Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại công ty TNHH một thành viên Vận tải và Xây dựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.58 KB, 69 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xây dựng là một trong những ngành kinh tế lớn của nền kinh tế quốc
dân.Trong điều kiện nước ta đang thực hiện công nghiệp hóa- hiện đại hóa,
công việc quan trọng đầu tiên, trước nhất cần phải làm đó là mở mang các
công trình giao thông, phát triển dịch vụ vận tải, đẩy mạnh lưu thông hàng
hóa, giao thương giữa các vùng miền. Chính vì thế, xây dựng và vận tải, đặc
biệt là xây dựng cơ bản đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Nó đi trước mở
đường cho các ngành kinh tế khác, tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và tài
sản cố định; thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, ứng dụng khoa học kỹ thuật và
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân.
Một trong những đặc điểm nổi bật của ngành xây dựng đó là thời gian
thi công dài kéo theo tài sản lưu động (bao gồm tiền,hàng tồn kho, và các
khoản phải thu) lớn cả về số tuyệt đối và số tương đối (trong mối tương quan
với tổng tài sản). Doanh nghiệp quản lý, sử dụng tốt tài sản lưu động sẽ tiết
kiệm được chi phí (chi phí lưu kho, chi phí cơ hội của các khoản tiền…) mà
vẫn đảm bảo sản xuất thông suốt. Ngược lại có thể gây tốn kém, lãng phí khi
dự trữ quá nhiều tài sản lưu động; hoặc làm gián đoạn quá trình thi công nếu
dự trữ thiếu tài sản lưu động. Vì thế sử dụng tài sản lưu động một cách hiệu
quả có vai trò lớn trong hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của doanh
nghiệp. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập kinh tế quốc
tế, cạnh tranh ngày càng khốc liệt, hiệu quả quản lý tài sản nói chung, và
hiệu quả tài sản lưu động nói riêng cao là yếu tố quan trọng tạo nên sức
mạnh cạnh tranh cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp bứt phá.
Được thành lập từ 1993 dưới tên gọi: Công ty Vật tư Kỹ thuật ô tô
trực thuộc Bộ Giao thông vận tải, đến nay công ty TNHH một thành viên
Vận tải và Xây dựng (TRANCO) đã từng bước khẳng định vị trí của mình
trong ngành vận tải ô tô và xây lắp. Công ty đã không ngừng mở rộng quy
mô kinh doanh, tăng hiệu quả quả sử dụng tài sản,qua đó nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh. Sản phẩm xây lắp của Công ty chủ yếu là thi
1
công xây dựng đường, công trình thủy lợi và dân dụng. Quy mô công trình


tuy không lớn nhưng có đóng góp tích cực vào các công trình trọng điểm của
ngành giao thông vận tải như: Thi công quốc lộ 6 Sơn La- Tuần Giáo, đường
HCM đoạn Đức Huệ- Long An, các công trình trọng điểm của địa phương
như: quốc lộ 18 Mông Dương- Móng cái, QL 279 Lào Cai, QL 21b Hà
Nội….. Đạt được rất nhiều thành công, tuy nhiên trong công tác quản lý tài
sản lưu động, công ty vẫn còn những hạn chế, khó khăn cần khắc phục để
công ty hoạt động hiệu quả hơn.
Trong thời gian vừa qua, thực tập tại Công ty TNHH một thành viên
Vận tài và Xây dựng (TRANCO), được sự hướng dẫn tận tình của Giảng
viên Th.s Nguyễn Thị Ngọc Diệp, cùng các cô chú, anh chị phòng Tài chính-
Kế toán của công ty, em đã phần nào nhận thức được vai trò quan trọng của
hiệu quả sử dụng tài sản lưu động đối với các doanh nghiệp ngành xây dựng
nói chung và với Công ty TNHH một thành viên Vận tải và Xây dựng nói
riêng. Vì thế em đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài:
“Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại công ty TNHH
một thành viên Vận tải và Xây dựng” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của
mình.
Chuyên đề gồm ba phần chính:
Chương I: Những vấn đề chung vê hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
trong doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của công ty
TNHH một thành viên Vận tải và Xây dựng
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của
Công ty TNHH một thành viên vận tải và xây dựng.
2
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN
LƯU ĐỘNG
1.1. Tài sản lưu động của doanh nghiệp
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp

Nếu nền kinh tế là một cơ thể sống, thì mỗi doanh nghiệp là một tế
bào. Sức khỏe của nền kinh tế phụ thuộc vào tình hình hoạt động của mỗi tế
bào ấy.
Xét trên giác độ tài chính, doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có
tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên tị trường nhằm làm tăng giá trị
của chủ sở hữu.
Điều 4, mục 1, chương I, Luật doanh nghiệp 2005 quy định:
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các mục đích kinh doanh.” Ở đây, kinh doanh được hiểu là
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu
tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lợi.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các chủ thể
kinh doanh sau đây:
 Kinh doanh cá thể (sole proprietorship)
 Kinh doanh góp vốn ( partnership )
 Công ty (corporation).
Trong đó, công ty là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có sự kết hợp ba
loại lợi ích: lợi ích của cổ đông (chủ sở hữu), lợi ích của hội đồng quản trị và
lợi ích của những nhà quản lý. Theo truyền thống, cổ đông kiểm soát toàn bộ
phương hướng, chính sách và hoạt động của công ty. Cổ đông bầu nên hội
đồng quản trị sau đó hội đồng quản trị lựa chọn ban quản lý. Các nhà quản lý
điều hành hoạt động của công ty theo cách thức mang lại lợi ích tốt nhất cho
các cổ đông.
3
Điều 63, mục 1, Luật doanh nghiệp 2005 quy định: Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá
nhân làm chủ sở hữu( sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công ty
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong

phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của tài sản lưu động
1.1.2.1 Khái niệm tài sản lưu động
Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân
chuyển trong quá trình kinh doanh.
Để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục, không bị gián
đoạn thì dù là doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp thương mại cũng cần
phải có đủ một lượng tài sản lưu động nhất định trong cơ cấu tài sản của
mình. Tài sản lưu động là một bộ phận không thể tách rời trong mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Không giống như tài sản cố
định là những yếu tố của tư liệu lao động được sử dụng trong một thời gian
luân chuyển tương đối dài và có giá trị đơn vị tương đối lớn, tài sản lưu động
là những yếu tố của tư liệu lao động được sử dụng trong thời gian luân
chuyển ngắn. Khi sử dụng, chúng được tiêu hao hoàn toàn vào quá trình sản
xuất trong một lần chu chuyển, thay đổi hình thái vật chất và chuyển toàn bộ
giá trị vào sản phẩm được sản xuất ra.
Các tài sản lưu động phần lớn đóng vai trò là đối tượng lao động, tức
là các vật bị tác động trong quá trình chế biến, bởi lao động của con người
hay máy móc. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, tài sản lưu
động của doanh nghiệp, tài sản lưu động của doanh nghiệp được thể hiện ở
các bộ phận: tiền mặt, chứng khoán thanh khoản cao, phải thu và dự trữ tồn
kho. Giá trị các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp sản xuất thường
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của chúng.
Quy mô tài sản lưu động của một doanh nghiệp tăng giảm theo chu kì
kinh doanh và xu hướng mùa vụ. Vào giai đoạn tăng trưởng của chu kì kinh
doanh, doanh nghiệp thường đạt mức tài sản lưu động tối đa.
4
Quản lý sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động có ảnh hưởng rất
quan trọng đối việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp. Mặc dù
hầu hết các vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố, chứ

