Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

chính sách đối ngoại VN ASEAN thời kì đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.37 KB, 32 trang )

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM – ASEAN
THỜI KÌ ĐỔI MỚI
Thời kỳ đổi mới bắt đầu từ năm 1986 đến nay, từ khi Đại hội Đảng lần VI
(12/1986) đưa ra định hướng phát triển quan hệ hợp tác quốc tế theo hướng mở
cho đến nay. Nhưng để bám sát và phân tích rõ theo chính sách Nhà nước trong
từng giai đoạn cụ thể, người viết xin chia bài làm theo 4 giai đoạn nhỏ sau đây.
− 1986-1991
− 1991-1995
− 1996-2001
− 2001-2006
CHƯƠNG 1: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VÀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI GIAO
THỜI KỲ ĐẦU ĐỔI MỚI (1986-1991)
1.1. Cơ sở hình thành
1.1.1. Bối cảnh
1.1.1.1. Tình hình thế giới
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão đã tác động mạnh
mẽ đến chiến lược phát triển của tất cả các quốc gia, làm thay đổi tư duy trong
việc đánh giá sức mạnh tổng hợp của đất nước, trong đó nước nào cũng nhận ra
nhân tố kinh tế đóng vai trò nổi trội. Cách mạng khoa học - kỹ thuật còn làm cho
lực lượng sản xuất phát triển nhanh, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa
kinh tế, buộc các nước phải đề ra chiến lược phát triển cho phù hợp. 1 Vì vậy, các
nước lớn phải điều chỉnh chính sách: giảm chạy đua vũ trang, giảm chi phí quốc
phòng, giảm cam kết về quân sự ở bên ngoài, dàn xếp về vấn đề khu vực và đẩy
mạnh cải thiện quan hệ với nhau, tập trung củng cố nội bộ, phát triển kinh tế và
khoa học kỹ thuật nhằm tăng cường sức mạnh quốc gia. Điều đó làm gia tăng xu
thế đối thoại và hòa dịu. Một số ví dụ về việc thay đổi chính sách đối ngoại-kinh tế
như:
− Hoa Kỳ:
o Kinh tế: Hoa Kỳ phải áp dụng nhiều biện pháp kinh tế mạnh mẽ vì
bị giảm cả thế và lực, rơi vào khủng hoảng toàn diện cả về chính trị,
kinh tế, xã hội.


o An ninh và đối ngoại: một mặt tăng cường quan hệ với Trung Quốc,
ngăn không để Trung Quốc ngả về phía Liên Xô, đồng thời cản trở
Trung Quốc giải phóng Đài Loan và tác động vào nội bộ Trung
Quốc. Mặt khác, đẩy mạnh hòa hoãn với Liên Xô, tiến hành đàm
phán với Liên Xô về các vấn đề vũ khí chiến lược.
− Liên Xô:
1 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

trang 206.


o Kinh tế: kiệt quệ, tụt hậu về kinh tế so với các nước tư bản chủ

nghĩa.
o Đối ngoại: thúc đẩy cải thiện với Trung Quốc nhằm phân hóa Trung
Quốc - Hoa Kỳ, mặt khác Liên Xô muốn kiềm chế Trung Quốc. Có
những thay đổi lớn trong chính sách đối ngoại từ năm 1989.2
1.1.1.2. Tình hình khu vực
− Tình hình Châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng
cũng có nhiều chuyển động. Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực phát
triển năng động và đang tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trương cao như
Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Singapo, Thái Lan, Malayxia. Đông
Nam Á vẫn thu hút sự chú ý của các nước lớn như Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung
Quốc, Nhật và các nước Tây Âu. Tình hình khu vực này cũng từng bước
chuyển động theo hướng giảm đối đầu, đi vào đối thoại giải quyết vấn đề
Campuchia, từ đó xây dựng khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác để cùng
phát triển.3
1.1.1.3. Tình hình trong nước
− Về kinh tế - chính trị:
Việt Nam đang trong tình trạng trầm trọng nhất của khủng hoảng kinh tế - xã hội:

sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt và lên tới 774.7% năm 1986, đất nước bị bao
vây cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị.
− Về xã hội:
Đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin giảm sút. Đầu năm 1988 đã xảy ra
nạn đói ở nhiều vùng và lạm phát vẫn còn ở mức cao (393,8%). Trong khi đó, lực
lượng thù địch vẫn tìm mọi cách làm “Việt Nam chảy máu” và đe dọa trả thù, cho
nên ta vẫn phải duy trì lực lượng vũ trang lớn và tư thế sẵn sàng chiến đấu cao.
Nếu cứ để tình trạng này kéo dài, nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung
quanh là không tránh khỏi.
1.1.2. Tác động của chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN trước đó4
− Từ năm 1973 đến năm 1977, lĩnh vực đối ngoại của nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu vượt bậc. Năm 1973, hiệp định Pari về chấm dứt chiến
tranh ở Việt Nam đã nâng cao uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Trong
giai đoạn đó, cả 2 miền Nam - Bắc với Chính Phủ Cách mạng lâm thời
miền Nam Việt Nam và Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đều có
quan hệ tốt với nhiều nước trên thế giới, chỉ riêng Chính phủ lâm thời miền
2 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

trang 207-209
3 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

trang 209-210.
4 Vũ Dương Ninh (chủ biên), Đông Nam Á - Truyền thống và Hội nhập, NXB Thế Giới (2007),

trang 428-430.


Nam Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 80 nước trên khắp các châu lục. 5
Năm 1976, Việt Nam gia nhập Ngân Hàng Thế Giới (WB), Quỹ Tiền Tệ
Thế Giới (IMF), Ngân Hàng Phát Triển Châu Á (ADB). Ngay sau đó, tháng

9 năm 1977, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 149 của Liên
Hiệp Quốc. Với thành công như trên, khó ai có thể ngờ được 10 tiếp sau đó,
tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta lại lâm vào khủng hoảng
trầm trọng. Tuy thừa hưởng được nhiều thành tựu trong ngoại giao nhưng
chính sách đối ngoại của nước ta vẫn không mang lại thành công hơn nữa là
do chính sách đề ra trên sự đánh giá không đúng về tình hình thế giới và
khu vực.
− Tuyên bố tự giải tán Tổ chức Hiệp Ước Đông Nam Á vào ngày 26-9-1976
đã giảm được sự ảnh hưởng của các ngoài khu vực, bước đầu thiết lập được
bầu không khí thân thiện hơn giữa các nước ASEAN. Tuy nhiên, việc Việt
Nam chiến thắng ngoại xâm, giành độc lập và đường lối xây dựng một Việt
Nam thống nhất và đặc biệt là Tuyên Bố 4 điểm của nước ta đã đem lại
nhiều hồ nghi cho ASEAN về một Việt Nam mới. Tuy Tuyên bố 4 điểm
của Việt Nam và Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác được các nước ASEAN
thông qua ngày 25 tháng 2 năm 1976 tại Hội nghị Thượng Đỉnh ASEAN,
tại Bali (In-đô-nê-xi-a) cùng mang nội dung chung sống hoà bình, tôn trọng
độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết tranh chấp bằng biện
pháp hoà bình nhưng việc nước ta nhấn mạnh “không để lãnh thổ nước
mình cho bất cứ nước ngoài nào sử dụng làm căn cứ xâm lược và can thiệp
trực tiếp hoặc gián tiếp vào nước kia và các nước khác trong khu vực”
(điểm 2) và phát triển hợp tác giữa các nước “vì lợi ích của độc lập, hoà
bình và trung lập thực sự ở Đông Nam Á (điểm 4) đã gây ra những phản
ứng tiêu cực trong giới lãnh đạo ASEAN. 6 Những tuyên bố trên phần nào
làm xứt mẻ mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước ASEAN, thêm vào đó
là hành động nhân đạo của nước ta trước nạn diệt chủng ở Cam-pu-chia
trên đã xoá đi hình ảnh tốt đẹp về một Việt Nam hoà bình, trung lập, khiến
ASEAN nghi ngờ hơn nữa về tuyên bố 4 điểm của ta. Chiến thắng Mỹ và
các nước đồng minh phần nào làm Việt am đánh giá sai về bản thân và
tương quan lực lượng trên toàn cầu. Theo william Duiker, sự “tự hào” ấy là
nguyên nhân sâu xa dẫn đến những sai lầm trong chính sách đối ngoại của

Việt Nam,7 làm mất nhiều mối quan hệ tốt đẹp và hình ảnh thân thiện hiện
5 Robert Brigham: The Guerilla Diplomacy – NLF’s Foreign Relations and the Viet Nam War,

Cornell University, 1999
6 Nguyễn Vũ Tùng : Quan Hệ Việt Nam – ASEAN thời kỳ 1972-1976, trong Việt nam trong tiến

trình thống nhất đất nước, đổi mới và hội nhập, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2005, trang 628641.
7 William J Duiker: The Arrogance of Victory: Unlearning the lesson of the War in Viet Nam,

Texas Western Press, 1998, trang 39-52.


có, tạo nên tình trạng khủng hoảng trầm trọng đến mức Đổi Mới là con
đường duy nhất để thoát khỏi tình thế nguy cấp này.
1.2. Nội dung đường lối
Cùng với đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng và Nhà nước ta cũng từng bước đổi mới
tư duy về đối ngoại.
− Trước hết là việc đổi mới công tác nghiên cứu, phân tích, đánh giá những
chuyển biến của tình hình thế giới và quan hệ quốc tế. Thứ hai là đổi mới tư
duy về các cặp quan hệ như giữa lợi ích quốc gia và nghĩa vụ quốc tế, giữa
an ninh và phát triển, giữa hợp tác và đấu tranh. Thứ ba là là đổi mới tư duy
về tập hợp lực lượng, từ đó xác định chủ trương, đường lối chính sách đối
ngoại thích hợp.8
− Mục tiêu của ngoại giao Việt Nam lúc này là hòa bình và phát triển. Với
chủ đề “giữ vững hòa bình phát triển kinh tế”, Nghị quyết 13 nhấn mạnh
nhiệm vụ ngoại giao là phục vụ ổn định chính trị, ưu tiên phát triển kinh tế
là hàng đầu, đồng thời bảo vệ Tổ quốc, tiếp tục thực hiện chính sách “thêm
bạn bớt thù”. Bên cạnh đó, Đại hội VI khẳng định: "Trong những năm tới,
nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là ra sức kết hợp
sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại". 9

