gia tốc vật thu được và lực tác
dụng? Người ta dùng thuyết vật lý nào để giải thích ba định luật về chất khí?
Trong quá trình dạy học, câu hỏi cấp thấp được dùng để đánh giá cho tư
duy phức tạp và trừu tượng. Dùng loại câu hỏi này giáo viên có thể biết được
mức độ của học sinh có thể xử lí được với các câu hỏi yêu cầu phải phân tích,
tổng hợp và giải quyết vấn đề hay không? Trong quá trình dạy học giáo viên


19

có thể dùng loại câu hỏi này khi dạy học các đối tượng học sinh có trình độ
nhận thức thấp. Câu hỏi cấp thấp có thể dùng để củng cố việc học đặc biệt là
đối với những học sinh hổng kiến thức, đang phát triển kiến thức nền và cần
phải trải qua các câu hỏi đơn giản để xây dựng sự tự tin của họ trong học tập.
Theo các nhà nghiên cứu, câu hỏi cấp thấp hiệu quả đối với học sinh khi kiến
thức cần xây dựng là sự mở rộng của kiến thức trước đó.
+ Câu hỏi cấp cao: Loại câu hỏi này vượt ra khỏi trí nhớ, thông tin dữ
liệu, yêu cầu thông tin phức tạp và trừu tượng. Chúng thường dùng các từ hỏi
như như thế nào hay tại sao.
Ví dụ:
Hiện tượng sẽ xẩy ra như thế nào khi ánh sáng chiếu tới mặt phân cách

giữa hai môi trường trong suốt?
Tại sao nói: "lực ma sát nghỉ đóng vai trò là lực phát động trong việc di
chuyển của người và động vật"?
Trong thực tế dạy học, loại câu hỏi này thích hợp khi dạy các đối tượng
học sinh khá giỏi còn đối với những học sinh thiếu kiến thức nền thì phải cần
nhiều câu hỏi cấp thấp. Chính vì vậy mà giáo viên cần phải trang bị cho học
sinh kiến thức cơ bản, những kĩ năng cần thiết trước khi cho học sinh tiếp xúc
với câu hỏi cấp cao. Trong quá trình dạy học, để phát triển tư duy khoa học
của học sinh thì ta phải dùng nhiều câu hỏi cấp cao.
* Theo kiểu câu trả lời được yêu cầu thì có loại câu hỏi hội tụ và câu hỏi
phân kì.
+ Câu hỏi hội tụ: Loại câu hỏi này thường có một câu trả lời đúng. Vì lí
do này mà chúng thường bị xác nhận nhầm là các câu hỏi kiến thức cấp thấp,
nhưng chúng cũng có thể được xây dựng theo các cách yêu cầu của học sinh
lựa chọn các khái niệm phù hợp và tìm ra những vấn đề đề cập đến cấu trúc
và các bước. Các câu hỏi hội tụ có thể liên quan đến dữ liệu logic và phức tạp,


×