không phải chỉ do quản trị tài sản lưu động tồi. Nhưng cũng có thể thấy rằng
sự bất lực của một số công ty trong việc hoạch định và kiểm soát một cách
chặt chẽ các loại tài sản lưu động và các khoản nợ ngắn hạn hầu như là một
nguyên nhân dẫn đến thất bại cuối cùng của họ.
1.1.2.2. Đặc điểm của tài sản lưu động
Tài sản lưu động là một phần không thể thiếu và được luân chuyển
thường xuyên trong quá trình sản xuất kinh doanh, góp phần duy trì hoạt
động sản xuất kinh doanh được liên tục, không bị gián đoạn. Chính vì vậy
mà tài sản lưu động có những đặc điểm sau:
 Thứ nhất, tài sản lưu động có tính thanh khoản cao nên đáp ứng
đươc khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
 Thứ hai, khi tham gia vào sản xuất kinh doanh,tài sản lưu động
luôn vận hành, thay thế và chuyển hóa nhau qua các công đoạn
của quá trình sản xuất kinh doanh.
 Thứ ba, tài sản lưu động dễ dàng chuyển hóa từ dạng vật chất
sang tiền tệ dễ dàng mà không chịu chi phí lớn. Tuy nhiên, điều
này lại gây khó khăn cho quản lý, chống thất thoát.
 Thứ tư, tài sản lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ kinh
doanh. Chính đặc điểm này đòi hỏi doanh nghiệp phải duy trì
một lượng vốn ngắn hạn nhất định để đầu tư, mua sắm tài sản
lưu động, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến
hành liên tục.
 Thứ năm, không như đầu tư vào tài sản cố định, các khoản đầu
tư cho tài sản lưu động thường có thể hủy bỏ bất cứ thời điểm
nào mà không phải chịu chi phí tốn kém. Điều đó có được là do,
tài sản lưu động phải đáp ứng nhanh chóng sự biến động của
doanh số và sản xuất. Đổi lại, tài sản lưu động thường chịu sự lệ
5
thuộc khá nhiều vào những dao động mang tính mùa vụ và chu
kỳ trong kinh doanh.

 Thứ sáu, lợi nhuận đầu tư vào tài sản lưu động là lợi nhuận gián
tiếp.
1.1.3. Phân loại tài sản lưu động
Tài sản lưu động trong doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú. Mỗi
loại có tính chất và công dụng khác nhau, vì thế nó được phân loại khác
nhau tùy theo mục đích và tiêu chí áp dụng. Ta có thể phân loại tài sản lưu
động theo lĩnh vực tham gia luân chuyển hoặc theo tính thanh khoản của tài
sản ngắn hạn.
1.1.3.1. Phân loại theo lĩnh vực tham gia luân chuyển
Theo tiêu chí này, tài sản lưu động được chia thành ba loại:
- Tài sản lưu động sản xuất bao gồm các tài sản dự trữ cho quá trình
sản xuất như nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu…. và tài sản trong
sản xuất như sản phẩm dở dang, bán thành phẩm…
- Tài sản lưu động lưu thông là toàn bộ cá tài sản dự trữ cho quá
trình lưu thông của doanh nghiệp bao gồm: thành phẩm, hàng gửi
bán và các tài sản trong quá trình lưu thông như các khoản phải
thu, vốn bằng tiền.
- Tài sản lưu động tài chính là những khoản đầu tư tài chính ngắn
hạn với mục đích sinh lời, bao gồm: đầu tư chứng khoán ngắn hạn,
đầu tư liên doanh…
1.1.3.2. Phân loại theo tính thanh khoản
Đây là cách phân loại dựa trên khả năng huy động cho việc thanh
toán. Theo cách phân loại này thì tài sản lưu động bao gồm: tiền và các
khoản tương đương tiền, đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, các
khoản ứng trước, hàng tồn kho và các tài sản ngắn hạn khác.
- Tiền: bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang
chuyển và các khoản tương đương tiền như vàng, đá quý… Đây là
tài sản có tính thanh khoản cao nhất trong doanh nghiệp, chính vì
vậy doanh nghiệp cần duy trì một cách hợp lý, không quá nhỏ để
6

đảm bảo khả năng thanh toán nhưng cũng không quá lớn dẫn đến
lãng phí, ứ đọng vốn của doanh nghiệp.
- Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn bao gồm các chứng khoán
ngắn hạn, các khoản đầu tư ngắn hạn khác, các khoản dự phòng
đầu tư ngắn hạn… Đây là khoản vừa có tính thanh khoản cao, vừa
có khả năng sinh lời. Khi có nhu cầu thanh toán mà tiền không đáp
ứng đủ thì doanh nghiệp sẽ bán các chứng khoán này.
- Các khoản phải thu (tín dụng thương mại) bao gồm các khoản phải
thu khách hàng… là một loại tài sản rất quan trọng đối với doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp thương mại. Muốn mở rộng mạng
lưới tiêu thụ và tạo dựng mối liên hệ lâu dài, doanh nghiệp bán
chịu cho khách hàng, chính vì vậy đã phát sinh ra các khoản tín
dụng thương mại. Tín dụng thương mại có thể giúp doanh nghiệp
nâng cao doanh số, từ đó tăng doanh thu, nhưng cũng có thể đẩy
doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn khi doanh nghiệp không thể
hoặc khó thu hồi nợ từ khách hàng.
- Các khoản ứng trước: bao gồm các khoản tiền mà doanh nghiệp đã
trả trước cho người bán, nhà cung cấp hoặc cho các đối tượng
khác. Ngoài ra, còn có các khoản tạm ứng cho công nhân viên
trong doanh nghiệp.
- Hàng tồn kho: “hàng tồn kho” trong khái niệm này không có nghĩa
là hàng hóa bị ứ đọng, không bán được mà nó bao gồm toàn bộ
hàng hóa vật liệu, nguyên liệu đang tồn tại ở các kho, quầy hàng
hoặc trong xưởng. Trên thực tế, hàng tồn kho bao gồm hàng trăm
loại khác nhau, tuy nhiên, có thể phân thành các nhóm chính sau:
nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, vật liệu bổ trợ, nhiên
liệu, thành phẩm, sản phẩm dở dang và bán thành phẩm, công cụ
dụng cụ…
Các doanh nghiệp khác nhau thì các khoản mục này có giá trị và tỷ
trọng khác nhau trong tổng tài sản lưu động. Tuy nhiên, doanh

