Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

sự điều chỉnh chính sách đối ngoại Trung Quốc 30 năm trước và sau cải cách 1978

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.16 KB, 10 trang )

1

SỰ THAY ĐỔI TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI TRUNG QUỐC
30 NĂM TRƯỚC VÀ SAU CẢI CÁCH
1. Sơ lược chính sách đối ngoại Trung Quốc 30 năm trước Cải cách

(1949 – 1977)
Từ khi ra đời đến cuối những năm 50 của thế kỷ XX, chiến lược ngoại giao
của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa là “nhất biên đảo” (đứng hẳn về
một phía). Đặc điểm cơ bản của chiến lược này là Trung Quốc đứng hoàn toàn
về phe Liên Xô trong cùng hệ thống xã hội chủ nghĩa, đối lập với hệ thống tư
bản chủ nghĩa cho Mỹ đứng đầu. 1 Việc Trung Quốc lựa chọn chiến lược ngoại
giao trên là phù hợp với lợi ích quốc gia và niềm tin vào chủ nghĩa xã hội của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc lúc bấy giờ, từ đó mà nương dựa vào “người anh
cả” Liên Xô, nhờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô để bước đầu xây dựng nền móng
công nghiệp cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Đánh dấu cho tình hữu nghị
Xô-Trung gia đoạn này là ký kết "Điều ước đồng minh hữu nghị tương trợ
Trung - Xô" ký ngày 14/2/1950.2
Tuy nhiên, vào cuối những năm 50 đầu những năm 60 của thế kỷ XX, vì một
số lý do như lãnh đạo mới của Liên Xô- Nikita Khrushchev bắt đầu có những
bài phát biểu và động thái muốn chung sống hoà bình giữa cộng sản và tư bản điều Trung Quốc không thể chấp nhận vào thời điểm ấy vì nó đe doạ trực tiếp
đến chính sách “nhất biên đảo” của Trung Quốc. Các biểu hiện cho sự thiếu
ủng hộ Trung Quốc như Liên Xô không giữ lời hứa từng cam kết trước đây là
giúp Trung Quốc phát triển vũ khí nguyên tử, từ chối hỗ trợ Trung Quốc trong
cuộc tranh chấp biên giới với Ấn Độ, một quốc gia khá thân thiện với Liên
Xô… làm cho Mao Trạch Đông thấy rằng Liên Xô không còn sẵn sàng giúp đỡ
Trung Quốc như xưa và nếu có tranh chiến với Mỹ, chắc chắn Liên Xô sẽ để
1 Lê Văn Mỹ (chủ biên), Ngoại giao Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa 30 năm cải cách mở

cửa, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội (2009), trang 16.
2 Lê Văn Mỹ, Những chiến lược và chính sách ngoại giao của Trung Quốc đối với Mỹ,



/>

2

Trung Quốc “tự lực cánh sinh”. Quan điểm của hai bên ngày càng bất đồng,
mối quan hệ hữu nghị giữa 2 nước trở nên căng thẳng dần. Vì vậy Trung Quốc
lúc này thực hiện chiến lược ngoại giao 2 tuyến: vừa chống “xét lại” (Liên Xô)
vừa chống “đế quốc” (Mỹ) với tư tưởng chỉ đạo “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa,
chủ nghĩa xét lại và tất cả bọn phản động thế giới”. Chiến lược chẳng những
không giúp tình hình ngoại giao của Trung Quốc khả quan hơn mà còn đẩy
Trung Quốc vào sự cô lập trên vũ đài quốc tế, làm ảnh hưởng của Trung Quốc
yếu hơn, và cơ bản lúc này, Trung Quốc nằm ngoài hệ thống quốc tế.
Năm 1969, quan hệ Xô - Trung rạn nứt trong cuộc xung đột biên giới giữa
hai nước. 3 Vì vậy, liên kết với Mỹ để chống Liên Xô là ý đồ ngoại giao của
Trung Quốc lúc bấy giờ. Năm 1972, sau khi tổng thống Mỹ Nixơn sang thăm
Trung Quốc, Mao Trạch Đông đưa ra chiến lược “một chiến tuyến, một mảng
lớn” nhằm thành lập một mặt trận thống nhất với Mỹ để chống Liên Xô. Đây
cũng là tư tưởng chủ đạo trong chiến lược đối ngoại của Trung Quốc trong
đến cuối những năm 70 của thế kỷ XX. 4 Tuy chính sách ngoại giao quay ngược
mũi giáo về phía Liên Xô nhưng Trung Quốc vẫn là quôc gia theo CNXH.
Chính sách ngoại giao đổi hướng này vẫn không làm vị thế của Trung Quốc
3 Ngày 2/3/1969, một đơn vị biên phòng Xô Viết và các lực lượng Trung Quốc bất ngờ rơi