− Nghị quyết cũng đưa ra các chủ trương cụ thể để thực hiện việc chuyển
hướng đối ngoại, chuyển từ đối đầu sang đối thoại, đấu tranh trong cùng tồn
tại hòa bình, trong đó việc sắp xếp các đối tượng quan hệ có một vai trò
quan trọng, đặc biệt là góp phần giải quyết vấn đề Campuchia, cải thiện
quan hệ với các nước ASEAN. Trong đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Đảng ta nhấn mạnh: “Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức
mạnh của thời đại, phân đấu giữ hòa bình ở Đông Dương, góp phần tích
cực giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ Quốc…”.
Hòa bình ở khu vực và hòa bình thế giới có quan hệ gắn kết với nhau, thế
giới có hòa bình thì các khu vực mới có hòa bình và ngược lại. Do vậy giữ
vững hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới luôn là phương châm trong chiến
lược, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
1.3. Quá trình triển khai trong thực tiễn

8 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

trang 212.
9 Nguyễn Dy Niên, Chính sách và hoạt động đối ngoại trong thời kỳ đổi mới,

Báo
Điện
tử
Đảng
Cộng
Sản
Việt
Nam,
đăng
ngày

28-12-2005,
/>

− Ban hành Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI 20/5/1988) - mốc

khởi đầu của quá trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại
của Đảng ta.
Từ giữa những năm 80, các nước lớn đi vào hòa hoãn, hợp tác giải quyết các vấn
đề khu vực, trong đó có các vấn đề Campuchia. Các nước ASEAN lo ngại họ có
thể tìm giải pháp bất lợi cho khu vực, do đó từng bước điều chỉnh quan hệ với Việt
Nam, hợp tác tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia có lợi cho hòa bình, ổn định ở
khu vực và nâng cao vai trò của ASEAN. Việt Nam cũng thấy vị trí quan trọng
trực tiếp của Đông Nam Á trong toàn bộ đường lối đổi mới và chủ trương hòa
bình, phát triển của mình và các nước ASEAN có thể giúp Việt Nam mở đột phá
khẩu cho xu thế đối thoại, tìm kiếm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Đại
hội VI đã khẳng định “chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu
vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng
tồn tại hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp
tác”. Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI 20/5/1988) là mốc khởi đầu của
quá trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại của Đảng ta. Nghị
quyết nhận định rằng, tình trạng kinh tế yếu kém, tình thế bị bao vây về kinh tế và
cô lập về chính trị sẽ thành nguy cơ lớn đối với an ninh và độc lập dân tộc. Nghị
quyết cũng đã xác định rõ ràng ngoại giao phải ưu tiên giữ vừng hòa bình để phát
triển kinh tế. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thay chủ trương 10 năm trước tăng
cường liên minh 3 nước Đông Dương làm đối trọng với các nước ASEAN. Ngược
lại, chúng ta khẳng định không đối lập nhóm 3 nước Lào, Việt Nam, Campuchia
XHCN với nhóm ASEAN TBCN. Đồng thời, Nghị quyết cũng nêu rõ chúng ta cần
có chính sách toàn diện với Đông Nam Á, trước hết là tăng cường quan hệ hợp tác
về nhiều mặt với Indonexia, phá vỡ bế tắc trong quan hệ với Thái Lan, mở rộng
quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn hóa với các nước trong khu

vực, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa nước ta và các nước này bằng thương
lượng, thúc đẩy việc xây dựng khu vực hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác.
− Động thái cụ thể của Việt Nam với các nước ASEAN
• Thực hiện chủ trương đó, chúng ta đã mời ngoại trưởng Indonexia sang
thăm và ký Thông cáo chung Việt Nam - Indonexia tại thành phố Hồ Chí
Minh ngày 29/07/1987, vừa khai thông quan hệ song phương, vừa mở
đường cho xu thế đối thoại, hợp tác giải quyết vấn đề Campuchia và xây
dựng khu vực hòa bình, ổn định và phát triển.
• Nghị quyết Đại hội VI nêu rõ: “Chính phủ ta chủ trương tiếp tục rút quân
tình nguyện Việt Nam khỏi Cam-pu-chia, đồng thời sẵn sàng hợp tác với tất
cả các bên để đi đến giải pháp chính trị đúng đắn về Cam-pu-chia”. Thực
hiện chủ trưng trên, tháng 7 năm 1982, chúng ta đã rút một phần quân Việt
Nam khỏi lãnh thổ Cam-pu-chia và tuyên bố sẽ rút tiếp nếu Thái Lan chấm
dứt cho Khơ-me Đỏ và các lực lượng Khơ-me phản động khác dùng lãnh
thổ của Thái Lan làm căn cứ quân sự và nhận vũ khí, lương thực từ Thái
Lan chống lại quân Cam-pu-chia. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba
nước ngày 16 tháng 8 năm 1985, Việt Nam hứa đến năm 1990 sẽ rút hết


quân khỏi Cam-pu-chia. Và trên thực tế nước ta đã rút quân trước hạn (26
tháng 9 năm 1989).10
• Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng VI đề ra, trên các diễn đàn
quốc tế và khu vực, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta cũng luôn
khẳng định lập trường của Việt Nam là được chung sống hoà bình với các
nước trong khu vực, sẵn sàng hợp tác để xây dựng Đông Nam Á thành một
khu vực hoà bình, ổn định và phát triển. Tháng 1/1989, tại Hội nghị bàn
tròn các nhà báo châu Á - Thái Bình Dương tổ chức tại thành phố Hồ Chí
Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh một lần
nữa nhấn mạnh: Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với các
nước ASEAN và các nước trong khu vực. Cũng tại Hội nghị này, Bộ

trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng gia
nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á”. Những phát biểu trên một lần nữa
nhấn mạnh quan điểm trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta trong
vấn đề gia nhập ASEAN. Quan hệ Việt Nam – ASEAN đã được đẩy mạnh
trong năm 1989 và các năm tiếp theo.
• Tháng 02/1989, Việt Nam cùng với Lào tuyên bố sẵn sàng tham gia Hiệp
ước Bali. Sự kiện chính trị nổi bật và quan trọng nhất trong quan hệ hai bên
đó là Tổng thống Indonexia Xuhacto, nguyên thủ của một nước ASEAN
đầu tiên, thăm hữu nghị chính thức Việt Nam tháng 10/1990.
• Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng lần lượt thăm hữu nghị chính thức Indonexia,
Vương quốc Thái Lan và Cộng Hòa Singapore từ ngày 24/10 đến ngày
01/11/1991.
1.4. Kết quả
1.4.1. Thành tựu
− Trước những tiến triển trong vấn đề Cam-pu-chia, các nước ASEAN bắt
đầu phát triển quan hệ song phương với Việt Nam, hoan nghênh Việt Nam
tham gia vào hợp tác khu vực. Tháng 12/1987, tại hội nghị thượng đỉnh
ASEAN lần thứ 3 họp tại Manila (Philipin) Tổng thống Philipin C.V.
Akinô tuyên bố không coi Việt Nam là mối đe dọa đối với Philipin. Tiếp đó
tháng 2/1989 Bộ trưởng Ngoại giao Philipin tuyên bố “ không chống lại
việc Việt Nam gia nhập ASEAN”. Còn thủ tướng Thái Lan Chatichai, khi
lên cầm quyền tháng 8/1988, đã đưa ra chủ trương “ Biến Đông Dương từ
chiến trường thành thị trường”. Chính sách trên của Thái Lan đã được thủ
tướng Malaixia tuyên bố ủng hộ (6/1989). Tháng 1 năm 1990, Thủ tướng
Thái Lan Chunhawan tuyên bố ủng hộ Việt Nam gia nhập ASEAN sau khi
giải quyết xong vấn đề Cam-pu-chia.Về phía mình, Việt Nam bày tỏ mong
muốn phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước ASEAN.
10 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

trang 215-216.



− Kể từ năm 1991, các nước ASEAN tách dần khỏi lập trường của Trung

Quốc về vấn đề Campuchia, vượt qua chính sách bao vây cấm vận của Hoa
Kỳ đối với Việt Nam để đi vào cải thiện quan hệ với Việt Nam - Đông
Dương. Buôn bán hai chiều Việt Nam - ASEAN đã tăng từ 107 triệu đô la
Mỹ năm 1985 lên 740 triệu đô la Mỹ năm 1991.
 Trong thời kỳ đầu của giai đoạn đổi mới, ngoại giao đã góp phần nghiên
cứu, đánh giá đúng chiều hướng phát triển của tình hình thế giới và quan hệ
quốc tế, từ đó hình thành các quan điểm, nguyên tắc, nội dung và các biện
pháp chuyển hướng đường lối đối ngoại phù hợp, khắc phục những hành
động và tuyên bố có phần chưa đúng đắn, chưa phù hợp của ta. Hoạt động
ngoại giao chúng ta đã góp phần từng bước đưa nước ta thoát khỏi vấn đề
Campuchia, giải tỏa sự bao vây cấm vận về kinh tế và cô lập về chính trị,
tạo được bối cảnh hòa bình ở khu vực, tiến tới ổn định để tập trung phát
triển kinh tế. Một phần nào đó Việt Nam cũng giúp ASEAN và giúp chính
mình nhận ra tầm quan trọng của một môi trường hoà bình, ổn định vì sự
phồn vinh của cả khu vực. Những thành tựu đối ngoại thời kỳ đầu đổi mới
này sẽ tạo đà cho những thắng lợi lớn hơn thời kỳ tiếp theo.
1.4.2. Hạn chế
− Việt Nam sau chiến tranh xâm lược còn nặng tư tưởng thời chiến trong cái
nhìn về ASEAN và chính sức mạnh của bản thân mình, thiếu uyển chuyển,
mèm mỏng trong đối ngoại làm ASEAN hiểu lầm và lo sợ một Việt Nam lấy
đà chiến thắng Mỹ mà lan toả sức ảnh hưởng của mình với các nước trong
khu vực.
Thời gian này ta coi ASEAN là phản động, chống Cộng, là một SEATO khác một tổ chức quân sự trá hình. Đất nước mới bước ra từ cuộc chiến khốc liệt, tư duy
thời chiến vẫn còn tồn tại. Trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, một số
nước ASEAN cũng tham chiến, đứng về phía Mỹ: Thái Lan có đến hai sư đoàn bộ
binh; Philipine có hai nghìn công dân vụ; đồng thời hai nước này lại có căn cứ