nghiệp nào cũng cần phải có một chế độ quản lý khoa học và hợp
7
lý để vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh thông suốt, vừa giảm
được những chi phí không cần thiết, từ đó giúp cho việc quản lý và
sử dụng tài sản lưu động có hiệu quả hơn.
- Tài sản lưu động khác: bao gồm các khoản tạm ứng, chi phí chờ
kết chuyển…
Tuy nhiên, trên thực tế, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ các
khoản mục trên trong bảng cân đối kế toán. Thường thì trong doanh nghiệp
chỉ có các khoản chính như: tiền, khoản phải thu, hàng tồn kho và tài sản lưu
động khác.
Trong quá trình kinh doanh, tài sản lưu động luôn có sự vận hành,
thay thế và chuyển hóa nhau, nên việc phân loại tài sản lưu động như các
cách trên chỉ mang tính chất tương đối. Doanh nghiệp xác định được cách
phân loại phù hợp với mình sẽ có ưu thế trong việc bỏa tồn, quản lý và sử
dụng tài sản lưu động.
1.1.4. Vai trò của tài sản lưu động trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Như đã nói ở trên, hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng
không thể không có tài sản lưu động. Dù đó là doanh nghiệp sản xuất hay
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ thì tài sản lưu
động đóng vai trò không thể thiếu đối với các doanh nghiệp.
Tài sản lưu động giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được vận hành một cách liên tục, không bị gián đoạn. Trong sản
xuất, tài sản lưu động giúp cho doanh nghiệp sản xuất thông suốt, đảm bảo
quy trình công nghệ, công đoạn sản xuất. Trong lưu thông, tài sản lưu động
đảm bảo dự trữ thành phẩm đáp ứng đơn đặt hàng của khách và nhu cầu tiêu
thụ nhịp nhàng
Tài sản lưu động giúp cho doanh nghiệp đảm bảo được khả năng
thanh toán, khi duy trì ở một mức độ hợp lý nó đem lại cho doanh nghiệp

những lợi thế nhất định như được hưởng chiết khấu thương mại, chiết khấu
thanh toán… Từ đó giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí, làm tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp.
8
Tài sản lưu động giúp doanh nghiệp tạo dựng được mối quan hệ mật
thiết với khách hàng, đặc biệt là khách hàng lớn và thân thuộc thông qua
chính sách tín dụng thương mại.
Thời gian luân chuyển tài sản lưu động lớn khiến cho công việc quản
lý và sử dụng tài sản lưu động luôn diễn ra thường xuyên, liên tục. Với vai
trò to lớn như vậy, việc tăng tốc độ luân chuyển tải sản lưu động, nâng cao
hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong doanh nghiệp là nhu cầu tất yếu.
1.2. Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong doanh nghiệp
Trong bất kỳ lĩnh vực nào, hiệu quả luôn là tiêu chí được quan tâm
hàng đầu. Doanh nghiệp hướng tới hiệu quả kinh tế, còn chính phủ nỗ lực
đạt hiệu quả kinh tế xã hội. Đối với các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế
thị trường ngày nay thì việc nâng cao hiệu quả tài sản lưu động luôn là vấn
đề mà các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp quan tâm vì vai trò và sự ảnh
hưởng của nó tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo nghĩa chung nhất, hiệu qua là một khái niệm phản ánh trình độ
sử dụng các yếu tố đầu để tạo ra kết quả đầu ra tốt nhất với mục đích xác
định. Như vậy, có thể hiểu hiệu quả sử dụng là một phạm trù kinh tế đánh
giá trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất
trong quá trình sản xuất kinh doanh, tối đa hóa lợi ích của chủ sở hữu với
tổng chi phí thấp nhất. Do đó, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là phạm trù
kinh tế đánh giá trình độ sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp để đạt
được mục tiêu cao nhất với mức tài sản lưu động hợp lý (tối đa hóa lợi ích
và tối thiểu hóa chi phí).
Tài sản lưu động của doanh nghiệp được sử dụng cho các quá trình dự
trữ, sản xuất và lưu thông. Quá trình vận động của tài sản lưu động bắt đầu

từ việc dung tiền tệ mua sắm vật tư dự trữ cho quá trình sản xuất, tiến hành
sản xuất, bán sản phẩm thu về tiền tệ ở khâu cuối cùng với giá trị tăng thêm.
Mỗi lần vận động như vậy được gọi là một vòng luân chuyển của tài sản lưu
động. Doanh nghiệp sử dụng tài sản lưu động đó càng hiệu quả bao nhiêu thì
càng có thể sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhiều, thu về lợi nhuận nhiều bấy
9
nhiêu. Vì lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng hợp lý,
hiệu quả hơn từng đồng tài sản lưu động, điều đó đồng nghĩa với doanh
nghiệp nâng cao tốc độ luân chuyển tài sản lưu động (số vòng quay tài sản
lưu động trong một năm).
Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lao động chúng ta có thể sử dụng
nhiều chỉ tiêu khác nhau, nhưng tốc độ luân chuyển tài sản lưu động là chỉ
tiêu cơ bản và tổng hợp nhất phản ánh trình độ sử dụng tài sản lưu động của
doanh nghiệp.
1.2.2. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động luôn là vấn đề quan
tâm của các nhà quản trị tài chính và cũng là điều rất cần thiết đối với các
doanh nghiệp vì:
- Thứ nhất, nó đảm bảo khả năng linh hoạt về tài chính, nâng cao
tính tự chủ và giảm bớt rủi ro trong kinh doanh cho doanh nghiệp.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động làm cho tài sản
lưu động được quay vòng nhanh, dẫn đến tiết kiệm chi phí cho
doanh nghiệp, doanh nghiệp đầu tư được nhiều vốn hơn cho kinh
doanh, tự chủ, ít phụ thuộc vào nguồn bên ngoài doanh nghiệp,
giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp.
- Thứ hai, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động sẽ tạo ra sự an
toàn cho doanh nghiệp, bảo đảm khả năng thanh toán cho doanh
nghiệp, đồng thời giúp sản xuất của doanh nghiệp được thông suốt,
không bị trì trệ, giảm thiểu được chi phí, hoàn thành kế hoạch đã
đề ra.

