Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Cảm nhận về bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.39 MB, 15 trang )

VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

CẢM NHẬN BÀI THƠ
TRÀNG GIANG CỦA HUY CẬN
Bài văn mẫu 1:
Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ
mới. Thơ ông rất giàu chất suy tưởng, triết lí, ln thể hiện sự giao cảm giữa
con người và vũ trụ. Tràng giang là một trong những bìa thơ tiêu biểu của tác
giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ.
Ngay ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được
nỗi buồn của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu
tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ.
Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã
Củi mội cành khô lạc mấy dịng
Đứng trước cảnh mênh mơng sơng nước, nỗi buồn của tác giả như được
nhân lên. Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngơn ngữ giàu hình ảnh để
khái quát về cảnh vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm
trạng của mình. Hình ảnh "sóng gợn" gợi cho ta liên tưởng tới những làn
sóng đang lan ra, loang ra đến vô tận cũng giống như nổi buồn của nhà thơ
âm thầm mà da diết khôn ngi. Con sóng ở giữa một dịng sơng dài và rộng
càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi
cảnh vật đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lịng
khơng biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. Tác giả đã dùng những hình ảnh hết sức
đời thường để đưa vào thơ ơng và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong
cách thơ của ông.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sơng dài, trời rộng bến cô liêu
Lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh "cồn, gió, làng, chợ,


bến" để giãi bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vậy trở
nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ,
im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày,
nhưng âm thanh đó khơng rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để
nghe ngóng cái âm thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và nhà
thơ đã chuyển nhãn quan của mình đến một điểm mới.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sơng dài, trời rộng bến cơ liêu
Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển
động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ.
Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người
càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vơ tận.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh
đênh. Bèo trôi không biết dạt về đâu, khơng có một cái cầu, khơng chuyến
đị để đưa khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thốt được nỗi
buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với
đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt
đẹp hơn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lịng q dợn dợn vời con nước
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà
Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng
nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ơng thấy hình ảnh đầu tiên là
những đám mây, với từ "đùn" cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau
thành núi sau đó được ánh hồng hơn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà
nhà thơ gọi nó là "núi bạc". Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nổi
buồn của ông, giống như nổi buồn của ơng tích tụ như núi.cùng với đám
mây cịn có hình ảnh cánh chim.
Lịng q dợn dợn vời con nước
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà
Tác giả đã dùng tự láy "dợn dợn" để diễn tã những con sóng vời theo con
nước lan tỏa ra tích tắt cho thấy nổi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi.
Bài Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của
nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh
tình, đó là tình cảm chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với
cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở
thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam.
Bài văn mẫu 2:
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã
khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930 - 1945. Ông
vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước
Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh
đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như" “Lửa thiêng”,
“Vũ trụ ca”, Kinh cầu tự”. Nhưng sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của

ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây
dựng đất nước của nhân dân lao động" “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở
hoa”, “Bài thơ cuộc đời”… Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét
thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ “Tràng
giang ”. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận
trước Cách mạng tháng tám.
Bài thơ được trích từ tập “Lửa thiêng”, được sáng tác khi Huy Cận đứng
ở bờ Nam bến Chèm sơng Hồng, nhìn cảnh mênh mơng sóng nước, lịng vời
vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trơi giữa dịng đời vơ định.
Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa
đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi Tràng giang buồn điệp điệp
….
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho
bài thơ. “Tràng giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai
âm “anh” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông,
không chỉ dài vô cùng mà cịn rộng mênh mơng, bát ngát. Hai chữ “Tràng
giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dịng Trường giang
trong thơ Đường thi, một dịng sơng của mn thuở vĩnh hằng, dịng sơng
của tâm tưởng.


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Tứ thơ “Tràng giang” mang nét cổ điển như thơ xưa" Nhà thơ thường ẩn
đằng sau cái mênh mơng sóng nước, khơng như các nhà thơ mới thường thể
hiện cái tơi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để
mong hồ nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu

tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ
đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được
cảm xúc chủ đạo của cả bài" “Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài”. Trước
cảnh “trời rộng”, “sông dài” sao mà bát ngát, mênh mơng của thiên nhiên,
lịng con người dấy lên tình cảm “bâng khuâng” và nhớ. Từ láy “bâng
khuâng” được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ
tình, buồn bã, u sầu, cơ đơn, lạc lõng. Và con “sông dài”, nghe miên man tít
tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong
lịng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lịng đầy
ưu tư, sầu não như thế.
Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên
này. Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang
đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và khơng chỉ mang nét đẹp ấy, nó cịn
đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối
lên nhau, dịng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên
dịng sơng gợi sóng “điệp điệp”, nước “song song” ấy là một “con thuyền
xi mái”, lững lờ trơi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao
chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mơng của thiên nhiên, một dịng “Tràng giang ”
dài và rộng bao la khơng biết đến nhường nào.
Dịng sơng thì bát ngát vơ cùng, vơ tận, nỗi buồn của con người cũng đầy
ăm ắp trong lòng.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ

vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách
“thuyền về nước lại”, nghe sao đầy xót xa.