quân sự phục vụ Mỹ; Singapore là nơi tiếp liệu, nghỉ ngơi; còn Malaysia là nơi
huấn luyện cảnh sát Ngụy. Vì những điều đó, hi vọng một cách nhìn khác của Việt
Nam với ASEAN vào thời điểm này là điều không hề dễ dàng. Về phía ASEAN
cũng có cách nhìn tương tự với Việt Nam, họ không yên tâm về chiến lược của
Việt Nam với các nước trong khu vực. Do chiến tranh lạnh cùng với sự chi phối
mạnh mẽ của nhân tố ý thức hệ, ASEAN cùng với Mỹ, Nhật, Trung Quốc đều
muốn làm suy yếu Việt Nam, Đông Dương và hạn chế ảnh hưởng của Liên Xô. Cả
Việt nam và ASEAN đều bị ám ảnh bởi quá khứ, chưa thay đổi kịp tư duy đối
ngoại và nhận ra tầm quan trọng của việc hợp tác khu vực. Việt Nam còn “tự hào”
về chiến thắng trên tiền tuyến với Mỹ, ASEAN lo sự một Việt Nam sẽ lan rộng
tầm ảnh hưởng trong khu vực. Bước sang giai đoạn 1979 - 1986, vấn đề
Campuchia xuất hiện, khiến cho những bất đồng, nghi ngại tồn tại trong quan hệ
Việt Nam - ASEAN trước đó càng thể hiện rõ ràng hơn. Việc Việt Nam đưa quân
vào Campuchia tạo ra rất nhiều ánh nhìn không thiện cảm từ phía quốc tế. Từ năm
1980, khi quân đội Việt Nam vượt biên giới vào Thái Lan, các ngoại trưởng


ASEAN lên án đó là một “hành động xâm lược” và tái khẳng định sự ủng hộ của
họ đối với nghị quyết của Liên Hợp Quốc về việc yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi
Campuchia. Giai đoạn 1979-1986, mục tiêu của ASEAN là ngăn Việt Nam mở
rộng ảnh hưởng sang khu vực; giữ Campuchia trung lập, cân bằng phe phái và lợi
ích giữa các nước lớn; Việt Nam rút quân và đi vào giải pháp chính trị. Để thực
hiện mục tiêu đó, các nước ASEAN áp dụng tất cả các biện pháp về ngoại giao,
chính trị và kinh tế làm Việt Nam rơi vào khó khăn. Tình hình này chỉ chấm dứt
sau năm 1986, khi Việt Nam mèm mỏng tuyên bố vì lợi ích chung của ASEAN
mới đưa quân vào giải quyết vấn đề Cam-pu-chia và cam kết rút dần quân, chứng
minh Việt Nam không có âm mưu thao túng hay xâm lược nước bạn. Đáng lý Việt
Nam nên làm điều đó sớm và rõ ràng, thân tình hơn thì sẽ tránh được hiểu lầm,
nghi kỵ từ ASEAN và quốc tế.
CHƯƠNG 2: TRIỂN KHAI TOÀN DIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỔI

MỚI (1991-1995)
2.1. Cơ sở hình thành
2.1.1. Bối cảnh
2.1.1.1. Tình hình thế giới
− Sau những biến động ở Đông Âu và Liên Xô năm 1989 – 1991, bàn cờ
chính trị quốc tế có nhiều biến động lớn, một trật tự thế giới mới dần dần
được hình thành thay thế cho “trật tự thế giới hai cực” trước đây. “Trật tự
thế giới đa cực” mới hình thành đã làm xuất hiện một số đặc điểm và xu thế
phát triển mới. Nhiều vấn đề toàn cầu nảy sinh đòi hỏi có sự hợp tác của tất
cả các nước để giải quyết. Bên cạnh đó, xu thế liên kết khu vực đi đôi với
xu thế toàn cầu hóa phát triển nhanh. Sự ra đời của nhiều tổ chức kinh tế
khu vực càng chứng tỏ ngoại giao đa phương ngày càng có vị trí quan trọng
trong đời sống quốc tế. Đây là cơ hội để các nước vừa và nhỏ tham gia góp
tiếng nói chung cùng giải quyết, đồng thời bảo vệ những lợi ích sống còn
của quốc gia mình.
− Một thời kỳ mới được mở ra trong quan hệ quốc tế, trong đó tất cả các quốc
gia, dân tộc đều đang đứng trước những thử thách, những thời cơ đưa vận
mệnh đất nước mình tiến lên kịp với thời đại mới. Thị trường thế giới trở
thành một khối thống nhất và liên kết, hội nhập kinh tế trở thành xu thế tất
yếu. Các nước đặt ưu tiên cao cho phát triển kinh tế vì nhận thức được ý
nghĩa quyết định của kinh tế với sức mạnh tổng hợp của dân tộc. Đồng thời
các nước đều đẩy mạnh đa dạng hoá quan hệ đối ngoại để tạo vị thế thuận
lợi cho mình. Vì vậy, tập hợp lực lượng xuất phát từ lợi ích quốc gia và nó
diễn ra một cách cơ động, linh hoạt theo từng vấn đề, thời kỳ chứ không
đơn thuần theo ý thức hệ như trước kia.11
2.1.1.2. Tình hình khu vực
11 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

trang 231.



− Khu vực Đông Nam Á cũng có những chuyển biến mới thuận lợi, không

còn căn cứ quân sự và quân đội nước ngoài, không còn đối đầu. Các nước
trong khu vực có điều kiện để hội nhập, hợp tác cùng nhau phấn đấu cho
một Đông Nam Á hòa bình, độc lập, ổn định và phát triển, tiến tới xây dựng
tổ chức ASEAN ngày một lớn mạnh và khu vực không có vũ khí hạt nhân.
− Tuy nhiên, trong khu vực vẫn tồn tại nhiều nhân tố bất trắc tiềm ẩn dễ gây
mất ổn định, như phát triển không bền vững, chủ nghĩa ly khai, xung đột
sắc tộc tôn giáo, tranh chấp biên giới đất liền, hải đảo, đặc biệt tranh chấp ở
biển Đông.
2.1.1.3. Tình hình trong nước12
− Thuận lợi: Sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã đạt được
những tiến bộ rõ rệt
• Kinh tế: Lạm phát đã được kiềm chế, đời sống nhân dân ổn định hơn và có
phần được cải thiện. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, lòng tin được
củng cố.
• Đối ngoại: Từng bước thực hiện thắng lợi chủ trương giữ vững hòa bình,
tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để tập trung sức xây dựng đất
nước, mở rộng được quan hệ với nhiều nước.
− Khó khăn: Khủng hoảng kinh tế chưa chấm dứt, nền kinh tế cơ bản chưa có
tích lũy từ thu nhập quốc dân. Nguồn vay bên ngoài giảm mạnh, ưu đãi về
giá không còn, nợ nước ngoài phải trả tăng hàng năm, thị trường xuất nhập
khẩu bị đảo lộn lớn, nhiều chương trình hợp tác kinh tế và hợp đồng lao
động bị cắt đột ngột. Một số nước còn bao vây về kinh tế và các lực lượng
thù địch lại đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hòa bình” chống phá nước ta.
2.1.2. Tác động của chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN thời kỳ trước
Như đã phân tích trong chương 1, giai đoạn 1986-1991 với việc giải quyết vấn đề
Cam-pu-chia, Việt Nam đã lấy lại cho mình hình ảnh một quốc gia yêu chuộng
hoà bình, thân thiện và sẵn lòng hợp tác với ASEAN để cùng phát triển. Thời kì

1988-1991, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và cùng với hiệp định Paris về
Campuchia được kí kết vào tháng 10 năm 1991 đã chấm dứt tình trạng căng thẳng
đối đầu giữa hai nhóm nước ASEAN và Đông Dương, mở ra một thời kì hòa bình
hữu nghị và hợp tác ở khu vực. Quan hệ song phương Việt Nam – ASEAN nhờ
thế mà phát triển hơn, Việt Nam dần dần tham gia vào tiến trình hợp tác khu vực.
Việt Nam kiên trì chính sách đàm phán để giải quyết mọi tranh chấp về lãnh thổ.
Yêu cầu đặt ra lúc này là phát triển đất nước về mọi mặt để tạo điều kiện gia nhập
ASEAN, tăng cường hơn nữa mối quan hệ với các nước ASEAN, tạo một cộng
đồng chung vững chắc. Khắc phục những hạn chế, khó khăn trong giai đoạn trước,
giai đoạn này Việt Nam khẳng định sẽ đa phương hoá, đa dạng hoá để bắt kịp sự
12 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

trang 232, 233


phát triển và tầm nhìn của các nước trong khu vực, trên thế giới, tránh tình trạng tư
duy thời chiến cũ và tụt hậu về khoa học kỹ thuật.
2.2. Nội dung đường lối
− Trong công cuộc đổi mới của Việt Nam giai đoạn 1991 - 1995, Đại hội VII
(1991), Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII – 1992) của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã liên tiếp đề ra và phát triển đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa với phương
châm "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển" nhằm mục tiêu "giữ vững hòa
bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc đồng thời góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội". 13 Trong điều kiện mới cần phải
coi trọng và vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với

yếu tố hiện đại.
− Để thực hiện chủ trương của Đảng, một trong những nhiệm vụ trong hoạt
động đối ngoại mà ta đề ra là tạo dựng và củng cố môi trường hòa bình, ổn
định cho công cuộc xây dựng tổ quốc. Củng cố và thúc đẩy các mối quan hệ
song phương, nhất là quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong
khu vực có ý nghĩa vô cùng quan trong đối với việc thực hiện nhiệm vụ
này. Đó chính là hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của ta. Quan hệ
láng giềng là một thách thức tự nhiên, người ta có thể chọn bạn nhưng
không ai được chọn láng giềng; giữa các nước láng giềng thường có các
vấn đề lịch sử, có khi nặng nề. Dù có các vấn đề địa lý – lịch sử như vậy thì
các nước láng giềng, trong khu vực vẫn có thể và phải sống hòa hiếu với
nhau, không nhất thiết phải đối đầu hoặc đối địch.
− Đề ra được nhiệm vụ và hướng ưu tiên chính sách, từ đó Đảng ta đã xác
định tư tưởng chỉ đạo, cũng như phương châm hoạt động đối ngoại. Hội
nghị trung ương 3 khóa VII khẳng định tư tưởng chỉ đạo trong chính sách
đối ngoại của Việt Nam là: “giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và
chủ nghĩa xã hội; đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù
hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn
biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối
tượng ta có quan hệ”. Như vậy, cũng như đối với mọi đối tác trong quan hệ
đối ngoại, đối với các nước trong khu vực, Đảng ta đã khẳng định rằng dù
cần phải thúc đẩy mối quan hệ nhưng cần phải giữ vững được lập trường
chủ nghĩa xã hội, và trên hết là ngày càng củng cố nền độc lập mà dân tộc
ta mới giành lại được không lâu, đó là nền tảng để từ đó vạch ra những kế
13 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

trang 234


sách linh hoạt kịp thời trong bước ngoặt to lớn trong lịch sử kinh tế - chính

trị thế giới lúc bấy giờ.