- Thứ ba, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động cũng làm tăng
cường sự gắn bó của doanh nghiệp với thị trường (bao gòm cả các
nhà cung cấp và khách hàng), và xã hội
- Thứ tư, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động góp phần nâng
cao hiệu quả tổng tài sản của doanh nghiệp.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh
nghiệp
10
Nợ ngắn hạn
Tiền
Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động không thể được đánh giá đúng nếu chỉ
dựa vào một và chỉ tiêu đơn lẻ, nó là quá trình xem xét, đánh giá, phân tích
một cách tổng hợp và toàn diện trên nhiều góc độ, khía cạnh của riêng doanh
nghiệp, và của doanh nghiệp trong mối tương quan với chỉ tiêu chung của
toàn ngành.
1.2.3.1. Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Do đặc điểm của tài sản lưu động là những tài sản có tính thanh khoản
cao, sử dụng hiệu quả tài sản lưu động tức là lựa chọn hợp lý khả năng thanh
khỏn và khả năng sinh lời. Chính vì vậy, khi đánh giá hiệu quả sử dụng tài
sản lưu động thì các chỉ tiêu về khả năng thanh toán là không thể thiếu.
(1) Tỷ số thanh toán hiện hành =
Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán
ngắn hạn cả doanh nghiệp, nó cho biết mỗi một đồng nợ của doanh nghiệp
được trang trải bằng bao nhiêu đồng tài sản lưu động. Nếu hệ số thanh toán
hiện hành giảm, cho thấy khả năng thanh toán của doanh nghiệp giảm, là
dấu hiệu báo trước khó khăn tài chính trong tương lai. Nếu hệ số này cao,
nghĩa là doanh nghiệp sẵn sàng trong việc trả nợ, đảm bảo được khả năng
thanh toán. Tuy nhiên, nếu tỷ số thanh toán hiện hành quá cao sẽ gây tốn
kém, ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
(2) Tỷ số thanh toán nhanh =

Tỷ số này được tính trên tài sản lưu động có thể nhanh chóng được
chuyển đổi thành tiền. Hàng tồn kho là tài sản khó chuển đổi thành tiền hơn
trong các loại tài sản lưu động và dễ bị lỗ khi đem bán, do đó tỷ số khả năng
thanh toán nhanh cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không
phụ thuộc vào việc bán các tài sản dự trữ (hàng tồn kho).
(3) Khả năng thanh toán tức thời =
11
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
TSLĐBQ
`ky
Tỷ số này phản ánh khả năng thanh toán tức thời cho các khoản nợ
đến hạn trả của doanh nghiệp. Hệ số này phản ánh rõ nhất hiệu quả sử dụng
và quản lý tiền của doanh nghiệp. Hệ số này quá thấp sẽ khiến doanh nghiệp
khó khăn trong thanh toán, có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Nhưng
nếu tỷ số này cao, thì lại gây lãng phí do vốn bị ứ đọng.
1.2.3.2. Các chỉ tiêu về khả năng hoạt động
(1)Tốc độ lưu chuyển tài sản lưu động
Trong tài chính, tóc độ luân chuyển tài sản lưu động là một chỉ tiêu
tổng hợp rất quan trọng đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tốc
độ luân chuyển tài sản lưu động nhanh hay chậm nói lên tình hình tổ chức
các mặt: mua sắm, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp có hợp lý hay
không, các khoản vật tư dự trữ sử dụng tốt hay không, các khoản phí tổn
trong quá trình sản xuất kinh doanh là cao hay thấp. Thông qua phân tích chỉ
tiêu tốc độ luân chuyển tài sản lưu động có thể giúp cho doanh nghiệp tìm ra
giải pháp đẩy nhanh được tốc độ luân chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng tài
sản lưu động.
 Vòng quay tài sản lưu động trong kỳ

Vòng quay TSLĐ=
Trong đó:
- Trong năm tổng mức luân chuyển tài sản lưu động được xác định
bằng doanh thu thuần của doanh nghiệp.
- : Tài sản lưu động bình quân trong kỳ, được tính
như sau:
====
12
Tổng mức luân chuyển TSLĐ trong kỳ
TSLĐBQ
kỳ
TSLĐBQ
`ky
TSLĐ
đầu kỳ
+ TSLĐ
cuối kỳ
2
TSLĐBQ
kỳ
x Thời gian của kỳ phân tích
-Tài sản lưu động bình quân năm:
TSLĐBQ
năm
=
Để đơn giản trong tính toán ta sủ dụng công thức tính TSLĐBQ gần đúng:
TSLĐBQ
năm
=
Ta có:

Vòng quay TSLĐ
năm
=
Đây là chỉ tiêu nói lên số lần quay (vòng quay) của tài sản lưu động
trong một thời gian nhất định (thường là một năm), chỉ tiêu này đánh giá
hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trên mối quan hệ so sánh giữa kết quả sản
xuất (tổng doanh thu thuần) và số tài sản lưu động bình quân bỏ ra trong kỳ.
Số vòng tài sản lưu động trong kỳ càng cao thì càng tốt.
 Thời gian luân chuyển tài sản lưu động
Thời gian luân chuyển TSLĐ =
Hay
Thời gian lưu chuyển TSLĐ =
Trong đó:
Thời gian của kỳ phân tích được ước tính một năm là 360 ngày, một
quý là 90 ngày và một tháng là 30 ngày.
13
TSLĐ
đầu tháng1
/2+TSLĐ
đầu tháng2
+…+TSLĐ
đầu tháng12
+TSLĐ
cuối tháng12
/2
12
TSLĐ
đầu năm
+TSLĐ
cuối năm

2
Doanh thu thuần
TSLĐBQ
năm
Tổng mức luân chuyển TSLĐ trong kỳ
Thời gian của kỳ phân tích
Vòng quay TSLĐ trong kỳ
Chỉ tiêu này nói lên độ dài bình quân của một lần luân chuyển của tài
sản lưu động hay số ngày bình quân cần thiết để tài sản lưu động thực hiện
một vòng quay trong kỳ. Ngược với chỉ tiêu số vòng quay tài sản lưu động
trong kỳ, thời gian luân chuyển tài sản lưu động càng ngắn càng chứng tỏ tài
sản lưu động được sử dụng có hiệu quả.
 Hệ số đảm nhiệm tài sản lưu động
Hệ số đảm nhiệm TSLĐ =
Hệ số này cho biết: để thu được mỗi đơn vị doanh thu, doanh nghiệp
phải sử dụng bao nhiêu đơn vị tài sản lưu động. Hệ số này càng thấp thì hiệu
quả sử dụng tài sản lưu động càng cao. Thông qua chỉ tiêu này, các nhà quản
trị tài chính xây dựng kế hoạch về đầu tư tài sản lưu động một cách hợp lý,
góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
(2)Tốc độ luân chuyển hàng tồn kho
Trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì hàng tồn kho thường
chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản lưu động, do vậy hiệu quả sử dụng tài
sản lưu động bị ảnh hưởng đáng kể của hieuj quả sử dụng hàng tồn kho. Khi
phân tích hiệu quả của hàng tồn kho, ta sử dụng chỉ tiêu sau:
 Số vòng quay của hàng tồn kho
Số vòng quay HTK =
Chỉ tiêu này cho biết, trong kỳ phân tích hàng tồn kho quay được bao
nhiêu vòng, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn đầu tư hàng tồn kho vận
động không ngừng đó là nhân tố để tăng doanh thu, góp phần tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp.