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”. Từ chỉ
số nhiều “trăm” hô ứng cùng từ chỉ số “mấy” đã thổi vào câu thơ nỗi buồn
vô hạn.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc
sắc" “Củi một càng khơ lạc mấy dịng”. Huy Cận đã khéo dùng phép đảo
ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ
trụ bao la. “Một” gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, “cành khô” gợi sự khô héo, cạn
kiệt nhựa sống, “lạc” mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên “mấy
dịng” nước thiên nhiên rộng lớn mênh mơng. Cành củi khơ đó trơi dạc đi
nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lịng
người đọc cảm thấy trống vắng, đơn cơi.
Nét đẹp cổ điển “tả cảnh ngụ tình” thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã
gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ cịn vỗ mãi ở các khổ thơ
cịn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng
thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ
đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói “Củi một cành khơ” thật
đặc biệt, khơng chỉ thâu tóm cảm xúc của tồn khổ, mà cịn hé mở tâm trạng
của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn cơi, lạc lõng.
Nỗi lịng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của khơng
gian lạnh lẽo.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một
dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, bé nhỏ

“đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”,
một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp
đến độ thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà
mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xơi, khơng rõ rệt, có thể
là câu hỏi “đâu” như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một
chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là “đâu
có”, một sự phủ định hồn tồn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống
động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn
theo nắng, theo dịng trơi của sơng.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sơng dài, trời rộng, bến cơ liêu.
“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về khơng gian, và
gợi cả sự chia lìa" bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. “sâu chót
vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

hiện đại. Đơi mắt nhà thơ khơng chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà
như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy
quả là mênh mông với “sơng dài, trời rộng”, cịn những gì thuộc về con
người thì lại bé nhỏ, cơ đơn biết bao" “bến cơ liêu”.
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong
Đường thi như" sông, trời, nắng, cuộc sơng cón người thì buồn tẻ, chán
chường với “vãn chợ chiều”, mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dịng sơng, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút
gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cơ
đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh
càng quạnh quẽ, đìu hiu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang.
Khơngcần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh cánh bèo trơi bồng bềnh trên sơng là hình ảnh thường dùng
trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trơi của kiếp người vơ
định giữa dịng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận khơng chỉ có một hay hai
cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”. Bèo trơi hàng hàng càng khiến lịng người
rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lịng càng đau đớn, cô đơn. Bên
cạnh hàng nối hàng cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi vàng” như mở ra một
không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường
khơng có con người, khơng có chút sinh hoạt của con người, khơng có sự
giao hồ, nối kết:
Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. “…không… khơng” để phủ định hồn
tồn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây khơng có chút
gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cơ đơn đang bao trùm, vây kín,
chỉ có một thiên nhiên mênh mơng, mênh mơng. Cầu hay chuyến đị ngang,
phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn
chìm, trơi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao"
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Bút pháp chấm phá với “mây cao đùn núi bạc” thành “lớp lớp” đã khiến
người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị
hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ “đùn”, khiến mây như chuyển
động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây
cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ
điển quen thuộc.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu
thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều" Chim
nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt Tràng giang, hay
chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu
thơ tả khơng gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và
“bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hồng hơn trong thơ
ca cổ điển.
Bài văn mẫu 3:
Có những tác phẩm văn học vừa đọc xong, gấp lại là ta sẽ quên ngay,
nhưng cũng có khơng ít những bài văn bài thơ, thật diệu kì, đã đi sâu vào
lịng ta bằng một sức hút vô cùng mãnh liệt. Tràng giang của Huy Cận là một
tác phẩm như vậy! Đọc Tràng giang, ta cảm thấy từng lời thơ, từng âm điệu...
như những dòng chảy của một con sông, cứ len lỏi nhẹ nhàng nhưng chảy
sâu vào tận đáy tâm hồn, khắc chạm vào đó những ấn tượng thâm trầm mà
sâu sắc!...
“Thơ Huy Cận thường buồn”, Xuân Diệu, người bạn tri kỉ và cũng chính
là người bạn đời thân thiết của Huy Cận cũng đã phải thốt lên như vậy! Là
hai người bạn thân thiết của nhau, là hai người thi sĩ đa tình cùng yêu mếm
và tìm đến với thế giới thiên nhiên vơ tận, nhưng ở Xuân Diệu, thiên nhiên
say đắm ngọt ngào hương vị ngơn ngữ tình u, cịn nơi Huy Cận, thì cây cỏ
núi sơng lại bình thản lặng lẽ như thấm thía nỗi buồn của “cái tơi” lẻ loi cơ
độc. Tràng giang là một trong những kiệt tác kết tụ từ nỗi sầu “mang mang
thiên cổ” đó! Đọc bài thơ, có lẽ ta sẽ bắt gặp được một nỗi buồn, nỗi buồn
của chàng thanh niên mà “trọn kiết mắt chàng thường đẫm lệ”, nỗi buồn có
lẽ rất… Huy Cận mà đã hơn một lần Xuân Diệu nói về nó như sau:

“Trong thơ Việt Nam, nghe bay dậy một tiếng địch buồn, khơng phai sáo
thiên thai, khơng phải điệu ái tình, khơng phải lời li tao kể chuyện một cái
tôi, mà ấy là một bản ngậm ngùi dài" có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc
bơng lau, có phải niềm than vãn của bờ sơng bãi cát, có phai mặt trăng một
mình đang cảm thơng cùng các vì sao? Tiếng rền rĩ dịu em sẽ vấn lấy ta như


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

một dải lụa ơm ấp một vế đau, tiếng len thấm thía vào hồn ta như khí hậu
của núi đèo, tiếng làm thành sương đọng lệ trên mắt ta…”.
Một lời nhận xét thật hay! Mà có lẽ chỉ cần bấy nhiêu đó thơi, ta đã hiểu
được khá nhiều về thơ Huy Cận!
Và đặc biệt là đối với Tràng giang …
Bài thơ chính là một bức tranh thiên nhiên mà linh hồn của nó là một nỗi
buồn xa xăm, hoang vắng, có một cái gì đó như tàn lụi cơ đơn"
Sóng gợi Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xi mái nước song song
Nhìn những cơn sóng nhỏ đang lặng lẽ gối đấu nhau mà đi xa đến tận
cuối chân trời, tâm hồn nhà thơ bỗng dâng lên một nỗi buồn “điệp điệp”. Từ
“điệp điệp” đã tạo nên hình ảnh một nỗi buồn ngàn trùng, một nỗi buồn triền
miên, lớp lớp… Thường người ta nói trùng trùng điệp điệp để chỉ núi non,
nhưng ở đây tác giả lại đem nó để miêu tả một nỗi buồn, đúng là một sáng
tạo thật độc đáo tong cách dùng từ để hình ảnh hóa một nỗi buồn thật là lãng
mạn! Âm điệu thơ như ngân xa da diết, như thân thuộc quen quen! Có lẽ
Huy Cận đã liên tưởng đến một câu ca dao:
Sóng bao nhiêu gợn, dạ em sầu bấy nhiêu
Ở đây, có bao nhiêu gợn sóng trên dịng Tràng giang từ là có bấy nhiêu
nỗi buồn thi sĩ. Câu thơ khơng chỉ nghiêng về số liệu mà còn nặng về sắc
thái, nỗi buồn chỉ nhẹ nhàng lặng lẽ thôi nhưng da diết và dai dẳng, nó như

vơ tình ngàn xa và tạo thành một tiếng buồn vơ tình, vang vọng mãi giữa đất
trời vũ trụ…
Và… nổi bật giữa những lớp sóng bạt ngàn đó là hình anh của một con
thuyền, một con thuyền nhỏ nổi bật giữa những lớp sóng nhưng cũng đang
khuất chìm trong chúng! Hình ảnh độc đáo vơ cùng! Chiếc thuyền con như
đang lênh đênh, bập bềnh không định hướng, cứ xi mãi, xi mãi … theo
dịng nước vơ tận nghìn trùng…
Cụm từ “nước song song” cũng là một cấu tứ lạ mà ta chưa từng đọc bao
giờ, nó đối với “buồn điệp điệp” ở câu trên như để gợi ra một nỗi buồn mênh
mông trùng điệp!
Sang câu thơ thứ ba, nước và thuyền đã chuyển động ngược chiều nhau,
con thuyền đã khơng cịn trơi xi theo dịng nước nữa:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng…