2.3. Quá trình triển khai trong thực tiễn
Triển khai đường lối, chính sách đối ngoại trên, chúng ta đã tạo được mối quan hệ
tốt đẹp với ASEAN, tạo tiền đề lớn để chúng ta từng bước trở thành thành viên
của ASEAN.
− Ngày 11 tháng 7 năm 1992 tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước
ASEAN lần thứ 25, Việt Nam chính thức tham gia Hiệp ước Bali và trở
thành quan sát viên của ASEAN. Việc Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali
thể hiện cam kết của Việt Nam với những nguyên tắc được Việt Nam nêu
năm 1976 trong Tuyên bố 4 điểm, làm tăng sự tin cậy của các nước với
Việt Nam, góp phần phá thế bao vây cấm vận của Mỹ. 14
− Trên lĩnh vực ngoại giao, thực hiện chủ trương của Đại hội VII của Đảng
Cộng sản VN, từ cuối năm 1991 đầu năm 1992 Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã
lần lượt đi thăm tất cả các nước ASEAN như Indonexia, Xingapo, Thái
Lan, Malaixia… để thúc đẩy phát triển quan hệ song phương. Với tư cách
là quan sát viên của ASEAN, từ năm 1992 VN đã được mời tham dự các
cuộc họp hằng năm Hội nghị bộ trưởng ngoại giao ASEAN. Năm 1993
Việt Nam tham gia diễn đàn khu vực ASEAN (ARF). Việt Nam đã tiến
hành giải quyết những vấn đề tồn tại với các nước ASEAN bằng thương
lượng: với Malaysia thoả thuận việc cùng khai thác vùng chống lấn, hồi
hương người di tản; Thái Lan tiếp tục giải quyết thuận lợi cho Việt Kiều
nhập quốc tịch; khai thông hợp tác sông Mêkông; lập quỹ khu vực; duy trì
viện trợ; thoà thuận về vùng chống lấn trên biển. Ta cùng tiến hành giải
quyết với Inđônêsia về phân định lãnh hải giữa hai nước.
− Các quan hệ kinh tế và thương mại cũng phát triển nhanh chóng. Chỉ trong
2 năm Việt Nam đã kí với các nước này gần 40 Hiệp định: hiệp định về hợp
tác kinh tế, khoa học- kĩ thuật, hiệp định về bảo hộ đầu tư, hiệp định tránh
đánh thuế 2 lần, hiệp định về bưu điện, hàng không, hàng hải… Ở thời
điểm này các nước ASEAN đã tiêu thụ và tái xuất một khối lượng lớn hàng

xuất khẩu của Việt Nam (khoảng 30% hàng xuất nhập khẩu của nước ta,
kim ngạch buôn bán 2 chiều tăng từ 1,6 tỉ USD năm 1991 lên 2,7 tỉ USD
năm 1994), và đầu tư trực tiếp của họ cũng chiếm một tỉ trọng khá lớn
(20%) trong tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.15
14 Vũ Dương Ninh (Chủ biên), Đông Nam Á - Truyền thống và Hội nhập, NXB Thế Giới

(2007), trang 432.
15 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

trang 240


− Trên các lĩnh vực khác, vào năm 1993 ASEAN đã mời Việt Nam tham gia

các chương trình và dự án hợp tác trên 5 lĩnh vực: khoa học- kĩ thuật, môi
trường, y tế, văn hóa- thông tin, phát triển xã hội cùng một số dự án hợp tác
chuyên ngành: đào tạo cán bộ du lịch, phòng ngừa ma túy… Điều này
chứng tỏ ASEAN đánh giá cao thiện chí của Việt Nam và muốn Việt Nam
sớm gia nhập ASEAN.
− Tại Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao lần thứ 27 tại Băng-cốc diễn ra từ ngày
22 đến 23 tháng 7 năm 1994, ASEAN sẵn sàng công nhận Việt Nam là
thành viên chính thức của ASEAN và quyết định lập nhóm làm việc do
Tổng thư kí ASEAN đứng đầu để chuẩn bị thủ tục công nhận. Tháng 9 năm
1994 lần đầu tiên Việt Nam dự hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ
27 ở Thái Lan. Việt Nam lần lượt tham dự các cuộc họp lớn bé và dần dần
được công nhận chính thức, chỉ còn chờ thủ tục chính thức. Một bước phát
triển mới trong suốt quá trình nỗ lực là ngày 17 tháng 10 năm 1994 Bộ
trưởng ngoại giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã gửi tới
Bộ trưởng ngoại giao Bru-nây, Chủ tịch đương nhiệm Ủy ban thường trực
ASEAN, chính thức đặt vấn đề Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của

tổ chức.
− Sự phát triển quan hệ Việt Nam-ASEAN trên nhiều lĩnh vực, ở các diễn
đàn, các cấp khác nhau, trải qua nhiều thử thách và đã đạt được sự tin cậy ở
nhau, mối quan hệ ngày càng xích lại gần nhau hơn, chỉ chờ cơ hội để hai
bên ngồi vào bàn kí chính thức công nhận Việt Nam. Và không lâu sau đó,
ngày 28 tháng 7 năm 1995 tại thủ đô Ban-đa Xê-ri Bê-ga-oan (Bru-nây),
nơi diễn ra Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 28 và ARF lần thứ 2, đã diễn ra
trọng thể lễ kết nạp Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ bảy
của ASEAN.16
2.4. Kết quả
2.4.1. Thành tựu:
− Ngày 28 tháng 7 năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN.
Trong giai đoạn 1991-1995, với việc triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa
dạng hóa, đa phương hóa, chủ động tích cực hội nhập khu vực và thế giới mà
Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra, nhất là nâng cao quan hệ hợp tác với ASEAN
trên mọi lĩnh vực. Hoạt động đối ngoại Việt nam đã đạt được thành tựu lớn nhất
đó là gia nhập tổ chức ASEAN, đưa nước ta ra khỏi tình trạng bị bao vây cô lập,
nâng cao vị thế của Việt Nam trên khu vực và thế giới, đồng thời góp phần tạo
môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước tạo thuận lợi cho việc mở
rộng quan hệ với các đối tác quan trọng khác trên thế giới. Đây chính là kết quả
của sự đổi mới tư duy sâu sắc của Đảng và nhà nước ta trong việc đánh giá cục
diện thế giới cũng như trong đường lối, chính sách, phương châm. Điều đó cũng
16 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

năm 2012, trang 241


chứng minh sự thay đổi đó là đúng đắn, là kịp thời và hiệu quả. Tham gia hợp tác
ASEAN sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan trọng và thiết thực về chính
trị-an ninh, kinh tế, văn hóa-xã hội và đối ngoại, mà “bao trùm là giữ vững môi

trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước cũng như hỗ
trợ cho Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế” 17. Đến năm 1994, buôn bán với
ASEAN chiếm khoảng 30% tổng ngoại thương của Việt Nam và đầu tư của
ASEAN vào Việt Nam chiếm gần 30% tổng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Theo thống kê của Vụ ASEAN Bộ Ngoại giao nhân 5 năm Việt Nam Nam gia
nhập ASEAN (2000), tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam với các nước
ASEAN tăng từ 2,583 tỷ USD năm 1994 lên 3,490 tỷ năm 1995 và đạt 4,152 tỷ
USD năm 1996. Việt Nam đã cùng với các nước ASEAN từng bước giải quyết
những vấn đề bất đồng trên cơ sở hiểu biết, tin cậy lẫn nhau và các bên cùng có
lợi, tạo điều kiện thúc đẩy sự ổn định trong quan hệ và hợp tác. Điển hình là để
giải quyết những tranh chấp trên bộ và trên biển, Việt Nam đã ký với Ma-lai-xia
(5/6/1992) thoả thuận hợp tác cùng khai thác nguồn tài nguyên vùng chồng lấn
giữa hai nước trong khi chờ đợi phân định. Việt Nam cùng với Thái Lan và Malai-xia đã thoả thuận hợp tác cùng khai thác dầu khí ở vùng chồng lấn giữa ba
nước trên thềm lục địa. Sau bốn vòng đàm phán, ngày 7/11/1995, Việt Nam và
Phi-lip-pin đã ký bản thoả thuận 9 nguyên tắc ứng xử cơ bản giữa hai nước ở vùng
biển Đông.Việc Việt Nam gia nhập cũng tạo điều kiện xây dựng một tổ chức
mang tính chất đại diện, khẳng định vị thế của khu vực trên trường quốc tế và
trong mối quan hệ với các tổ chức châu lục khác.
Như vậy, Việt Nam gia nhập ASEAN là một giải pháp, chiến lược phá thế bao vây
cấm vận trong giai đoạn trước năm 1995 và tăng cường quan hệ với các nước lớn.
Cuối cùng thì việc Việt Nam gia nhập ASEAN – ước mơ về một khu vực Đông
Nam Á đoàn kết, thống nhất hợp tác cùng phát triển đã trở thành hiện thực.
2.4.2. Hạn chế
Trong giai đoạn này, có thể nói hạn chế của nước ta khi gia nhập ASEAN là chưa
có những chính sách phát triển kinh tế cụ thể, sản xuất còn nhỏ, manh mún, cơ sớ
vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ chuyển biến chậm…
Đó là về kinh tế, còn ở khía cạnh xã hội, tham nhũng, lãng phí, buôn lậu... chưa
được ngăn chặn, sự phân hóa giàu nghèo tăng nhanh, đời sống nhân dân còn khó
khăn. Vậy, tuy chính sách đối ngoại và nỗ lực gia nhập ASEAN để cùng phát triển
và hội nhập đạt được nhiều thành công nhưng chúng ta chưa tạo được một nền

tảng về kinh tế, thị trường thực sự mạnh mẽ để hấp thụ được hết những khoản đầu
tư lớn từ ASEAN và các nước khác, trình độ dân trí của chúng ta về ngoại ngữ,
công nghệ thông tin… còn chưa cao, khó bắt kịp tác phong công nghiệp của các
nước.
17 Phạm Bình Minh (Chủ biên), Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới,

NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, trang 35.