 Số ngày tồn kho bình quân
Số ngày tồn kho bình quân =
14
TSLĐBQ
kỳ
Doanh thu thuần
Giá vốn hàng bán
HTK bình quân
Thời gian của kỳ phân tích
Số vòng quay của hàng tồn kho
Chỉ tiêu này cho biết một vòng quay của hàng tồn kho mất bao nhiêu
ngày, hay chính là số ngày tồn kho bình quân để từ hàng tồn kho chuyển
thành doanh thu. Chỉ tiêu này cang thấp, chứng tỏ hàng tồn kho vận động
càng nhanh.
 Hệ số đảm nhiệm hàng tồn kho
Hệ số đảm nhiệm HTK =
Chỉ tiêu này cho biết, doanh nghiệp muốn có được một đồng doanh
thu thì phải bỏ ra bao nhiêu đồng đầu tư vào hàng tồn kho. Chỉ tiêu này càng
thấ, chứng tỏ hiệu quả vốn đầu tư sử dụng cho hàng tồn kho càng cao.
(3) Tốc độ luân chuyển các khoản phải thu
 Vòng quay các khoản phải thu =
Trong đó:
Các khoản phải thu bình quân =
Chỉ tiêu này để xem xét tốc độ thanh toán các khoản nợ của khách
hàng cho doanh nghiệp. Nó càng cao chứng toe doanh nghiệp quản lý các
khoản phải thu tốt và ngược lại.
 Kỳ thu tiền bình quân =
Chỉ tiêu này cho biết số ngày bình quân mà doanh nghiệp thu được
tiền kể thừ khi có doanh thu. Chỉ tiêu này càng thấp, cho thấy, doanh nghiệp
quản lý khoản phải thu tốt, nhanh chóng thu được tiền. Nếu chỉ tiêu này quá

cao, sẽ cho thấy doanh nghiệp có nhiều khoản nợ khó đòi, và sẽ gặp rủi ro
cao trong thanh toán.
1.2.3.3. Các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi
 Hệ số sinh lợi của TSLĐ =
15
HTK bình quân
Tổng doanh thu thuần
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu bình quân
Các khoản phải thu
đầu kỳ
+ Các khoản phải thu
cuối kỳ
2
Tổng số ngày trong kỳ(360 ngày)
Vòng quay các khoản phải thu trong kỳ
Lợi nhuận sau thuế
Tài sản lưu động bình quân trong kỳ
Hệ số này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản lưu động. Dựa vào tỷ
số này ta biết được một đồng lợi nhuận sau thuế có sự đóng góp bao nhiêu
đồng từ việc đầu tư tài sản lưu động.
Khi phân tích người ta so sánh các tỷ số này giữa các năm với nhau để
thấy được xu hướng và tình hình sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Ngoài ra,
còn so sánh với chỉ số chung của ngành để thấy được vị thế của doanh
nghiệp trong ngành. Từ đó đưa ra các chính sách sử dụng và quản lý tài sản
lưu động phù hợp với doanh nghiệp, đảm bảo cho tài sản lưu động được sử
dụng hiệu quả nhất.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của
doanh nghiệp
1.2.4.1. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp

(1) Đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ảnh hưởng rất nhiều
đến hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong doanh nghiệp đó, điều này thể
hiện qua các mặt sau:
Thứ nhất là loại hình kinh doanh của các doanh nghiệp. Cơ cấu tài sản
của doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp thương mại, dịch vụ là khác
nhau. Các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ thường đầu tư vào tài sản lưu
động nhiều hơn so với doanh nghiệp sản xuất. Sự cân đối giữa tỷ trọng tài
sản lưu động và tài sản cố định sẽ thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng các loại tài sản trong
đó có tài sản lưu động.
Thứ hai là đặc điểm của sản phẩm. Doanh nghiệp có sản phẩm khác
nhau sẽ có các đối tượng khách hàng khác nhau, dẫn đến chính sách tiến
dụng thương mại khác nhau, từ đó tỷ trọng các khoản phải thu trong tài sản
ngắn hạn cũng khác nhau. Nếu doanh nghiệp có khách hàng là những công
ty bán buôn, công ty phân phối thì sẽ bị chiếm dụng nhiều, ngược lại nếu
khách hàng là người tiêu dung cuối cùng thì vốn bị chiếm dụng ít hơn.Nếu
sản phẩm là hàng hóa có giá trị lớn, thời gian sản xuất kéo dài thì giá trị
hàng tồn kho cũng sẽ lớn.
16
Thứ ba là trình độ công nghệ mà doanh nghiệp đang sử dụng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Sử dụng công nghệ hiện đại thì sẽ tiết kiệm
được chi phí, chu kì sản xuất kinh doanh được rút ngắn, sản phẩm có chất
lượng cao, dễ tiêu thụ, nâng cao vòng quay hàng tồn kho. Ngược lại, nếu
doanh nghiệp sử dụng công nghệ lạc hậu sẽ làm giảm hiệu quả sản xuất kinh
doanh, tăng chi phí sản xuất, kéo dài chu kì sản xuất…
(2) Trình độ nguồn nhân lực
Con người là nhân tố quan trọng nhất trong bất kỳ hoạt động nào.Đây
là yếu tố quyết định, có ảnh hưởng to lớn đến việc quản lý tài sản lưu động
của doanh nghiệp. Con người là nhân tố đưa ra những quyết định quản lý