vào xung đột. Cả hai đều cho rằng bên kia tấn công trước. Quân Xô Viết bị chết 31 người và
bị thương 14 người. Sau đó họ trả đũa bằng cách pháo kích vào các nơi tập trung quân Trung
Quốc tại Mãn Châu và tấn công đảo Trân Bảo bằng vũ khí bí mật pháo phản lực BM-21.
Liên Xô tuyên bố rằng Quân đội Trung Quốc dùng chiến thuật tiến công trong khi xung
quanh đầy thường dân, nông dân, và súc vật. Sau một vài lần đụng độ liên tiếp trong khu vực
này và trong Trung Á, mỗi bên chuẩn bị cho cuộc đối đầu hạt nhân.

Chỉ khi Thủ tướng Liên Xô Aleksey Kosygin viếng thăm Bắc Kinh trên đường trở về sau tang
lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hà Nội thì một giải pháp chính
trị đã làm nguội dần tình hình. Tranh chấp biên giới tạm ngưng, nhưng chưa thật sự được dàn
xếp ổn thoả, và cả hai phía tiếp tục tăng cường lực lượng quân sự của họ dọc theo biên giới.

4 Lê Văn Mỹ (chủ biên), Ngoại giao Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa 30 năm cải cách mở

cửa, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội (2009), trang 17


3

nâng cao hơn, Trung Quốc vẫn chỉ là một quốc gia có vai trò thứ yếu trong
cộng đồng quốc tế lúc này.
 Có thể nhận thấy, ngoại giao Trung Quốc 30 năm trước cải cách là một sự

lựa chọn rằng Trung Quốc sẽ theo Liên Xô hay theo Mỹ. Trung Quốc
không đủ mạnh để gây dựng một hướng phát triển tự chủ, độc lập mà luôn
“nương dựa” vào 1 trong 2 cường quốc hàng đầu trên. Chính vì vậy khi
Liên Xô hay Mỹ có dấu hiệu bất ổn , không “che chở” cho Trung Quốc
được nữa thì Trung Quốc lại hoang mang, thay đổi chính sách ngoại giao
chọn bên còn lại hay thậm chí có thời điểm nghi ngờ cả 2 bên, không ủng
hộ bên nào và trở nên cô lập trong hệ thống quốc tế. Chính vì vậy, một
bước ngoặt cho sự thay đổi lớn nhất định sẽ xuất hiện để cứu Trung quốc ra
khỏi tình trạng trì trệ và yếu thế lúc bấy giờ.
2. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại Trung Quốc 30 năm sau Cải cách
(1978-2008)
2.1. Bước đầu cải cách:
Nhận thấy sự trì trệ trong kinh tế xã hội và sự yếu thế trên trường quốc tế
do chính sách, từ năm 1978, Trung Quốc bắt đầu chủ trương chuyển hẳn trọng

tâm sang xây dựng kinh tế, tiến hành cải cách mở cửa, chuyển từ chính sách
“một chiến tuyến một mảng lớn” sang chính sách ngoại giao tăng cường “hoà
bình, độc lập, tự chủ”. Đại hội lần XII của ĐCS Trung Quốc (9/1982) đánh dấu
mốc chuyển quan trọng chính thức trong lịch sử ngoại giao Trung Quốc thời kỳ
mới, khẳng định đường lối, chính sách đối ngoại “hoà bình, độc lập, tự chủ”
và chủ trương “kiên định chính sách mở cửa với nước ngoài trên cơ sở bình
đẳng cùng có lợi. 5
Tuy vị trí và vai trò Trung Quốc được tăng cường rõ rệt nhưng do bước
đầu cải cách, còn nhiều giới hạn nên vẫn chưa có những thay đổi căn bản nào.
Nhìn chung trên thế giới vẫn là sự mâu thuẫn của Liên Xô và Mỹ, chưa có
quốc gia nào thực sự xem Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh hay mối đe doạ
chủ yếu.
2.2.