CHƯƠNG 3: NGOẠI GIAO GÓP PHẦN THÚC ĐẨY HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ, PHỤC VỤ CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
1996-2001
3.1. Cơ sở hình thành
3.1.1. Bối cảnh18
3.1.1.1. Tình hình thế giới
• Kinh tế: Cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển ngày càng
nhanh hơn, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới,
quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Đặc biệt đây là giai đoạn nền
kinh tế thế giới đang chuyển sang loại hình kinh tế mới – kinh tế tri thức
với những đặc điểm hoàn toàn khác với loại hình kinh tế trước. Kinh tế tri
thức mang lại thuận lợi trong việc mở rộng thị trường, tranh thủ vốn và
công nghệ để phát triển đồng thời đặt ra rất nhiều thách thức mới rất gay
gắt với các nước đang phát triển. Ưu thế thuộc về các nước tư bản phát triển
vì vậy, sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng lớn giữa các quốc gia vì Việt
Nam cũng như các nước đang phát triển khác gặp sự khó khăn rất lớn trong
lĩnh vực công nghệ.
• Chính trị: Xu thế đấu tranh và hợp tác đan xen phức tạp, thế giới đang trong
quá trình thiết lập trật tự thế giới mới với những mưu toan của Mỹ trong
việc muốn nắm “vai trò lãnh đạo thế giới”. “Khao khát” đó thể hiện qua
việc sử dụng ưu thế về kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật áp đảo của

mình. Tuy chiến tranh huỷ diệt khó xảy ra nhưng các cuộc xung đột vũ
trang tuỳ mức độ và cường độ vẫn nổ ra ở nhiều nơi và chưa có giải pháp
cơ bản.
3.1.1.2. Tình hình khu vực
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương có nhiều biến đổi lớn. Các nước Động Nam
Á đang ở giai đoạn chuyển hoá sâu sắc về chính trị và kinh tế. Cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ năm 1997 dẫn đến sự bất ổn về chính trị - xã hội nghiêm trọng ở
một số nước, đặc biệt là In-đô-nê-xi-a và Phi-líp-pin. Dù kinh tế các nước có sự
phục hồi những vẫn còn yếu vì vẫn lệ thuộc vào kinh tế Mỹ. Ở một số nước vẫn
còn xung đột sắc tộc, tôn giáo, biên giới lãnh thổ…Tuy nhiên, Đông Nam Á vẫn
có vị trí quan trọng về địa chính trị, đia kinh tế mà các nước lớn không thể coi nhẹ;
kinh tế đang phục hồi và phát triển cùng ý thức độc lập tự chủ, đoàn kết mạnh là
những nhân tố giúp Đông Nam Á có thể tiếp tục phát huy vai trò ở khu vực.
3.1.1.3. Tình hình trong nước
Thuận lợi:
Sau 10 năm đổi mới, nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội,
tình hình chính trị ổn định, thế và lực đã mạnh hơn trước, vị thế trên trường quốc
tế của chúng ta đã được nâng cao. Khả năng giữ vững nền độc lập và hội nhập với
18 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

năm 2012, trang 250 – 255.


cộng đồng thế giới tăng lên. Đó là điều kiện rất quan trọng cho nước ta bước vào
thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi, chúng ta vẫn phải đối mặt với những tác động tiêu cực
của toàn cầu hoá, những thay đổi trong chính sách của các nước lớn như Mỹ,
Trung Quốc với châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng, chiều hướng suy
giảm của kinh tế thế giới, cạnh tranh thị trường và vốn đầu tư ngày càng quyết liệt.

Nhìn chung, nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế so với các nước trong khu vực vẫn là
thách thức lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp lại phải đi lên trong
môi trường cạnh tranh quyết liệt như Đại Hội VIII đã nhận định.
3.1.2. Tác động của chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN thời kỳ trước
Chính sách trước là nền tảng để chính sách đối ngoại Việt Nam-ASEAN giai đoạn
này phát huy (những thành tựu) và khắc phục hạn chế. Sau khi gia nhập thành
công ASEAN, chính sách giai đoạn này hứa hẹn sẽ giúp Việt Nam nâng cao vị thế
của mình trong ASEAN hơn, dùng quan hệ với ASEAN để khẳng định uy tín,
năng lực của Việt Nam với quốc tế.
3.2. Nội dung đường lối
− Đại hội VIII khẳng định tiếp tục thực hiện “đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh
thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” 19 trên nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giải
quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp thông qua thương lượng.
− Nhiệm vụ: “Củng cố môi trường hoà bình, và tạo điều kiện quốc tế thuận
lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” 20
− Chủ trương: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII với việc nhấn
mạnh tư tưởng “Việt Nam sẵn sàng là bạn”, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng thế giới. Nét mới trong nội dung đối ngoại lần này là Đại
hội khẳng định mạnh mẽ việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực. Đảng chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại. Việc này phục vụ cho nhiệm vụ trung
tâm trong nước là công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, tập trung mọi lực
19 Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đảng VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,


1996, trang 120.
20 Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại Hội Đảng VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

1996, trang 120.


lượng, thời cơ vượt qua thử thách, đẩy mạnh đổi mới toàn diện… Trên cơ
sở đường lối, chủ trương và nhiệm vụ đối ngoại do Đại hội VIII, Đai hội IX
đề ra, trong giai đoạn 1996 -2000, chúng ta đã triển khai các hoạt động đối
ngoại theo hướng ưu tiên:
o Tiếp tục đẩy mạnh quan hệ với các nước láng giềng, các nước
ASEAN và củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống. Các
nước ASEAN là ưu tiên số một trong chính sách đối ngoại của Việt
Nam vì thời gian này chúng ta vừa gia nhập chính thức ASEAN,
chúng ta muốn nâng cao vai trò và vị thế của mình trong khối này,
đồng thời tạo môi trường hoà bình ổn định để phát triển đất nước,
loại bỏ những vấn đề phức tạp do lịch sử để lại (vùng chồng lấn, di
tản…)
3.3. Quá trình triển khai trong thực tiễn21
− Trong các nước ASEAN nói chung:
Trong giai đoạn này, khi uy tín và vai trò của các nước ASEAN giảm sút, Hiệp hội
gặp nhiều thách thức nghiêm trọng do nhiều nước ASEAN rơi vào khủng hoảng
kinh tế - tài chính, nội bộ một số nước gặp khó khăn, mâu thuẫn. Trước tình hình
đó, chúng ta đã tích cực, chủ động góp phần vào việc củng cố đoàn kết, tăng
cường mở rộng và hợp tác trong khối ASEAN cũng như giữa ASEAN với bên
ngoài. Việt Nam:
o Tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN 6.
o Đưa ra Chương trình hành động Hà Nội.
o Đưa ra quyết định kết nạp Cam-pu-chia làm thành viên thứ 10.
o Đảm nhiệm tốt chức Chủ tịch Uỷ ban thường trực ASEAN (ASC) và

Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF).
Về quan hệ kinh tế đối ngoại giữa Việt Nam và ASEAN, ngay khi trở thành thành
viên chính thức của ASEAN về lĩnh vực thương mại, chúng ta đã:
o Đề ra chương trình giảm thuế nhập khẩu của Việt Nam để thực hiện
Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của ASEAN.
o Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần V, Việt Nam đã ký nghị định
thư cam kết thực hiện CEPT nhằm xây dựng khu vực mậu dịch tự do
ASEAN. Theo nghị định thư này, Việt Nam cam kết sẽ cắt giảm
thuế quan nhập khẩu hàng hoá trong ngày 1 tháng 1 năm 1996 đến
ngày 1 tháng 1 năm 2006, đồng thời dỡ bỏ các hàng rào phi thuế
quan. Để thực hiện cam kết, chúng ta đã công bố Danh mục hàng
hoá thực hiện CEPT gồm: danh mục loại trừ hoàn toàn, danh mục
loại trừ tạm thời, danh mục cắt giảm ngay, danh mục nông sản chưa
chế biến nhạy cảm.
21 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

năm 2012, trang 258 – 271.