mọi hoạt động của doanh nghiệp, trong đó có chính sách quản lý tài sản lưu
động. Quyết định đúng đắn sẽ giúp doanh nghiệp đạt lợi nhuận cao, và
ngược lại có thể đưa doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn, thậm chí là phá
sản.
(3) Kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Mỗi doanh nghiệp, hoạt động trong các ngành khác nhau, khả năng tài
chính và năng lực kinh doanh khác nhau sẽ có kế hoạch sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm khác nhau. Vào kì sản xuất của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ sử
dụng lượng nguyên vật liệu, hàng hóa dự trữ tăng lên. Hoặc khi doanh
nghiệp chuẩn bị cho công tác lưu thông thì trong bán hàng, lượng hàng gửi
bán tăng làm cho tài sản lưu động cũng tăng lên. Việc lập kế hoạch ngay từ
đầu giúp cho doanh nghiệp có lượng dự trữ hợp lý, hạn chế những ruie ro có
thể gặp phải trong quá trình sản xuất kinh doanh.
(4) Cơ sơ hạ tầng của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp có hệ thống cơ sở hạ tầng (trụ sở làm việc, chi
nhánh, cơ sở sản xuất, hệ thống bán hàng…) được bố trí hợp lý sẽ giúp cho
doanh nghiệp sử dụng tài sản lưu động một cách hiệu quả hơn. Kho chứa
hàng tốt sẽ tránh được những hao mòn không đáng có trong công tác bảo
quản hàng tồn kho. ..
(5) Công tác quản lý tài sản lưu động
 Quản lý các khoản phải thu
17
Trong nền kinh tế thị trường, để thắng lợi trong cạnh tranh, các doanh
nghiệp có thể áp dụng các chiến lược về sản phẩm, về quảng cáo, về giá cả,
vầ các dịch vụ hậu mãi…trong đó, chính sách tín dụng thương mại là một
công cụ hữu hiệu và không thể thiếu đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên,
tín dụng thương mại là con dao hai lưỡi, giúp doanh nghiệp tăng doanh số và
tạo đựng mối quan hệ nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro không thu hồi được
nợ. Do đó, các doanh nghiệp cần phải đưa ra những phân tích về khả năng
tín dụng của khách hàng, từ đó quyết định có nên cấp tín dụng thương mại

hay không. Đây là nội dung chính của quản lý các khoản phải thu.
 Phân tích năng lực tín dụng của khách hàng
Bước đầu tiên trong cấp tín dụng thương mại, đó là phân tích năng lực
tín dụng của khách hàng. Nó bao gồm: thứ nhất, phải xây dựng một hệ thống
tiêu chuẩn tín dụng hợp lý; thứ hai, xác minh phẩm chất tín dụng của khách
hàng tiềm năng. Nếu khả năng tín dụng của khách hàng phù hợp với những
tiêu chuẩn tín dụng tối thiểu thì tín dụng thương mại có thể được cấp. Nếu
tiêu chuẩn tín dụng quá cao, rủi ro thấp, kéo theo lợi nhuận thấp và ngược
lại. Khi phân tích khả năng tín dụng của khách hàng, các tiêu chuẩn thường
được sử dụng đó là:
- Phẩm chất tư cách tín dụng: tiêu chuẩn này nói lên tinh thần trách
nhiệm của khách hàng trong việc trả nợ, trên cơ sở việc thanh toán
các khoản nợ trước đây của khách hàng đối với doanh nghiệp và
đối với những doanh nghiệp khác.
- Năng lực trả nợ: Dựa vào các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
nhanh, bảng dự trữ ngân quỹ của doanh nghiệp…
- Vốn của khách hàng: đánh giá khả năng tài chính dài hạn của
khách hàng.
- Thế chấp: xem xét các tài sản riêng mà khách hàng sử dụng để
đảm bảo các khoản nợ.
- Điều kiện kinh tế: Đánh giá khả năng phát triển của khách hàng
trong tương lai.
Các tài liệu được sử dụng để phân tích khách hàng là bảng cân đối kế
toán, bảng kế hoạch ngân quỹ, phỏng vấn trực tiếp, kiểm kê trực tiếp hay tìm
hiểu thông qua bên thứ ba.
Sau khi phân tích năng lực tín dụng của khách hàng, doanh nghiệp
tiến hành việc phân tích đánh giá các khoản tín dụng thương mại được đề
nghị.
 Phân tích khoản tín dụng
Việc đánh giá dựa vào việc tính NPV: giá trị hiện tại ròng của luồng tiền

tương lai.
18
NPV = - [P.Q + V.(Q’-Q) + C.P’.Q’] +
R
QPr
+

1
''.).1(
Trong đó:
NPV: giá trị hiện tại ròng của luồng tiền sinh ra do chuyển từ chính
sách bán hàng trả ngay sang bán trả chậm
Q,P: sản lượng hàng bán được trong một tháng và giá bán đơn vị nếu
khách hàng trả tiền ngay
Q’, P’: sản lượng và giá bán đơn vị nếu bán trả chậm
C: Chi phí cho việc đòi nợ và bù đắp các khoản phải thu
V: Chi phí biến đổi cho một đơn vị sản phẩm
R: Doanh lợi yêu cầu thu được hàng tháng
r: Tỷ lệ phần trăm của hàng bán chịu không thu được tiền
Nếu NPV > 0, chứng tỏ việc bán hàng trả chậm mang lại hiệu quả cao hơn
việc thanh toán ngay, có lợi cho doanh nghiệp. Do đó khoản tín dụng được
chấp nhận.
 Theo dõi các khoản phải thu
Đây là một nội dung quan trọng trong quản lý các khoản phải thu.
Thực hiện tốt công việc này sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể kịp thời thay
đổi các chính sách tín dụng thương mại phù hợp với tình hình thực tế. Thông
thường, để theo dõi các khoản phải thu, ta dung các chỉ tiêu, phương pháp,
mô hình sau:
-Theo dõi kỳ thu tiền bình quân
- Sắp xếp “tuổi” của các khoản phải thu theo độ dài thời gian, qua đó