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Thế cân bằng song song của câu thơ đã bị phá vỡ. Thuyền về, mà về
đâu? … Không rõ! Chỉ để lại một mặt sơng vắng bóng thuyền, nỗi cô đơn
như trải rộng ra dường như vô tận. Hình ảnh con thuyền cứ khuất dần, khuất
dần rồi xa mờ hẳn, nước đành chia “sầu trăm ngả”. Huy Cận đã khéo léo
trong việc miêu tả sự vận động của sự vật để nói đến bước đi của khơng gian.
Thời gian vận chuyển theo tầm nhìn con thuyền và khơng gian cũng mở rộng
cùng với nó. Nếu như lúc trước, khơng gian chỉ xác định theo dịng nước
đang chuyển động song song cùng với con thuyền thì hình bóng con thuyền
đã trở nên mất dạng, không gian chợt mở rộng ra đến “trăm ngả”, vơ tận
mênh mơng khơng có lấy một điểm tựa nào! Chính vì vậy, câu thơ thứ ba đã
trở thành một đòn bẩy để nâng câu thơ cuối tạo thành một chi tiết độc đáo vô
cùng:

Củi một cành khơ lạc mấy dịng
Độc đáo về hình ảnh thơ và cả ý thơ! “Củi một cành khơ” có lẽ là một
hình ảnh mà ta chưa từng bắt gặp bao giờ, chính nó đã đưa đoạn thơ thốt
khỏi bầu khơng khí cổ kính để trở về với thời hiện đại" một cành củi khô
đang nổi trội dập dềnh giữa muôn vàn cơn sóng, lúc bị đẩy bên này, lúc lại
dạt sang bên kia… Đó có phải chăng là hóa thân của một kiếp người lữ thứ,
luôn lạc lõng bơ vơ, bị cuốn trơi theo chiều xốy cuộc đời?
Tràng giang đó, vẫn bình thản suy tư qua lớp sóng “buồn điệp điệp”, qua
dòng khơi “nước song song” và qua vẻ hừng hờ mặc cho “thuyền về nước
lại” mặc cho nhánh củi lạc lồi trơi!… Tràng giang!… Sóng gợn Tràng
giang!…
Sang khổ thơ sau, tác giả đã đi sâu vào việc mô tả chi tiết nỗi buồn. Cái
buồn bang bạc cả không gian giờ đã khơng cịn đi lang thang vơ địch trên
sơng mà đã tấp vào một cồn đất nhỏ:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sơng dài, trời rộng, bến cơ liêu.
Cảnh trong bài thơ chứa đầy tâm trạng. Có lẽ Huy Cận đã tập trung tất cả
các hình ảnh và nhạc điệu để làm nổi bật lên cái buồn của con người trước
cảnh trời rộng sông dài. Cảm giác buồn gởi trong vần điệu, trong các từ gợi
hình mong manh và cơ quạnh! “Lơ thơ” gợi hình ảnh, “đìu hiu” gợi cảm giác,
cả hai từ láy như đã được nhà thơ phát huy hết hiệu quả để mô tả nỗi buồn,
một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, buồn đến lạnh lẽo cô đơn, đến rợp
ngợp tâm hồn…


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, có thể hiểu là “đâu đây có

tiếng làng xa vãn chợ”, nhưng đó cũng có thể là câu hỏi mà tác giả đặt ra cho
chính bản thân mình" “đâu rồi”, “có đâu” tiếng “làng xa vãn chợ?”…
Ở đây, Huy Cận đã vận dụng khá tự nhiên một thủ pháp quan trọng trong
thủ pháp cổ điển" mượn cái “động” để nói đến cái “tĩnh”, cố tìm kiếm và
lắng nghe một âm thanh động để lặng đi trong bầu khơng khí tĩnh lặng đến
rợn người!
Nỗi buồn ấy như càng trải rộng hơn trước cái nền không gian mà tác giả
dựng nên bằng những từ ngữ vô cùng độc đáo:
Năng xuống, trời lên, sâu chót vót
Sơng dài, trời rộng, bến cơ liêu
Cùng một lúc, Huy Cận đã sử dụng thủ pháp của một nhà nhiếp ảnh và
nghệ thuật của một nhà hội họa để dựng nên một bức tranh độc đáo. Thông
thường từ “chót vót” chỉ được dùng để diễn tả chiều cao, vào thơ sâu thăm
thẳm" không gian như vụt lớn hơn ra. Trên bức tranh sông dài hiện thêm một
nét trời cao “sâu chót vót”, vài cồn đất nhỏ, “bến cơ liêu”. Thiên nhiên
phóng khống hơn và tưởng chừng sẽ sống động hơn, nhưng khơng! Khi
lịng người cịn “đìu hiu”, “cơ liêu” thì “cảnh có vui đâu bao giờ”… Vài dải
đất giữa sơng dài, vài ngọn gió “đìu hiu”, chưa đủ để làm tươi cảnh vật và
âm thanh của “tiếng làng xa vãn chợ chiều” thì mơ hồ và mong manh lắm!
Quanh tác giả giờ đây chỉ cịn có thiên nhiên, một thiên nhiên với cái buồn
ảo não và da diết đến bang bạc cả không gian và thời gian" những lớp tiếng
sóng gợn Tràng giang, tiếng đìu hiu heo hắt của bờ lau khóm trúc, nỗi sầu
vạn cổ tự ngàn xưa chợt theo gió thổi về! Giờ đây, giữa thiên nhiên vũ trụ
rộng mênh mông bao la ấy, chỉ cịn lại có một mình tác giả, một mình đứng
lặng chôn chân trong quạnh quẽ, cô liêu, cũng như Trần Tử Ngang, ngàn
năm trước cũng đã có cuộc viễn du tương tự như thế:
Ao người trước đã qua!
Ai người sau chưa tới?
Giữa trời đất vơ cùng
Mình ta ln giọt lệ!