Thời kỳ “trỗi dậy” của Trung Quốc

5 Lê Văn Mỹ (chủ biên), Ngoại giao Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa 30 năm cải cách mở

cửa, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội (2009), trang 18


4

Từ những năm 90 của thế kỳ XX đến nay là thời kỳ “trỗi dậy”của Trung
Quốc về cả kinh tế, xã hội và vị thế trong hệ thống quốc tế. Năm 1991, Liên Xô
và hệ thống XHCN ở Đông Âu tan rã, Trung Quốc trở thành “lô cốt cuối cùng
của chủ nghĩa cộng sản”, là đối tượng chủ yếu của “diễn biến hoà bình” trong
mắt Mỹ và các nước phương Tây. Tuy nhiên Trung Quốc với chính sách cải
cách mở của nên sức mạnh tổng hợp không ngừng gia tăng, Trung Quốc không
ngừng tham gia toàn diện vào hệ thống quốc tế, tích cực chủ động triển khai

ngoại giao đa phương, vai trò của đất nước đang phát triển lớn nhất thế giới
này không ngừng tăng trong các công việc của khu vực và quốc tế.
Chính vì sự lớn mạnh nhanh chóng này mà Trung Quốc trở thành đối tượng
chủ yếu của Mỹ và Nhật Bản. Trên thế giới, Liên Xô tan rã, đối mặt với đủ mọi
khó khăn, Nhật tuy là cường quốc kinh tế thứ 2 nhưng do khủng hoảng kéo dài
cũng khiến Nhật gặp nhiều thách thức chưa kịp giải quyết, vì vậy, trong phạm
vi toàn cầu, việc Mỹ xem Trung Quốc là đối thủ chủ yếu ngày càng rõ. Còn
trong khu vực, Nhật e dè trước sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ dành vị trí chỉ
đạo tại châu Á còn các nước ASEAN cũng lo ngại hoài nghi không biết người
láng giềng Trung Quốc đang phát triển dữ dội này sẽ có những động thái gì ảnh
hưởng đến tình hình chung trong khu vực. Chính vì tình thế đó mà Trung Quốc
phải cực kỳ cẩn trọng trong mỗi cử chỉ ngoại giao vì nếu sơ suất, nó sẽ gây
phản ứng dây chuyền trong cộng đồng quốc tế.
Để ứng phó với tình hình mới này, Trung Quốc triển khai chiến lược
ngoại giao mới được thể hiện trên 2 lĩnh vực là tư tưởng và thực tiễn, trong
đó thực tiễn đi trước sau đó mới được nâng lên thành tư tưởng 6
Về thực tiễn: Trung Quốc tiến hành hàng loạt các hoạt động ngoại giao với
phương châm “Nước lớn là then chốt, các nước láng giềng xung quanh là coi
trọng hàng đầu, các nước đang phát triển là cơ sở, quan hệ đa phương là vũ
đài”.


Với chủ trương “Nước lớn là then chốt”, Trung Quốc đặc biệt coi trọng
quan hệ với các nước phát triển, chủ yếu là Mỹ. Một mặt Trung Quốc

6 Lê Văn Mỹ (chủ biên), Ngoại giao Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa 30 năm cải cách mở

cửa, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội (2009), trang 21



5

nêu rõ không thách thức lợi ích của Mỹ, mà sẽ làm “một nước lớn có
trách nhiệm”. Mặt khác, Trung QUốc thường xuyên tổ chức các cuộc
gặp gỡ cấp cao với Nga, Nhật, Ấn Độ, EU để tăng cường quan hệ hợp
tác và tin cậy lẫn nhau.
• Với chủ trương “các nước láng giềng là coi trọng hàng đầu”, Trung
Quốc triển khai “Ngoại giao láng giềng” nhằm xây dựng môi trường
khu vực hoà bình để có lợi cho sự phát triển của Trung Quốc. “Ngoại
giao láng giềng” thể hiện qua việc Trung Quốc tích cực tham gia xây
dựng cơ chế đa phương, nhanh chóng phát triển quan hệ với ASEAN.
Về kinh tế, Trung Quốc ký với ASEAN Hiệp định khung Hợp tác KT
toàn diện Trung Quốc – ASEAN (năm 2002), xác định đến năm 2010
xây dựng xong khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN. Về an
ninh chính trị, năm 2002, Trung Quốc ký với ASEAN Tuyên bố về ứng
xử của các bên ở khu vực biển Đông (DOC). Năm 2003, Trung Quốc
tham gia Hiệp ước Hữu nghị hợp tác ASEAN, trở thành nước lớn đầu
tiên ngoài khu vực tham gia hiệp ước này. Bên cạnh ASEAN, Trung
Quốc cũng đẩy mạnh việc xây dựng cơ chế đa phương với Nga và khu
vực Trung Á thông qua việc cùng các nước khu vực này sáng lập tổ
chức hợp tác Thượng Hải (SCO) 7và đặc biệt, Trung Quốc có nhiều
đóng góp trong lập trường trung gian và tổ chức các lần đàm phán 3 bên
và 6 bên tại Bắc Kinh để làm dịu tình hình căng thẳng và giải quyết vấn