 Quan hệ hữu nghị giữa ba nước Đông Dương có những bước phát

triển mới, chặt chẽ hơn thông qua việc trao đổi các đoàn cấp cao,
những thoả thuận, biện pháp, cơ chế hợp tác nhằm tăng cường sự
hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau trong phát triển kinh tế xã hội và hội
nhập khu vực.
− Trong quan hệ với các nước trên bán đảo Đông Dương nói riêng
Ta hết sức coi trọng củng cố quan hệ giữa ba nước Đông Dương, tăng cường sự
gắn bó, hỗ trợ lẫn nhau giữa ba nước. Đặc biệt là việc hình thành trên thực tế cơ
chế hợp tác giữa ba nước trên những vấn đề có lợi ích chung như vấn đề phát triển,
hợp tác tiểu vùng… đồng thời tránh tạo cảm giác về “Liên bang Đông Dương”. Để

bày tỏ tinh thần và nguyện vọng trên, Việt Nam đã có những hành động cụ thể với
Cam-pu-chia và Lào.
 Về phía Cam-pu-chia, Việt Nam:
o Tích cực ủng hộ Cam-pu-chia gia nhập ASEAN.
o Tổ chức lễ kết nạp Cam-pu-chia làm thành viên thứ 10 của ASEAN tại Hà

Nội (tháng 4 năm 1999).
o Hưởng ứng một cách khôn khéo đề nghị của Cam-pu-chia về cuộc họp 3

Thủ tướng.
o Đón tiếp Quốc Vương Xi-na-húc và Hoàng hậu đến thăm Việt Nam vào
tháng 12 năm 1995.
o Cử Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu sang thăm chính
thức Cam-pu-chia vào tháng 4 và tháng 6 năm 1996.
o Ký nhiều hiệp định hợp tác trong các lĩnh vực giáo dục, phát triển nông
nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, văn hoá.
 Về phía Lào, Việt Nam và Lào:
o Cụ thể hoá phương châm 16 chữ “hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu

nghị truyền thống, ổn định lâu dài” thành khuôn khổ cho thế kỷ XXI trong
chuyến viếng thăm Lào của Chủ tịch nước Trần Đức Lương (tháng 11
năm 2001)
o Duy trì đều đặn các cuộc gặp hàng năm giữa Bộ Chính trị hai Đảng
o Đạt thoả thuận về những phương hướng cơ bản cho quan hệ hai nước
hướng đến thế kỷ XXI.
3.4. Kết quả
3.4.1. Thành tựu
Việc gia nhập ASEAN là một quyết định đúng đắn, mang lại nhiều lợi ích cho
Việt Nam. Về chính trị, bằng mối quan hệ hữu nghị, chúng ta đã giải quyết được
những vấn đề của lịch sử, nâng cao vị thế của mình trong khu vực và trên thế giới

qua việc tham gia ASEM, APEC. Về kinh tế, ASEAN trở thành đối tác quan trọng
của Việt Nam (chiếm 30% kim ngạch xuất nhập khẩu, khoảng gần 20% vốn đầu


tư). Tóm lại, với chính sách ưu tiên phát triển quan hệ với các nước láng giềng,
Việt Nam đã từng bước cải thiện và phát triển quan hệ với từng nước ở khu vực
Đông Nam Á, tiến tới gia nhập ASEAN, tạo ra môi trường hoà bình, ổn định và
phát triển. Quan hệ Việt Nam với tổ chức ASEAN và các quốc gia trong ASEAN
giai đoạn 1996-2000 phát triển mạnh là cơ sở và điều kiện quan trọng cho Việt
Nam hội nhập khu vực, triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá và
đa phương hoá các quan hệ quốc tế, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.4.2. Hạn chế
Bên cạnh những lợi ích mà tiến trình mở cửa với các nước ASEAN và các nước
khác mang lại, Việt Nam bắt đầu phải đối diện với một thách thức mới rất nguy
hiểm cho sự phát triển của dân tộc chính là sự chảy máu chất xám. Tuy nhiên
trong giai đoạn, chính sách đối ngoại của ta chưa để ý và nhận ra tầm quan trọng
của việc giải quyết và phòng ngừa vấn đề này. Thêm vào đó, khoa học kỹ thuật
của Việt Nam còn lạc hậu và khó bắt kịp với các nước tiên tiến, tê nạn quan liêu,
tham nhũng, buôn lậu… nảy sinh nhiều trong xã hội làm mất hình ảnh của Việt
Nam với người dân của mình và nhân dân thế giới trong khi chính sách đối ngoại
chưa tháo gỡ được vấn đề niềm tin trong hợp tác với các nước.
CHƯƠNG 4: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM – ASEAN GIAI
ĐOẠN 2001-2006
4.1. Cơ sở hình thành
4.1.1. Bối cảnh
4.1.1.1. Tình hình thế giới
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tiếp tục phát triển như vũ bão với nhiều kỳ tích
đã tác động đến nhiều lĩnh vực trong cuộc sống và thúc đẩy nhanh quá trình toàn
cầu hoá kinh tế. Trong giai đoạn này, các nước lớn nâng tầm ảnh hưởng của mình

trong tiến trình phát triển của thế giới nhờ vào thành tựu vượt bậc về khoa học
công nghệ. Họ hiểu rõ các nước phải liên kết với nhau thì thế giới phát hoà bình,
tạo điều kiện, môi trường ổn định cho các quốc gia phát triển vì thế họ lợi dụng
sức mạnh về kinh tế tài chính, quân sự … của mình để chi phối thế giới theo
hướng có lợi cho các nước mạnh, giàu và bất lợi cho các nước nghèo, kém phát
triển. Điển hình cho các nước có tham vọng bá chủ chính là Mỹ. Lợi dụng chiêu
bài chống khủng bố, các thế lực đế quốc đang có xu hướng can thiếp công khai,
trắng trợn vào nội bộ các nước độc lập mặc cho sự phản đối kịch liệt của dư luận
tiến bộ quốc tế. Thêm vào đó, từ khi Liên Xô sụp đổ, các nước tư bản ngày càng
chiếm thế thượng phong trong quan hệ quốc tế. Bản chất của tư bản la sự bóc lột,
vì vậy mà xu thế đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc bá quyền hiếu chiến ngày
càng gay gắt và có nhiều bước phát triển mới. Các nước đang phát triển như Việt
Nam, ngoài việc đối mặt với “sư đe doạ” chủ quyền từ các nước mạnh và nỗ lực
liên kết chống chủ nghĩa đế quốc còn phải cùng thế giới đương đầu với nhiều vấn
đề cấp bách như dịch bệnh (lao, sốt rét, SARS, HIV/AIDS…) và các vấn đề môi
trường, xã hội như hiệu ứng nhà kình, xử lý rác thải, đói nghèo…


4.1.1.2. Tình hình khu vực
ASEAN đang bước vào giai đoạn gắn bó cùng hợp tác phát triển và cùng giải
quyết các vấn đề chung như môi trường, hoà bình dân chủ. Điển hình như Tuyên
bố Cebu về An ninh Năng lượng Đông Á (the ASEAN-Wildlife Enforcement
Network in 2005) và Đối tác Châu Á Thái Bình Dương về Phát triển Sạch và Khí
hậu, cả hai đều nhằm giải quyết những hiệu ứng có thể xảy ra từ sự thay đổi khí
hậu. Bên cạnh đó còn có Hiệp ước Bali II đã tán thành khái niệm hoà bình dân
chủ, có nghĩa là mọi thành viên tin rằng các quá trình dân chủ sẽ thúc đẩy hoà bình
và ổn định trong khu vực. Ngoài ra còn có xu hướng mở rộng ASEAN lên
ASEAN+3, thêm vào Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. 22
4.1.1.3. Tình hình trong nước
Kinh tế, chính trị xã hội của nước ta bắt đầu ổn định và phát triển hơn nhiều, bắt

đầu thực hiện tiến trình gia nhập WTO nên hệ thống pháp luật, cách thức quản
lý ... cũng được cải thiện và hoàn chỉnh hơn nhiều. Tuy nhiên, đây cũng là giai
đoạn của sự cạnh tranh do tác động tiêu cực từ toàn cầu hoá. Thêm vào đó "chảy
máu chất xám" bắt đầu trở thành vấn nạn nghiêm trọng của nước ta.
4.1.2. Tác động của chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN thời kỳ trước
Giai đoạn 1996-2000 tạo một bước đà và nền tảng cho chính sách đối ngoại giai
đoạn 2001-2005. Với những thành công đã đạt được trong mối quan hệ với các
nước ASEAN về kinh tế, chính trị… đã nêu trong phần 3.3 và 3.4.1, chính sách
ngoại giao giai đoạn sau này cũng được xây dựng trên cơ sở “đa dạng hoá đa
phương hoá trong quan hệ quốc tế”, nâng cao liên kết khu vực, đặc biệt là ba nước
Đông Dương với nhau. Đặc biệt do nhận thức sâu sắc về tầ, quan trọng của quan
hệ kinh tế quốc tế trong đối ngoại nên chính sách ngoại giao của giai đoạn này sẽ
chú trọng hơn về lợi ích kinh tế trong quan hệ đối ngoại.
4.2. Nội dung đường lối
Trên cơ sở tiếp tục phát huy tinh thần của các Đại hội VI, VII, VIII, chính sách đối
ngoại trong Đại hội IX của Đảng (4/2001) đã đề ra: "Thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Nhiệm vụ đối ngoại trong
những năm tiếp theo được khẳng định "Tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và
tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập
dân tộc và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội".23 Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế là những nội dung mới trong chính sách đối ngoại
22 Tim Luard , Asean: Changing, but only slowly,

08/10/2003



của Đảng ta trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Theo tinh thần của Đại hội IX,
đối tượng trong quan hệ đối ngoại của ta có sự bổ sung thêm: Việt Nam không chỉ
sẵn sàng là bạn mà còn sẵn sàng là "đối tác tin cậy" của các nước trong cộng đồng
quốc tế. Điều này một lần nữa khẳng định chính sách đối ngoại nhằm phục vụ sự
phát triển kinh tế. Trên tinh thần đó, những nhiệm vụ trọng tâm được xác định và
triển khai đều bằng con đường và cách thức hoà bình, đều hướng vào mục tiêu giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Bên cạnh đó, chính
sách đối ngoại của nước ta luôn ưu tiên phát triển và chủ động thúc đẩy quan hệ
với các nước ASEAN, góp phần tích cực củng cố sự gắn kết, giữ vững những
nguyên tắc cơ bản của ASEAN, đẩy mạnh quan hệ hợp tác nội khối và quan hệ
của Hiệp hội với các đối tác bên ngoài.
Kế thừa nội dung của Đại hội IX nói riêng và các kỳ đại hội VI, VII, VIII nói
chung, Đại hội X (4/2006) tiếp tục thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trước
đấy và thêm vào một số điểm mới. Nghị quyết của Đại hội X của Đảng bổ sung
nội dung “hoà bình, hợp tác và phát triển” và đặc biệt nhấn mạnh định hướng đối
ngoại xuyên suốt: “Coi trọng và phát triển quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa
và các nước láng giềng” vào đường lối đối ngoại độc lập tự chủ của nước ta. Đó là
sự khẳng định mạnh mẽ hướng và thái độ của Việt Nam trong các quan hệ quốc tế
vào lúc hoà bình, hợp tác và phát triển là một xu thế chung của thời đại ngày nay.
Hoà bình là bản chất đặc thù của ngoại giao Việt Nam, là đạo lý của cả dân tộc
Việt, hoà bình cho mình và cho các dân tộc khác trên thế giới. Đại hội X còn
khẳng định quyết tâm của nhân dân ta là hợp tác với nhân dân thế giới để phát
triển, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế để tạo môi trường phát triển
chung một cách hoà bình. Ngoài việc là bạn và đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế như đã tuyên bố ở các đại hội Đảng trước đây, Việt Nam còn
“tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”. Vấn đề phân định
“bạn và “thù” trong nội dung Đại hội X biện chứng và linh hoạt hơn, bất cứ nước
nào tôn trọng chủ quyền và hợp tác cùng có lợi với Việt Nam là bạn của Việt
Nam, bất kỳ thế lực nào chống phá sự nghiệp đối mới xà xây dựng bảo vệ đất