Người cơ đơn lại gặp cảnh hoang vắng tịch liêu thì nỗi cô đơn ngày càng
thêm đậm. Khổ thơ thứ ba như mở ra cái khunh cảnh dường như khơng có
chút dấu vết nào của sự sống, một khung cnarh như đã bị chìm đắm trong thế
giới của sự ngột ngạt đến vô cùng.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông khơng một chuyến đị ngang


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Khơng cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Nỗi buồn được mở rộng ra hơn, dù lời thơ có thêm được vài gam màu
sắc nhạt nhịa! Cảnh có mở ra thêm bờ bờ bãi bãi, thêm ít màu sắc vàng tơ
điêm giữa bức tranh và thay thế "củi một cành khô" đơn độc lênh đênh đã là
những đám bèo "hàng nối hàng" theo nhau đi mãi. Nhưng "hàng nối hàng"
kia chợt xuất hiện trong dịng sơng của nhà thơ như câu trả lời, đành để mặc
cho tâm hồn mình trở thành một chiếc đảo cô đơn giữa mây trời sông nước"
"Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề".
Một loạt các tình từ mênh mơng lặng lẽ đã gợi lên khơng khí vắng vẻ u
buồn, lại cịn thêm những chi tiết phủ định" "Khơng một chuyến đị ngang”,
khơng một chiếc cầu nối càng làng tăng nỗi cơ liêu quạnh quẽ. Đến đây tình
trạng cơ đơn có lẽ đã lên tới đỉnh điểm, ước mong tìm thấy một "chút niềm
thân mật" ở một “chuyến đò ngang”, một sự liên lạc nào đó với con người
qua chiếc cầu nhỏ bé, nhưng tất cả đều khơng có được:
Thuyền khơng giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm!
Đôi bờ sông như hai thế giới tách biệt nhau, bờ này tự thu mình khơng
liên lạc với bờ kia! Dịng nước vẫn cứ vơ tình hững hờ chảy. Tràng giang
mỗi lúc một bao la, mỗi lúc mỗi ai hài dưới tâm tư trĩu nặng của người thi sĩ

trẻ, đã sớm vương nỗi sầu thiên cổ mênh mang vaf những cánh bèo đang tản
giạt trên lớp sóng nước kia có phải chăng chính là hình ảnh tượng trưng cho
thân phận nhà thơ, của lớp người trẻ ở những năm ba mươi, cũng hoang
mang vô địch, cũng mỏng manh nhỏ bé, cũng long đong nổi trơi theo dịng
chảy bất tận của cuộc đời? Giống như tâm trạng mà Xuân Diệu một lần đã
viết" "Chúng tôi cũng bơ vơ, mỗi hồn người là một cõi bơ vơ trong đất trời
là một khung bơ vơ". Như vây, cái buồn của Huy Cận, của một chàng thi sĩ
đã "hơn một lần gửi áo cho trăng" và lịng vẫn hay "sầu mưa", "tủi nắng” ấy
khơng phải là cái buồn vơ cớ, mà nó cũng chính là cái buồn của thời đại, mà
nếu nói cho chính xác hơn thì đó là nỗi buồn của thanh niên tiểu tư sản trí
thức lúc bấy giờ, những con người bị "giấc mơ con đè nát cuộc đời con" với
những mảnh linh hồn nhưng lại bị "thiên hạ bỏ đìu hiu" với những đôi chân
"muôn dấu rỗ, thủng gai đời"! Và có lẽ chính vì vậy hơn một lần họ đã từng
than thở:
Nếu như chưa biết bao nhiêu lần hốt hoảng
Trong sầu đen đã gãy cánh như dơi
Nếu chưa biết bao nhiêu dịng lệ đắng
Chảy như sơng khơng rửa sạch sầu đời!