để hạt nhân ở Bắc Triều Tiên …8
Từ những hành động ngoại giao của Trung Quốc, ta dễ dàng nhận thấy
giai đoạn này, Trung Quốc rất coi trọng ngoại giao đa phương. Trung
Quốc đang chủ trương muốn làm bạn với các nước lớn, làm một “người


7 Tháng 6/2001, nguyên thủ 6 nước Trung Quốc, Nga, Kazashstan, Tajikistan, Kyrgyzstan và

Uzbekistan lần đầu hội ngộ tại Thượng Hải và tiến hành lý kết “Tuyên bố thành lập tổ chức
Hợp tác Thượng Hải”.
Trương Thanh Mẫn (dịch: Nguyễn Thị Thu Hằng), Ngọai giao Trung Quốc, NXB Truyền bá
Ngũ Châu và NXB Tổng hợp TPHCM, 2011, trang 44
8 Ngọai giao Trung Quốc, Sđd, trang 68


6

anh” giúp đỡ và tìm hiểu, coi trọng các nước láng giềng và các nước đang
phát triển khác để ngày càng xây dựng một hình ảnh Trung Quốc mới,
một Trung Quốc xem trọng hợp tác hoà bình, hoà nhã giải quyết các mối
quan hệ quốc tế để ngày càng tiến sâu hơn và dành thế chủ động, uy tín
hơn trên trường quốc tế.
Về tư tưởng: thể hiện chủ yếu qua 3 mặt, một là quan niệm mới và an ninh, hai
là lý luận về “trỗi dậy hoà bình”, ba là lý luận về “thế giới hài hoà”


Nội dung cốt lõi của quan niệm mới về an ninh là “tin cậy lẫn nhau,
cùng có lợi, bình đẳng, hợp tác”. Trung Quốc chủ trương đối thoại để
tăng cường lòng tin, hợp tác để tìm kiếm an ninh, giải quyết tranh chấp
bằng biện pháp hoà bình, phản đối chạy đua vũ trang. Đây được xem là

ý tưởng an ninh tập thể mang tính hợp tác.
• Lý luận về “trỗi dậy hoà bình” sau được đổi thành “phát triển hoà bình”
có nghĩa là Trung Quốc không đi theo con đường thách thức trật tự thế
giới mà sẽ hợp tác phát triển cùng có lợi, cùng thắng lợi chứ không đe



doạ trật tự hiện tại của thế giới
“Thế giới hài hoà” là ý tưởng mới của Trung Quốc về việc các nước “tin
cậy lẫn nhau, cùng có lợi, bình đẳng, hợp tác”. Nội dung chủ yếu của lý
luận này bao gồm 4 phương diện “dân chủ, hoà hợp, lẽ phải, bao dung”

được tuyên bố trong Đai hội lần XVII của ĐCS Trung Quốc (2007). 9
3. Đánh giá sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung Quốc sau 30
năm cải cách
3.1. Tích cực

Nếu như Trung Quốc trước cải cách là một quốc gia yếu thế, cô lập, thiếu tự
chủ trong ngoại giao thì sau 30 năm cải cách, Trung Quốc trở thành một nước
lớn trong hầu hết các lĩnh vực. Con đường ngoại giao Trung Quốc đi lúc này là
phát triển trong hoà bình, tự chủ, xây dựng cơ chế đa phương, cải cách mở của
với các quốc gia khác, nó hoàn toàn khác với các chính sách như “nhất biên
đảo” hay “một chiến tuyến, một mảng lớn” của lúc trước. Trung Quốc lúc này
đang xây dựng một hình ảnh nước lớn thân thiện, yêu chuộng hoà bình và luôn
9 Lê Văn Mỹ (chủ biên), Ngoại giao Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa 30 năm cải cách mở

cửa, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội (2009), trang 24


7

sẵn lòng hợp tác cùng phát triển với các nước khác. Đây là một con đường
khôn ngoan cho Trung Quốc vì sự thật rằng không quốc gia nào có thể chỉ sống
một mình, tách biệt với thế giới hoặc chỉ có thể dựa vào một quốc gia khác để
có vị thế quốc tế. Con đường độc lập, tự chủ và mở cửa, hoà bình này đã mang
lại cho Trung Quốc sự phát triển vượt bậc. Sau 30 năm cải cách Trung Quốc

vươn lên thành cường quốc thứ 3 thế giới sau Mỹ và Nhật với GDP năm 2007
là 3420 tỷ USD trong khi năm 1978 chỉ là 147,3 tỷ USD.