nước thì là đối tượng đấu tranh của ta. Vì muốn mở rộng nhanh và hiệu quả hơn
quan hệ với các nước lớn và xây dựng vị thế trong ASEAN nên đường lối đối
ngoại của ta trong đại hội X lần đầu tiên đã dám khẳng định “đưa những mối quan
hệ quốc tế được thiết lập vào chiều sâu, ổn định và bền vững”. Đây là một quyết
định quan trọng và không phải dễ dàng nhưng nước ta sẽ quyế tâm thực hiện đến
cùng. 24
4.3. Quá trình triển khai trong thực tiễn
23 Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần IX, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội, 2001, trang 119
24 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

năm 2012, trang 377-385


Với ASEAN nói chung:
− Trong vòng một năm, từ tháng 7/2000 đến tháng 7/2001, Việt Nam hoàn
thành tốt vai trò Chủ tịch Ủy ban thường trực ASEAN (ASC) và Diễn đàn
khu vực ASEAN (ARF). Tổ chức và chủ trì thành công Hội nghị Bộ trưởng
Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 (AMM-34), Diễn đàn khu vực ASEAN lần
thứ 8 (ARF-8).
− Nhằm duy trì môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực, Việt Nam đã
cùng với các nước ASEAN khác ký với Trung Quốc Tuyên bố chung
ASEAN - Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (năm
2002). Sau khi ký kết, Việt Nam đã chủ động đưa ra các biện pháp cụ thể
để thực hiện Tuyên bố này theo hướng triển khai hợp tác dần từng bước.
Ngoài ra, Việt Nam cũng thể hiện vai trò tích cực trong việc ASEAN thông
qua Tuyên bố hòa hợp ASEAN 2 tại Ba-li, In-đô-nê-xi-a (tháng 10-2003)
trong đó đề ra những định hướng chiến lược cho sự phát triển của ASEAN,
hướng tới xây dựng một cộng đồng ASEAN năng động, tự cường và gắn

kết vào năm 2020 (sau này ASEAN quyết định là vào năm 2015) với ba trụ
cột chính là Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC), Cộng đồng Kinh tế
ASEAN (AEC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC). 25
− Ngoài việc, tham gia tích cực vào sự hợp tác ASEAN như làm tốt vai trò
điều phối viên ASEM, tổ chức tốt SEA GAMES 22, đăng cai Hội nghị cấp
cao ASEM 5..., chúng ta còn chủ động đua ra nhiều đề nghị nhằm thúc đẩy
sự đoàn kết hợp tác và phát triển của toàn khối, chủ động thúc đẩy các mặt
hợp tác khác kể cả hợp tác an ninh và quân sự với một số nước ASEAN
như Thái Lan, My-an-ma, Bru-nây, đẩy mạnh hợp tác lao động với Ma-laixi-a, In-đô-nê-xi-a trong khuôn khổ hợp tác hữu nghị toàn diện bước vào
thế kỷ XXI và Hiệp định phân định thềm lục địa… Đặc biệt lần đầu tiên
Việt Nam và Thái Lan tổ chức họp nội các chung của hai nước. Nhiều đoàn
đại biểu cấp cao của nước ta đã đến thăm chính thức các nước ASEAN và
ngược lại, các nước ASEAN cũng đến thăm chính thức Việt Nam. 26
Với Cam-pu-chia và Lào
− Việt Nam xem như Cam-pu-chia là láng giềng tin cậy, là đối tượng quan
trọng trong việc thực hiện chủ trương “Coi trọng và phát triển quan hệ với
các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng” vì vậy, Việt Nam đã
thúc đấy mối quan hệ với Cam-pu-chia bằng các chuyến viếng thăm chính
thức của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên từ ngày 3 đến 5/3/2000
mở đường cho chuyến thăm hữu nghị sau đó của Phó Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng ngày 27-30/8. Trên tinh thần láng giềng, hữu nghị Việt Nam đã
25 Lê Văn Phong, Việt Nam - ASEAN : 15 năm hội nhập và phát triển, Tạp chí Cộng sản,

, đăng ngày 27/7/2010
26 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

năm 2012, trang 329, 330.


đề nghị nước bạn giúp đỡ trong việc tìm và hồi hương hài cốt các chiến sĩ

tình nguyện Việt Nam đã hi sinh khi làm nhiệm vụ trong các thời kì chiến
đấu ở Cam-pu-chia không những thế chuyến thăm cũng mang lại nhiều kết
quả đáng ghi nhận như việc hai bên đa kí Hiệp đinh hợp tác về nông nghiệp
và hợp tác về y tế…Qua đó cho ta thấy tinh thần láng giềng thắm tình anh
em không chỉ được thể hiện trong kháng chiến mà còn được tô thắm thêm
trong thời kì hội nhập thế giới.
− Thành phố Hồ Chí Minh đã tài trợ xây dựng một bệnh viện ở Phnôm Pênh
đồng thời Hà Nội cũng xây dựng một con đường mang tên Hà Nội tại
Phnôm Pênh vào tháng 7/2004. Thông qua con đường đối ngoại của mình,
Việt Nam đã không ngừng củng cố và phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa
Việt Nam và Campuchia trên mọi lĩnh vực từ chính trị, văn hóa, khoa học,
giáo dục…
− Sang thế kỷ 21, hai nước Việt Nam-Lào đã hình thành thỏa thuận về Chiến
lược hợp tác giữa hai nước giai đoạn 2001-2010. Hơn nữa, Lãnh đạo Đảng,
Nhà nước, Quốc hội hai nước thường xuyên duy trì đều đặn các cuộc gặp
cấp cao, các cuộc tham khảo ý kiến giữa hai nước. Đặc biệt trong chuyến
thăm chính thức Lào vào tháng 7/2001 của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh,
hai bên đã ra Tuyên bố chung nêu đường hướng chỉ đạo cho quan hệ đặc
biệt Việt Nam – Lào, Việt Nam một lần nữa khẳng định: ”Hai bên phối hợp
chặt chẽ ở các diễn đàn quốc tế và khu vực, nhất là các hoạt động ASEAN,
tiểu vùng Mê Công, sông Hằng-Mê Công và nhóm công tác phát triển 3
vùng biên giới và các hoạt động hợp tác đa phương khác.” Ngoài ra, Phía
Việt Nam ta còn thường xuyên trao đổi đoàn các bộ, ban, ngành các cấp.
tháng 2/ 2001, Bộ trưởng Quốc phòng và tháng 5/ 2001 Bộ trưởng Công an
Việt Nam có chuyến thăm tới Lào. Gần đây, Việt Nam còn cử các đoàn cấp
tỉnh và các đoàn thể quần chúng sang thăm Lào nhằm thể hiện với bạn bè
rằng, Việt Nam luôn coi trọng mối quan hệ hữu nghị truyền thống và đoàn
kết đặc biệt Việt – Lào được thấm nhuần sâu rộng trong nhân dân và nhất là
trong thế hệ trẻ.
− Việt Nam thúc đẩy hợp tác trong tam giác phát triển giữa 3 nước Việt Nam,

Lào, Cam-pu-chia và các chương trình hợp tác “Tiểu vùng sông Mê-kông”,
xây dựng Hành Lang Đông-Tây… Thủ tướng ba nước đã tiến hành họp hội
nghị cấp cao thường niên để đánh giá kết quả hợp tác để kịp thời điều
chỉnh, bổ sung, xác định những nội dung hợp tác mới nhằm không ngừng
mở rộng, nâng cao hiệu quả quan hệ hợp tác giữa ba nước trên tất cả các
lĩnh vực.
4.4. Kết quả
4.4.1. Thành tựu
Có thể thấy được hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ Đại hội IX đến nay đã có
những bước tiến về chất, phát huy đường lối đối ngoại “độc lập tự chủ, đa dạng
hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế” lên một tầm cao mới, đóng góp rất quan


trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt trong quan hệ với
ASEAN, cơ quan đối ngoại của ta đã góp phần vào điều chỉnh chính sách kinh tế
đối ngoại trong điều kiện mới. Với Lào, đánh giá đúng tầm quan trọng của mối
quan hệ này, chính sách của ta hướng vào không ngừng mở rộng và nâng cao hợp
tác kinh tế, xem kinh tế là tiền đề vật chất gắn kết lâu dài mối quan hệ hai nước.
Với Cam-pu-chia, hợp tác kinh tế luôn đi kèm với sự tin cậy lần nhau trong quan
hệ đối ngoại, cùng nhau giải quyết tốt đẹp các vấn đề liên quan đến quyền lợi
chung như vấn đề người Thượng vượt biên trái phép sang Cam-pu-chia, vấn đề
người Khơ-me Crôm ở Đông Nam Bộ cũng như vấn đề kiều bào của ta tại Campu-chia. Với ASEAN nói chung, ngoại giao góp phần đánh giá đúng nội bộ của
ASEAN và mối quan hệ của ASEAN với bên ngoài. Trong đó có những thách
thức kinh tế mà ASEAN gặp phải, từ đó đề xuất các chủ trương phù hợp. Hiện
nay, về kinh tế, ASEAN là đối tác quan trọng của Việt Nam (chiếm 30% kim
ngạch xuất nhập khẩu, gần 20% vốn đầu tư).
Thông qua các kênh ngoại giao, quan hệ giữa ba nước Đông Dương ngày càng gắn
bó khắng khít hơn trên nền tảng hợp tác để giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, ổn
định chính trị, xã hội và hội nhập khu vực. Với các nước ASEAN khác, thông qua
con đường ngoại giao với In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, Xin-ga-po với các mức độ khác