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Mượn dịng sơng để soi linh hồn bé nhỏ cô đơn, nỗi buồn kia như lại
càng thêm oằn sâu và trĩu nặng! Nhà thơ đã đem lại cái tâm trạng đầy cô đơn
buồn bã ấy mà phủ lên cảnh vật thiên nhiên.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Trên giữa bầu trời xanh mênh mông, mây đùn lên trông giống như những
ngọn núi bạc trắng xóa, chợt xuất hiện một cánh chim bé nhỏ mà "Bóng
chiều sa nặng đến nỗi nó phải nghiêng cánh" (Xuân Diệu).

Dùng một vật hữu hình để diễn tả một cái vơ hình. Thật khó để hình
dung được ranh giới giữa cái nhỏ bé hữu hạn và cái lớn lao vô hạn mà Huy
Cận đã đưa ra! Cảnh vật hiện lên trong thơ ông dù cho rất buồn nhưng vẫn
chưa đựng được một cái gì đó hùng tráng và mạnh mẽ. Điều độc đáo ở đây
chính là cách nhìn của nhà thơ! "Trong cánh chim nghiêng, tác giả đã thấy
được bóng chiều sa!". Trong lúc Nguyễn Du thấy "bóng chiều" qua những
nhánh "tơ liễu thướt tha" Hàn Mặc Tử thấy "bóng xn sang" trên những
giàn thiên lí, thì ở đây Huy Cận cũng tỏ ra tinh tế không kém khi nhận thấy
"bóng chiều" về trên một cánh chim nghiêng! Một cánh chim lẻ loi, chấp
chới trong ánh chiều đang xuống, khiến cho trời đất như rộng trải ra thêm!
Không goian vừa mới trải mênh mông trong dáng dấp ngàn mây "lớp lớp"
chất chồng, chợt ầm xuống hồng hơn rất nhanh, đó cũng là khi tâm hồn
người lữ khách chợt bâng khuâng nhớ đến quê nhà.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà
Âm hưởng của thơ Đường triền miên trong câu cuối, mượn niềm luyến
nhớ q hương của Thơi Hiệu trong bài Hồng Hạc Lâu.
Nhật một hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Nhưng Huy Cận đã bộc lộ tình yêu đậm đà tha thiết hơn! Tình yêu khắc
khoải nên thủy triều rạo rực xôn xao. Điệp từ “dợn dợn” cũng rập rờn như
sóng Tràng giang “điệp điệp”, cái rập rờn trùng điệp chan chứa biết bao tình.
Ngày xưa, nhà thơ Đường phải có “khói sóng trên sơng”, Hồ Dzếnh phải có
“khói buồn bay lên mây” mới có thể gợi nhớ quê hương, mới có thể “nhớ
nhà trong điếu thuốc”, nhưng cịn ở đây thì lại khác. Nhân vật trữ tình trong
thơ Huy Cận đứng trước cảnh khơng sương, khơng khói hồn hôn mà cũng
rung rung nỗi nhớ về một miền quê xa khuất phía chân trời. Huy Cận chẳng
cần ngoại cảnh! Lúc này cái buồn đã thành hình, khơng chỉ cịn là cái cảm
giác sầu mênh mông vời vợi do xúc cảm sinh tình khi ngắm nước Tràng
giang. Hai câu kết được gói gọn trong những dịng cảm xúc thiết tha và đẹp



VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

đẽ! Và nó làm ta gợi nhớ đến những câu thơ ngày trước:
Đạm đạm trường giang thủy
Du du viễn khách tình
Bao phủ tồn bài thơ là một nỗi buồn rộng khắp và thấm thía, một nỗi
buồn mà Hồi Thanh đã từng nhận xét" “Người nói cùng ta nỗi buồn nơi
quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ
thứ dừng ngựa trên non, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn… Người đã gợi dậy
cái hồn buồn của Đông Á, người đã khơi gợi cái mạch sầu mấy nghìn năm
vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này!”.
Buồn nhưng không bi quan, không chán nản! Bài thơ hiện diện với tư
cách là một bài thơ buồn nhưng vẫn đậm đà và lắng sâu một tình yêu q
hương tha thiết nồng nàn! Có phải chăng vì vậy mà Xuân Diệu đã từng ca
ngợi" “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sơng đất nước, do đó dọn
đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.
Bài văn mẫu 4:
Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tài năng Huy Cận
và thể hiện rõ chất tâm hồn ông. Huy Cận cũng đã nhiều lần kể lại q trình
viết nó. Cảm hứng thơ được gợi từ phong cảnh sông nước vùng Chèm Vẽ
ngoại thành Hà Nội. Bây giờ nơi này đã là nội thành đông đúc với nhiều nhà
cao tầng, biệt thự nhưng vào thời Huy Cận viết Tràng giang cho đến mấy
chục năm sau, nó đìu hiu sông nước, vắng lặng, đẹp và buồn đúng như trong
bài thơ đã tả.
Huy Cận kể lại, ông đã thử vào bài bằng nhiều thể thơ, nhưng cuối cùng
chọn thơ bảy chữ, đậm chất Đường thi. Ơng cịn cho biết Lớp lớp mây cao
đùn núi bạc là do ông học ở bản dịch thơ Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải
xa". Ý kết là ông tựa vào thơ Thôi Hiệu, qua bản dịch của Tản Đà “Trên