10

Với tiềm lực kinh

tế và chủ trương xây dựng cơ chế đa phương như trên, Trung Quốc ngày càng
hội nhập sâu rộng hơn trên trường quốc tế, trở thành thành viên của hơn 100 tổ
chức quốc tế và quan sát viên của một số tổ chức khu vực.
Lý luận về “phát triển hoà bình” của Trung Quốc cũng được đánh giá là
khôn khéo vì sau chiến tranh lạnh, Trung Quốc là nước XHCN duy nhất tồn tại
và phát triển với tốc độ cao, cùng với đó là “thuyết về mối đe doạ Trung Quốc”
- nghi ngờ về một Trung Quốc đông dân số, kinh tế phát triển sẽ thách thức,
gây rối loan trật tự an ninh hiện hành và hoà bình thế giới. Nên lý luận trên đã
giúp Trung Quốc phần nào “rửa sạch” mối nghi ngờ trên và cải thiện đáng kể
hình ảnh Trung Quốc.
“Ngoại giao đa phương” sáng suốt trên có lẽ được hình thành từ bài học đắt
giá khi Trung Quốc bị cô lập do chiến lược “vừa chống xét lại, vừa chống chủ
nghĩa đế quốc”, một lúc không ủng hộ cả 2 siêu cường của thế giới, nên lúc này
Trung Quốc chọn con đường làm bạn với tất cả các nước để luôn có một con
đường thoát cho mình khi không may xung đột với một trong các cường quốc
của thế giới. Và thật đúng như vậy, “ngoại giao đa phương” đã cứu Trung
Quốc một lần nữa vào năm 1989, khi sự kiện Thiên An Môn 11diễn ra, hình ảnh
Trung Quốc bị hạ thấp trong con mắt các nước phương Tây, từ đó các nước
này viện cớ Thiên An Môn để bao vây, ngăn chặn Trung Quốc. Trung Quốc đã
thoát khỏi tình trạng trên bằng cách chuyển hướng sang các nước láng giềng
như các nước ASEAN, Nga, Nhật, dùng các nước này làm phá khẩu, giải nguy
trước tình thế bao vây của phương Tây. Như vậy, Trung Quốc vẫn trụ vững
trên thế giới.

10 SĐD trang 26


8
3.2. Tiêu cực

Trong con đường cải cách và mở cửa, tuy Trung Quốc tuyên bố phương
châm luôn đặt hoà bình, hợp tác lên hàng đầu nhưng vẫn có những sự kiện thực
tế đi trái với chủ trương trên của Trung Quốc. Có thể nhắc đến như việc năm
1988, Trung Quốc tấn công vào với ý định chiếm đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len
Đao thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam (sau khi đã dòm ngó Hoàng Sa Việt Nam năm 1974). Sự kiện được ghi nhận trong tài liệu Hải quân Việt Nam
là CQ-88, với 64 thuỷ binh Việt Nam thiệt mạng và mất mát 3 tàu vận tải do bị
Trung Quốc với vũ khí áp đảo tấn công phía Việt Na. Nhưng sau đó, Trung
Quốc lại báo cáo với Liên Hiệp Quốc là tự vệ do bị Việt Nam tấn công. Đây
có thể xem như một bước khởi đầu cho ý định Trung Quốc chiếm 2 quần đảo
này của Việt Nam, nảy sinh vấn đề tranh chấp chủ quyền và không dùng biện
pháp hoà bình để giải quyết như Trung Quốc tuyên bố, đồng thời hạ thấp uy tín
của Trung Quốc với thế giới. 12
11 Ngày 15/4/1989, cái chết của cựu lãnh đạo Đảng Cộng sản ủng hộ cải cách dân chủ Hồ