các nhà quản lý doanh nghiệp có thể theo dõi và có biện pháp thu hồi nợ khi
đến hạn trả.
-Xác định số dư khoản phải thu: bằng phương pháp này, doanh nghiệp
có thể thấy được nợ tồn đọng của khách hàng nợ doanh nghiệp. Cùng với
các biện pháp theo dõi và quản lý khác, doanh nghiệp có thể thấy được ảnh
hưởng của chính sách tín dụng thương mại và có những điều chỉnh kịp thời,
hợp lý, phù hợp với từng đối tượng khách hàng, từng khoản mục cụ thể
 Quản lý hàng tồn kho
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất
kinh doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hóa dự trữ là những bước đệm cho
quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Hàng tồn kho có ba loại chính:
nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất, sản phẩm dở dang và
thành phẩm. Các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không thể tiến
hành sản xuất đến đâu, mua hàng hóa đến đó mà cần phải dự trữ nguyên vật
liệu. Nếu doanh nghiệp dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn, còn
nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn. Do
19
vậy, việc dự trữ nguyên vật liệu có ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất
kinh doanh.
Hàng tồn kho trong qua trình sản xuất là các nguyên vật liệu nằm ở
các công đoạn của dây truyền sản xuất. Nếu dây truyền sản xuất càng dài,
càng nhiều công đoạn thì đòi hỏi hàng tồn kho trong các công đoạn sản xuất
cầng lớn. Đây là những bước đệm nhỏ để hoạt động sản xuất được liên tục.
Khi tiến hành sản xuất xong, do có độ trễ nhất định giữa sản xuất và
tiêu thụ, do những chính sách thị trường của doanh nghiệp trong bán hàng…
đã hình thành nên bộ phận thành phẩm tồn kho.
Hàng hóa dự trữ đối với doanh nghiệp gồm ba bộ phận thông thowng
như trên, nhưng thông thường, trong quá trình quản lý, ta tập trung vào bộ
phận thứ nhất, là nguyên vật liệu dự trữ cho sản xuất.
 Quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng hiệu

quả nhất – EOQ( Economic Odering Quantity)
Mô hình được dựa trên giả định là những lần cung cấp hàng hóa là bằng
nhau. Theo mô hình này, mức dự trữ tối ưu là:
Q* =
1
2
.2
C
CD
Trong đó:
Q*: mức dự trữ tối ưu
D : Toàn bộ lượng hàng hóa cần sử dụng
C
2
: Chi phí mỗi lần đặt hàng (chi phí quản lý giao dịch và vận
chuyển hàng hóa
C
1
:Chi phí lưu kho đơn vị hàng hóa (Chi phí bốc xếp, bảo quản,
bảo hiểm hàng hóa…)
Điểm đặt hàng mới
Về mặt lý thuyết, người ta giả định khi nào lượng hàng hóa kỳ trước hết
mới nhập kho hàng hóa mới, nhưng thực tế hầu như không bao giờ như vậy.
Sẽ có rủi ro nếu hàng không về kịp kho, doanh nghiệp sẽ dự trữ thêm để hạn
chế rủi ro tức là đặt hàng khi trong kho vẫn còn hàng. Nhưng nếu doanh
nghiệp đặt hàng quá sớm, sẽ làm tăng lượng nguyên liệu tồn kho, phát sinh
chi phí. Do đó, doanh nghiệp cần xác định điểm đặt hàng hợp lý:
= +
Lượng dự trữ an toàn
20

Thời điểm đặt
hàng mới
Số lượng nguyên liệu sử
dụng mỗi ngày
Độ dài thời gian
giao hàng
Nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là số cố định mà chúng biến
động không ngừng. Do đó, để đảm bảo cho sự ổn định của sản xuất, doanh
nghiệp cần duy trì một lượng hàng tồn kho dự trưa an toàn. Lượng dự trữ an
toàn tùy thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp. Lượng dự trữ an toàn
là lượng hàng hóa dự trữ thêm vào lượng dự trữ tại thời điểm đặt hàng.
Ngoài phương pháp quản lý dự trữ theo mô hình đặt hàng hiệu quả
nhất (EOQ) một số doanh nghiệp còn sử dụng phương pháp cung cấp đúng
lúc hay dự trữ bằng 0.
 Phương pháp cung cấp đúng lúc hay dự trữ bằng 0
Theo phương pháp này, các doanh nghiệp trong một số ngành nghề có
liên quan chặt chẽ với nhau, hình thành nên những mối quan hệ. Khi có một
đơn đặt hàng nào đó, họ sẽ tiến hành huy động những loại hàng hóa và sản
phẩm dở dang của các đơn vị khác mà họ không cần phải dự trữ. Phương
pháp này tiết kiệm được chi phí, tạo dựng mối liên hệ, nhưng lại khiến các
doanh nghiệp phụ thuộc lẫn nhau, và đôi khi mất đi tính chủ động trong hoạt
động sản xuất kinh doanh.
 Chính sách quản lý tiền và các chứng khoán thanh
khoản
Tiền mặt, bản thân nó là tài sản không sinh lãi, tuy vậy, việc giữ tiền
mặt trong kinh doanh rất quan trọng xuất phát từ những lý do sau: đảm bảo
giao dịch hàng ngày, bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các
dịch vụ cho doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp biến
động không lường trước của các luồng tiền vào ra, hưởng lợi thế trong
thương lượng mua hàng. Duy trì lượng tiền mặt hợp lý có thể giúp doanh

nghiệp có những lợi thế sau:
-Được hưởng lợi thế chiết khấu nếu có đủ tiền mặt khi mua hàng hóa
dịch vụ
-Duy trì tốt các chỉ số thanh toán ngắn hạn, giúp doanh nghiệp có thể
mua hàng với điều kiện thuận lợi trong kinh doanh do chủ động đc các hoạt
động chi trả.
21
-Giúp doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu trong trường hợp khẩn cấp
như đình công, hỏa hoạn, chiến dịch marketing của đối thủ cạnh tranh, vượt
qua khó khăn của yếu tố thời vụ và chu kì kinh doanh.
Nội dung chủ yếu của quản lý tiền mặt bao gồm: xác định mức tồn
quỹ tối ưu, dự đoán được nguồn tiền xuất, nhập quỹ; quản lý chặt chẽ các
nguồn tiền xuất nhập quỹ. Sự quản lý này liên quan chặt chẽ đến việc quản
lý các loại tài sản gắn liền với tiền mặt như các lại chứng khoán thanh khoản
cao, nhằm duy trì tiền mặt ở mức mong muốn. Ta có thể thấy được điều này
qua sơ đồ sau:
Nhìn sơ đồ trên, ta thấy được tổng quát về tiền mặt.
Trong kinh doanh, doanh nghiệp phải lưu giữ tiền mặt cần thiết cho việc
thanh toán hóa đơn. Do vậy, khi tiền mặt xuống thấp doanh nghiệp sẽ phải
bổ sung tiền mặt bằng cách bán các chứng khoán thanh khoản cao. Chi phí
cho việc lưu giữ tiền mặt ở đây chính là chi phí cơ hội, là lãi suất mà doanh
nghiệp bị mất đi khi doanh nghiệp dung số tiền ấy đầu tư và mục đích khác.
Chi phí đặt hàng chính là chi phí cho việc bán các chứng khoán. Khi đó, áp
dụng mô hình EOQ ta có lượng dj trữ tiền mặt tối ưu M* là:
M* =
i
CM
bn
..2
Trong đó:

M*: Tổng mức tiền mặt giải ngân hàng năm
22
Các chứng khoán thanh
khoản cao
Đầu tư tạm thời bằng cách
mua các chứng khoán có
tính thanh khoản cao
Bán các chứng khoán
thanh khoản cao để bổ
sung cho tiền mặt
Dòng thu
tiền mặt
Tiền mặt Dòng chi
tiền mặt
M
n:
Tiền mặt thanh toán hàng năm
C
b
: Chi phí một lần bán chứng khoán thanh khoản
i : Lãi suất
Từ công thức trên ta thấy: nếu lãi suất cao thì doanh nghiệp sẽ càng
giữ ít tiền mặt và ngược lại, nếu chi phí chô việc bán chứng khoán càng cao
thì họ sẽ có xu hướng giữ tiền mặt. Mô hình số dư tiền mặt không thực tiễn ở
chỗ giả định rằng doanh nghiệp chi trả tiền mặt một cách ổn định, điều này
không luôn đúng với thực tế, khi mà hiếm khi lượng tiền vào, ra của doanh
nghiệp lại dự kiến một cách chính xác trước.
Bằng việc nghiên cứu và phân tích thực tiễn, các nhà kinh tế học đã
đưa ra mô hình quản lý tiền mặt để mức dự trữ luôn dao động trong một
khoảng xác định. Theo mô hình này, doanh nghiệp sẽ xác định mức giới hạn

trên và giới hạn dưới của tiền mặt, đó là các khoản mà doanh nghiệp bắt đầu
tiến hành nghiệp vụ mua hoặc bán chứng khoán có tính thanh khoản cao để
đưa ra mức tiền mặt dự kiến.
Khoảng dao động tiền mặt dự kiến phụ thuộc vào ba yếu tố sau: mức
dao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày lớn hay nhỏ; chi phí cố định của
việc mua bán chứng khoán; lãi suất càng cao, các doanh nghiệp sẽ giữ lại ít
tiền, và do vậy khoảng dao động của tiền mặt sẽ giảm xuống
Khoảng dao động:
D=
i
VC
bb
4
.3
.3
Trong đó:
D: khoảng dao động tiền mặt (khoảng cách giữa giới hạn trên và giới
hạn dưới của lượng tiền mặt dự trữ).
b
C
: Chi phí của mỗi lần giao dịch mua bán chứng khoán thanh khoản.
b
V
: Phương sai của thu chi ngân quỹ
i : lãi suất
23
Số dư tiền mặt
Mô hình được biểu diễn theo đồ thị sau:
Giới hạn trên
Giới hạn dưới

0
Thời gian
Mức tiền mặt thiết kế được xác định như sau:
= +
3
Thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cho thấy các doanh
nghiệp lớn, có luồng tiền vào hàng ngày là rất lớn, nên chi phí cho việc bán
chứng khoán sẽ trở nên nhỏ so với cơ hội phí mất đi do lưu giữ lượng tiền
mặt nhàn rỗi, do vậy hoạt động mua bán chứng khoán nên được chú ý ở các
doanh nghiệp này.
1.2.4.2. Các nhân tố thuộc về ngoài doanh nghiệp
(1) Các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước
Trên cơ sở luật pháp và các chính sách kinh tế vĩ mô, Nhà nước tạo
môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh
doanh. Bất kì một sự thay đổi nào trong chính sách hiện hành đều ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn, khi nhà
nước thay đổi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, sẽ làm giảm lợi nhuận
24
Mức tiền mặt theo
thiết kế
Mức tiền mặt
theo thiết kế
Mức tiền mặt
giới hạn dưới
Khoảng dao động tiền mặt
sau thuế của doanh nghiệp, làm giảm nguồn trích lập các quỹ và nguồn vốn
kinh doanh….Ngân hàng nhà nước tăng lãi suất cơ bản, làm tăng mặt bằng
lãi suất chung, khiến doanh nghiệp có xu hướng giữ ít tiền mặt hơn…
Những thay đổi chính sách vĩ mô khác như chính sách tiền tệ, tỷ giá…
cũng sẽ tác động mạnh đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp. Chính vì thế, doanh nghiệp cần dự đoán trước được sự thay đổi của
các chính sách kinh tế và đánh giá lại ảnh hưởng của các yếu tố này đến hoạt
động của doanh nghiệp trong tương lai, tận dụng cơ hội từ các chính sách
khuyến khích.
(2) Sự biến động của nền kinh tế
Nền kinh tế vận hành luôn mang trong nó những biến động và tiềm ẩn
những rủi ro. Lạm phát xảy ra làm co giá cả hàng hóa, nguyên vật liệu tăng
nhanh và biế động không ngừng làm cho chi phí sản xuất tăng lên không
ngừng, trong khi tốc độ tiêu thụ hàng hóa lại giảm, khiến cho doanh nghiệp
gặp nhiều khó khăn. Suy thoái kinh tế, sẽ khiến cho thị trường tiêu thụ thu
hẹp do sức mua của người tiêu dùng giảm, doanh nghiệp sẽ phải chịu chung
khó khăn của nền kinh tế. Những rủi ro này sẽ tác động mạnh đến doanh
nghiệp, có thể dẫn đến hạu quả phá sản nếu doanh nghiệp không có dững dự
phòng và ứng phó kịp thời. Do đó mà doanh nghiệp phải có những dự báo
cần thiết về những thay đổi của nền kinh tế, giảm thiểu rủi ro trong hoạt
động sản xuất kinh doanh.
(3) Thị trường và cạnh tranh
Thị trường ngày càng mở rộng và phát triển, có nhiều cơ hội nhưng
cũng có muôn vàn thách thức. Yêu cầu của khách hàng ngày càng cao, cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt. Muốn tồn tại và phát triển,
doanh nghiệp phải luôn có những thay đổi phù hợp, nâng cao chất lượng, hạ
giá thành sản phẩm.Muốn hạ được giá thành, thì nâng cao hiệu quả sử dụng
tài sản nói chung, và tài sản lưu động nói riêng là điều kiện cần. Dự đoán
được trước nhu cầu thị trường, hiểu tâm lý khách hàng, xác định được khách
hàng mục tiêu là những bước cần thiết giúp doanh nghiệp chủ động trong
sản xuất chính là điều kiện đủ.
Quan tâm đến khả năng của đối thủ cạnh tranh và các sản phẩm thay
thế cho các sản phẩm của doanh nghiệp là một bước quan trọng giúp doanh
nghiệp không bị lạc lõng trong điều kiện thị trường luôn biến đổi, các doanh
nghiệp luôn tự làm mới mình. Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng.

(4) Tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ
Khoa học công nghệ là một trong những nhân tố quyết định đến năng suất
lao động và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Việc áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất sẽ làm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm,
25

×