sơng khói sóng cho buồn lòng ai” để tả nỗi buồn của lòng mình: Khơng khói
hồng hơn cũng nhớ nhà. Chính khơng gian Đường thi trong hơi thơ bảy chữ
tạo nên sự cộng hưởng cảm xúc đồng chiều ấy. Nếu viết ở thể thơ khác, chưa
chắc đã có sự cộng hưởng ấy. Huy Cận buồn hơn Thơi Hiệu. Huy Cận thừa
biết mình đứng nhờ trên vai người ta, có cao nhưng khơng chắc mình có
chiều cao hơn người ta. Đọc Tràng giang có thể thấy buồn Hoàng Hạc lâu
nhưng là ở nhiều chỗ khác chứ không phải ở câu kết so đo ấy.
Bài thơ này có vẻ đẹp cổ điển, trang trọng mở vào cao rộng trời đất mà
nỗi buồn lại thấm thía sâu thẳm xuống một cõi lòng. Nỗi buồn bàng bạc mơ
hồ nhưng đụng vào đầu cũng thấy. Mơ hồ vì buồn khơng rõ lí do cụ thể.
Bàng bạc vì khơng rõ sắc thái, không rát bỏng nhưng ngân nga như một nỗi


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

bâng khng, một tâm trạng nhớ khơng đối tượng: trời rộng nhớ sông dài.
Câu đề từ quả đã ôm đủ chủ đề bài thơ. Nỗi bâng khuâng buồn nhớ đựng đầy
không gian. Cảnh nào cũng gợi buồn, cảnh bị nhiễm vào từ trường tình cảm.
Huy Cận nói: Đây là bài thơ của tâm hồn. Tâm hồn ông khi ấy thường trực
một nỗi buồn thế hệ, cái thế hệ vừa biết suy nghĩ thì chạm ngay vào nỗi buồn
mất nước, vào thân phận nhược tiểu, một linh hồn nho nhỏ/ mang mang
thiêng cổ sầu. Chất tâm hồn bất thường bắt rất nhạy cảm xúc không gian
rộng xa, vắng lặng hắt hiu. Riêng với Huy Cận, người đã từng “nghiêng tai
kì diệu” nửa nghe vũ trụ nửa nghe lịng mình. Nghe trời nặng nặng, nghe ta
buồn buồn thì khơng gian trời nước quãng sông Hồng nơi Chèm Vẽ cộng
hưởng với lịng ơng mà thành thơ là điều khơng khó hiểu.
Chữ tràng trong Tràng giang đề bài và trong câu đầu tiên vốn ít dùng
trong ngơn ngữ giao tiếp hơn trường nhưng Huy Cận lại chọn dùng… Có
người giảng là để khỏi nhầm với sông Trường Giang bên Trung Quốc. Chả
hiểu có đúng thế khơng. Nhưng chỉ căn cứ vào âm thanh (chứ khơng phải chỉ