Diệu Bang đã khiến hơn 100.000 sinh viên đến tụ tập trước Quảng trường Thiên An Môn để
tưởng niệm nhà lãnh đạo này và bày tỏ sự bất mãn của họ đối với chính phủ chuyên quyền
của Trung Quốc. Khi các cuộc biểu tình kêu gọi cải cách dân chủ ở Trung Quốc diễn ra đến
tuần thứ bảy, chính phủ Trung Quốc đã điều động binh lính và xe tăng để giành lại Quảng
trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh bằng mọi giá. Đến đêm trước ngày mùng 4 tháng 6, quân
đội Trung Quốc đã buộc phải tiến vào dọn sạch quảng trường, làm chết hàng trăm và bắt giữ
hàng ngàn người biểu tình và những người bị tình nghi là bất đồng chính kiến. Trong những
tuần sau khi cuộc đàn áp của chính phủ diễn ra, một số lượng chưa rõ người bất đồng chính
kiến đã bị hành quyết, và những người có đường lối cứng rắn trong chính phủ đã nắm chặt
quyền kiểm soát đất nước này. Cộng đồng quốc tế đã bàng hoàng trước vụ đàn áp, nhiều lệnh

trừng phạt của Mỹ và các nước khác được đưa ra khiến nền kinh tế Trung Quốc giảm sút. Đến
năm 1990, thương mại quốc tế của Trung Quốc đã tiếp tục lưu thông, một phần do Trung
Quốc đã bắt đầu thả tự do cho hàng trăm người bất đồng chính kiến bị bắt giữ.
/>
12 Thiên Hương, Từ biến cố Gạc Ma nhìn về việc xây đảo nhân tạo của Trung Quốc: Lời nói

và sự thật, , 14/7/2015


9

Kể từ năm 1982, Trung Quốc luôn liên nhiệm là thành viên của Uỷ ban
Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác nhân quyền
quốc tế.13 Tuy nhiên, lại một lần nữa Trung Quốc làm khác với những gì tuyên
bố, minh chứng cho điều đó là vụ thảm sát Thiên An Môn bị Mỹ và các nước
phương Tây cũng như chính người dân Trung Quốc lên án.


30 năm sau cải cách mở cửa năm 1978, Trung Quốc đạt được rất nhiều
thành tựu nổi bật trong kinh tế, chính trị… và ngày càng tham gia sâu rộng
hơn vào hệ thống quốc tế, vai trò và vị thế của Trung Quốc cũng không
ngừng tăng lên. Đó là thành công từ việc lựa chọn chính sách ngoại giao
khôn khéo, phù hợp của Trung Quốc. Tuy nhiên, vị thế càng cao càng
mang lại cho Trung Quốc nhiều sự nghi hoặc từ các nước khác. Vì vậy
Trung Quốc sẽ phải đối diện với nhiều mối đe doạ, sự cạnh tranh từ bên
ngoài hơn. Hiện nay, Trung Quốc vẫn đang đối diện với nhiều vấn đề
chính trị như tranh chấp chủ quyền tại biển Đông với các nước ASEAN mà
đòi hỏi chính quyền Trung Quốc phải có cách xử lý khôn ngoan, vừa là để
lấy lại uy tín hình ảnh của Trung Quốc trong cái nhìn quốc tế sau vài sự
kiện như Thiên An Môn, Hoàng Sa, Trường Sa. Vì vậy, ngoại giao Trung

Quốc tương lai sẽ vẫn còn phải đối diện với nhiều vấn đề phức tạp cần phải
giải quyết thoả đáng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Mỹ (chủ biên), Ngoại giao Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa 30 năm
cải cách mở cửa, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội (2009)
2. Trương Thanh Mẫn (dịch: Nguyễn Thị Thu Hằng), Ngọai giao Trung Quốc,
NXB Truyền bá Ngũ Châu và NXB Tổng hợp TPHCM, 2011

13 Trương Thanh Mẫn (dịch: Nguyễn Thị Thu Hằng), Ngọai giao Trung Quốc, NXB Truyền

bá Ngũ Châu và NXB Tổng hợp TPHCM, 2011, trang 56


10
3.

Thiên Hương, Từ biến cố Gạc Ma nhìn về việc xây đảo nhân tạo của Trung
Quốc: Lời nói và sự thật, , 14/7/2015

4. Lê Văn Mỹ, Những chiến lược và chính sách ngoại giao của Trung Quốc

đối với Mỹ, />5. Nguyễn Huy Hoàng, 04/06/1989: Trung Quốc đàn áp biểu tình Thiên An
Môn, 4/6/2015
/>


×