nhau đã ký kết khuôn khổ hợp tác hữu nghị và toàn diện, tạo cơ sở pháp lý cần
thiết, nâng tầm quan hệ của nước ta với các đối tác lên tầm quan trọng, hữu nghị
và tin cậy lẫn nhau trên tất cả các lĩnh vực. Việt Nam từ khi gia nhập ASEAN luôn
ưu tiên hợp tác khu vực, ký các Hiệp định về cắt giảm thuế khu vực mậu dịch
chung, các Hiệp định về đầu tư, công nghệ thông tin và hiện nay đang thúc đẩy
thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)… 27 Bên cạnh đó chúng ta còn chủ
động thực hiện lộ trình tham gia AFTA và vận động các nước gia nhập WTO một
cách sớm nhất. Về công tác truyền thông, văn hoá đối ngoại, công tác người Việt
Nam ở nước ngoài ngày càng phong phú và hiệu quả hơn. Những cố gắng ấy giúp
thế giới hiểu đúng hơn về đất nước, con người, đường lối đối nội và đối ngoại của
ta. Thông qua các biện pháp, chính sách mới và các cuộc tiếp xúc với các cấp tại
nước sở tại, chúng ta đã tạo thêm điều kiện cho công đồng người Việt Nam ở nước
ngoài ổn định và vững mạnh, duy trì văn hoá truyền thống, mới dây liên lạc với
quê hương, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của dân tộc.
Có thể giai đoạn này, quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN đã đạt mức độ gắn bó
hơn rất nhiều, đặc biệt là về kinh tế, các nước ASEAN cùng cố gắng xây dựng một
cộng đồng chung cho tương lai và Việt Nam luôn hỗ trợ hết mình cho khát vọng
đó.
4.4.2. Hạn chế
Về nguồn nhân lực: Càng về sau này, công tác đối ngoại của chúng ta càng phong
phú, phức tạp và phải linh hoạt hơn vì vậy, nguồn nhân lực là một vấn đề quan
trọng góp phần thành công cho chính sách đối ngoại của ta. Tuy nhiên, chất lượng
27 Trần Nam Tiến, Tập bài giảng môn Chính sách đối ngoại Việt Nam, Khoa Quan hệ quốc tế,

năm 2012, trang 318-334.


và số lượng nguồn nhân lực của nước ta cho lĩnh vực đối ngoại còn kém vá ít do
thiếu trường lớp đào tạo và những tình trạng tiêu cực như mua chức quyền, tín
nhiệm người thân chưa thông qua năng lực thực tiễn.

Một số chủ trương chính sách của ta còn chậm được đổi mới so với yêu cầu của
quan hệ đối ngoại, hội nhập, hệ thống pháp luật cũng chưa được hoàn chỉnh và
đồng bộ, gây khó khăn cho việc thực hiện các cam kết quốc tế và trong khu vực.
Về mặt xã hội: có thể tạo ra các dòng di cư lớn, trong đó có “chảy máu chất xám”,
làm tăng nạn thất nghiệp và tệ nạn do nhiều công ty bị phá sản và nhiều người
chưa thể làm quen hay điều chỉnh phù hợp với cơ chế hay môi trường mới.28
MỘT SỐ BÀI HỌC RÚT RA TRONG CÔNG TÁC ĐỔI MỚI ĐỐI NGOẠI:
29

− Bài học thứ nhất là luôn đổi mới tư duy cho kịp với sự phát triển của thời

đại.
Dòng chủ lưu của thời đại hiện nay là hòa bình và phát triển, do đó không thể
mang tư duy "chiến tranh lạnh" để giải quyết các vấn đề quốc tế hiện nay. Việc
đổi mới tư duy là phải thường xuyên, phải theo kịp thực tiễn của cuộc sống
đang biến đổi từng ngày, từng giờ trong thời đại tin học và kinh tế tri thức.
Trong thập kỷ 70 của thế kỷ trước, chu kỳ thay đổi của một công nghệ mới là
15 năm, nay chỉ còn 2 năm. Trong quan hệ quốc tế, việc đổi mới tư duy trước
hết là qua việc đánh giá tình hình và nắm bắt những xu thế chính của thời đại.
Trong thời đại mà hòa bình và phát triển là dòng chảy chính thì hợp tác phải
thay cho đối đầu. Hợp tác không có nghĩa là không cạnh tranh, nhưng cạnh
tranh là để tăng cường hợp tác chứ không phải để dẫn đến đối đầu.
Do đó, việc đổi mới tư duy sẽ dẫn ta đến việc thay đổi cách xác định bạn, thù.
Thời đại đơn thuần dùng ý thức hệ để phân biệt bạn, thù đã qua rồi. Mỗi dân
tộc có quyền lựa chọn con đường phát triển riêng của mình. Điều này phù hợp
với các quy tắc ứng xử quốc tế.
Đổi mới tư duy còn dẫn đến việc giải quyết những mâu thuẫn quốc tế. Thế giới
với trên 200 nước, hàng trăm dân tộc, hàng ngàn bộ tộc và tôn giáo thì không
thể không còn mâu thuẫn. Trong thời kỳ "chiến tranh lạnh", phương thức giải
28 Vụ Thông tin Báo chí, Bộ Ngoại giao Việt Nam, Việt Nam-ASEAN: 10 năm đồng hành hội


nhập, />Viện Nghiên Cứu Phát Triển TP.HCM, Ngoại giao Việt Nam sau 20 năm đổi mới,
/>p_p_id=EXT_ARTICLEVIEW&p_p_lifecycle=0&p_p_state=normal&p_p_col_id=center
top&p_p_col_count=1&_EXT_ARTICLEVIEW_struts_action=%2Fext%2Farticleview
%2Fview&_EXT_ARTICLEVIEW_groupId=13025&_EXT_ARTICLEVIEW_articleId=53174
&_EXT_ARTICLEVIEW_version=1.0&_EXT_ARTICLEVIEW_i=0&_EXT_ARTICLEVIEW_
curValue=1&_EXT_ARTICLEVIEW_redirect=%2Fweb%2Fguest%2Fco-che-chinh-sach2
29


quyết mâu thuẫn là theo cách mà ông cha ta thường nói là "cái sảy nảy cái
ung". Trong thế giới của hòa bình và phát triển, nếu một khi mâu thuẫn nhỏ
xảy ra thì phải thông qua tiếp xúc thương lượng để giải quyết và khi mâu thuẫn
lớn xảy ra thì phải biến nó thành mâu thuẫn nhỏ, không để mâu thuẫn dù lớn
hay nhỏ ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế.
− Bài học thứ hai là đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và nắm vững nguyên tắc
độc lập, tự chủ trong mọi hoạt động đối ngoại.
Lợi ích cao nhất của nhân dân ta là độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết một chân lý ngắn gọn là "không có
gì quý hơn độc lập, tự do". Bảy mươi sáu năm đấu tranh của Đảng và 60 năm
của chính quyền nhân dân là nhằm thực hiện và bảo vệ lợi ích dân tộc tối cao
đó. Lợi ích cao nhất của dân tộc ta hoàn toàn phù hợp với những quyền dân tộc
cơ bản mà luật pháp quốc tế đã công nhận. Đó là lợi ích dân tộc chân chính và
vĩnh viễn của nhân dân ta, không vì lợi ích trước mắt, cục bộ nào đó mà có thể
nhân nhượng. Tuy nhiên, đất nước ta từng bị thực dân phong kiến đô hộ hàng
thế kỷ, phải đối đầu với các thế lực đế quốc lớn mạnh hơn gấp nhiều lần nên
cuộc đấu tranh để thực hiện những quyền cơ bản của dân tộc ta phải lâu dài,
biết thắng từng bước, thậm chí có lúc phải nhân nhượng để tiếp tục tiến lên,
nhưng trong bất cứ trường hợp nào, chúng ta luôn đặt mục tiêu đấu tranh cuối
cùng là nhằm thực hiện và bảo vệ lợi ích dân tộc tối cao đó.

Để đạt được và bảo vệ lợi ích tối cao của dân tộc, trong mọi chính sách và hoạt
động đối ngoại đòi hỏi phải giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ. Chỉ có độc
lập, tự chủ thì trong chủ trương chính sách và biện pháp đấu tranh ngoại giao
mới bảo vệ trọn vẹn lợi ích dân tộc mình. Có đường lối ngoại giao độc lập, tự
chủ mới chủ động tránh được sức ép của bên ngoài, bảo đảm được những lợi
ích của dân tộc. Điều này không có nghĩa là ta chủ trương theo đuổi một chính
sách dân tộc vị kỷ. Trong khi bảo vệ, đấu tranh cho lợi ích của dân tộc mình,
chúng ta đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân
thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
− Bài học thứ ba là trong khi chúng ta chủ trương trở thành bạn và đối tác
tin cậy của các dân tộc trong cộng đồng quốc tế thì ưu tiên hàng đầu là
phải có quan hệ láng giềng tốt với tất cả các nước trong khu vực và có
quan hệ cân bằng với tất cả các nước lớn.
Trước năm 1986, do quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng và các
nước lớn gặp nhiều trắc trở nên trong thời gian gần 10 năm, nước ta bị cô lập
về ngoại giao. Quan hệ với các nước lớn rất phức tạp, đòi hỏi phải có một
chính sách ngoại giao nhìn xa, trông rộng và tài đối xử khéo léo trên tinh thần
cùng có lợi và cùng tồn tại hòa bình.
Thực tiễn của thế giới cho thấy, giữa các nước láng giềng với nhau luôn có
những vấn đề tranh chấp do lịch sử để lại. Ngoài ra, lực lượng so sánh và lợi
ích của các nước nằm trong một khu vực, biên giới kế tiếp nhau không bao giờ
như nhau. Từ đó có thể nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Giải quyết những mâu thuẫn
đó đòi hỏi nỗ lực và thiện chí của tất cả các bên liên quan mà điều kiện đầu tiên


×