nghĩa chữ) thì giang hai âm vang đồng dạng đứng liền nhau gợi được khoảng
rộng, dàn theo chiều ngang, bát ngát bao la hơn là trường. Trường chỉ cho
thấy chiều dài, đa nghĩa chữ và hình âm trường thuôn lại trong khi tràng mở
ra. Mặt sông dài rộng, nên đầu sóng của sơng, vốn thấp như càng thấp thêm,
chỉ như gợn nhẹ mặt sông phẳng. Đã rộng lại tĩnh nên gợi buồn, buồn điệp
điệp. Chứ sóng mà dào dạt hay réo sôi chắc dẫn tới cảm giác khác. Điệp điệp
là trạng thái của gợn sóng trên tràng giang và cũng là của gợn buồn trong
lòng người. Câu vào này buồn thật. Nhưng câu thứ hai: “Con thuyền xi
mái nước song song" có người cũng cho là câu thơ buồn, buồn lắm, lấy lí
rằng: song song là chẳng bao giờ gặp nhau, là khơng gắn bó gì với nhau.
Đấy là vận dụng định lý đường song song trong hình học sơ cấp vào hình
tượng văn chương. E khó thuyết phục. Thuyền nước trong câu thơ này là
đang gắn bó, thậm chí hài hồ xi chèo mát mái. Câu thơ này không buồn.
Hơn nữa, vui. Đang vui. (Chữ nước song song chỉ là một dụng ý để đối với
buồn điệp điệp). Có đang vui mới dẫn đến cái buồn ở câu sau. Mới tạo nên
mối tương quan: vui chỉ khoảnh khắc mà buồn thì tất yếu, ấy là lúc thuyền
về tới bến, nước vẫn tiếp tục đi, đi một mình, phiêu bạt hai ngả rẽ vơ thường
nên mới kinh hãi với cái sầu trăm ngả. Hình ảnh sơng nước đến đây đã nhập
vào thân phận con người. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả. Một chữ lại
(trạng từ), lại sầu… cho thấy cách nhìn đời hồi ấy của Huy Cận khá giống
Xuân Diệu (hoa nở để mà tàn – Trăng trong để mà khuyết – Bèo hợp để chia
tan – Người gần để li biệt). Thuyền và nước song song xuôi mái chỉ khoảnh
khắc rồi lẻ loi với bao nhiêu ngã ba sông nước, sầu trăm ngả. Từ hình ảnh
trăm ngả dẫn đến câu cuối đoạn như mội tổng kết:
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.


VnDoc - Tải tài liệu, văn bản pháp luật, biểu mẫu miễn phí

Trên sơng Hồng, nhất là mùa lũ có thể thấy cả cây trôi, thân gỗ trôi, vật

vã nổi chìm trong sóng đục phù sa. Cảnh gợi tang thương. Nhưng không
phải mạd cảm xúc Huy Cận ở bài này. Ơng nói ơng phải lựa chọn hình ảnh
sao cho ra cai thân phận nổi nênh của kiếp người. Chọn củi hơn là gỗ, chọn
một cành không hơn là những cây tươi. Củi một cành mà lạc mấy dịng thì
đắt q, chưa kể nó cịn ứng với sầu trăm ngả ở ưên.
Đoạn một là nhìn vào mặt sơng mà tả. Chi tiết tung hứng, ngôn ngữ đăng
đổi và ngay trung tâm của chủ đề. Đoạn hai nhìn ra xa xung quanh: cồn nhỏ,
làng xa, trời sâu, bến rộng… không gian mở ra rộng – cao để hồn ngấm vào
thưa vắng. Thưa vắng và yên tịnh. Chỉ một âm thanh xa, vọng tự đâu khơng
rõ, mơ hồ như nghe trong hồi niệm một phiên chợ quê lúc vãn người. Âm
thanh mơ hồ là cách đặc tả cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này mở khơng gian.
Chiều thẳng đứng thì như đang dãn dần ra theo nắng, theo trời: “Nắng xuống,
trời lên sâu chót vót”. Sâu chứ khơng cao là một sáng tạo, gây ấn tượng.
Chiều năm ngang thì “ Sơng dài, trời rộng, bến cô liêu"… Không màu sắc,
không âm thanh, không hoạt động. Tất cả bất động, lặng đi, ngấm vào nỗi cô
liêu.
Cõi rộng không giới hạn, tả dễ miên man. Huy Cận tỉnh táo chuyển lại
ánh về mặt sông, về chỗ bắt đầu bài thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”.
Đẩy mức vắng lặng tới chỗ bặt dấu người. Hai đoạn trên cịn có thuyền, có
chợ. Giờ đây, trên sơng chỉ cịn có bèo, duy nhất bèo, hàng nối hàng. Khơng
đị ngang, khơng cầu bắc, khơng thấy một cơng trình nào mang dấu người,
chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. Buồn lan theo cảnh. Buồn trải ra xa
“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Rồi lại dựng lên cao “Lớp lớp mây cao đùn
núi bạc". Trút qua đôi cánh chim nhỏ và rơi xuống một lòng người, ở chỗ
cảnh bặt dấu người, nên lòng mới trội lên nỗi nhớ q, lịng q. Tình thế
trơi dạt nổi nênh của ngoại cảnh làm con người ngậm ngùi thân phận, thèm
tình cảm ấm áp gia đình quần tụ. Bài thơ khép lại trong nỗi nhớ nhà. Tính
lơgíc trong những bước chuyển của tâm hồn rất được coi trọng trong bài thơ
này. Có lẽ vì thế Huy Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là bài thơ tình, và tình
gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn.




×