Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tiểu luận triết học: Nguyên tắc năng động và sự vận dụng trong hoạt động nhận thức, thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.87 KB, 11 trang )

VIN O TO SAU I HC
Trờng đại học kinh tế quốc dân hà nội

------------

Thảo luận nhóm
môn triết học
đề tài:
Nguyên tắc năng động
và sự vận dụng vào hoạt động nhận thức và thực tiễn
Giảng viên
Lớp
Nhóm thực hiện

: TS. LÊ thị hồng

: ch 18 g
: Nhóm 6

Hà Nội, 01/2010


THẢO LUẬN NHÓM MÔN TRIẾT HỌC

Nguyên tắc năng động chủ quan

Báo cáo tư vấn
và vận dụng trong thực tiễn

LỜI MỞ ĐẦU
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là phạm trù cùng cặp với phạm


trù vật chất, thuộc phạm vi vấn đề cơ bản của triết học. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng quan niệm bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ óc con người thông qua hoạt động thực tiễn. Nội dung của quan niệm này là:
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người cho nên nó là
cái tinh thần, là hình ảnh tinh thần của hiện thực khách quan, đồng thời nó hình
ảnh này ở trong đầu óc, thuộc về con người, do đó nó là “hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan” (Lê Nin), chứ không thuộc về khách thể, về cái khách quan.
- Hình ảnh tinh thần chủ quan nói trên là kết quả của sự cải biến những tác động
của hiện thực khách quan lên các giác quan con người nhờ hoạt động của bộ não.
Như Mác viết: Ý thức “chẳng qua là cái vật chất được di chuyển vào óc người và
được cải biến đi ở trong đó”.
- Phản ánh hiện thực khách quan là thuộc tính vốn có của bộ não. Nhờ thuộc tính
đó mà hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Ănghen nói: “Ý thức là
thuộc tính của vật chất có tổ chức cao là não người”.
- Trong hoạt động thực tiễn, con người tác động vào hiện tượng khách quan làm
cho nó bộc lộ những thuộc tính tác động lên giác quan con người, bộ óc người.
Bộ óc thu nhận những tác động đó và biến chúng thành những hình ảnh tinh thần
chủ quan.
Như vậy, ý thức hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Trước hết, để hiểu bản chất của ý thức chúng ta thừa nhận cả vật chất và ý thức
đều là hiện thực, nghĩa là đều tồn tại. Nhưng giữa chúng có sự khác nhau mang
tính đối lập. Ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh, còn vật chất là cái được phản
ảnh. Vật chất tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với cái phản ánh, tức là ý
thức. Ý thức là hiện thực chủ quan, là hình ảnh chủ quan, lấy cái khách quan làm
tiền đề, bị cái khách quan quy định, không có tính vật chất. Vì vậy không thể
đồng nhất hoặc tách rời cái được phản ánh tức vật chất, với cái phản ánh tức ý
thức.
Thứ hai, khi nói đến cái phản ánh tức ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Ý thức là của con người, ra đời trong quá trình con người hoạt động,
cải tạo thế giới, cho nên ý thức con người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện

thực theo nhu cầu thực tiễn của xã hội.
Trong phạm vi bài thảo luận này, nhóm 6 trình bày về “Nguyên tắc năng
động và sự vận dụng trong hoạt động nhận thức, thực tiễn” với hai nội dung:
I. NGUYÊN TẮC NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN
II. VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN VÀO
THỰC TIỄN VIỆT NAM
Nhóm 6 rất mong được Cô giáo và các thành viên trong lớp góp ý để nội
dung thảo luận được đầy đủ hơn.

Nhóm 6 – Lớp CH18G

Trang 1


THẢO LUẬN NHÓM MÔN TRIẾT HỌC

Nguyên tắc năng động chủ quan

Báo cáo tư vấn
và vận dụng trong thực tiễn

Nhóm 6 trân trọng cảm ơn Cô giáo và các bạn!
NỘI DUNG
I. NGUYÊN TẮC NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN
1. Khái niệm và vai trò của nguyên tắc năng động chủ quan
Trong quá trình tiến hóa của loài người, ý thức phát triển song song với khả
năng giao tiếp, ngôn ngữ. Tuy nhiên, bản chất của ý thức là gì thì đến nay vẫn là
vấn đề tồn tại cần làm sáng tỏ. Đó là tùy theo cách nhận thức vấn đề của mỗi
trường phái duy vật hay duy tâm. Nhưng từ lâu, dù thuộc trường phái nào người
ta cũng tin rằng, ý thức – cảm xúc có sức mạnh vật chất to lớn.

- Theo ngành Sinh – Y học, quan niệm ý thức là sản phẩm của bộ não, nói chi tiết
hơn, ý thức là sản phẩm “cơ - hóa - điện” của thân thể, não và hệ thần kinh.
- Theo chủ nghĩa duy tâm: Ý thức là sự tự ý thức.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình: Ý thức là chức năng của bộ óc.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
Ý thức của con người, ra đời trong quá trình con người hoạt động, cải tạo
thế giới, cho nên ý thức con người mang tính năng động và sáng tạo lại hiện thực
theo nhu cầu thực tiễn của xã hội. Theo Mác “chẳng qua chỉ là vật chất được đem
chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong nó”.
Khắc phục cả sự tuyệt đối lẫn sự coi thường tính năng động sáng tạo của ý
thức, khắc phục việc tách ý thức ra khỏi vật chất hay đồng nhất ý thức với vật
chất, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, ý thức là hình thức phản ánh xã hội
– phản ánh một cách năng động sáng tạo hiện thực khách quan vào trong bộ óc
con người có lợi ích. Vì vậy, tính phản ánh, tính sáng tạo, tính xã hội là những
mặt tạo nên bản chất của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Từ những tác động
vật chất của hiện thực khách quan lên các giác quan, não người đã biến đổi chúng
thành những hình ảnh tinh thần chủ quan tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau
như tình cảm, tri thức, tư tưởng, suy nghĩ… Sau đó, lại nhờ những hình ảnh tinh
thần chủ quan này, con người tạo ra những hiện thực mới.
Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động, cải tạo thế giới cho nên
quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động,
sáng tạo thống nhất theo cơ chế sau: Xuất phát từ sự trao đổi thông tin hai chiều
có chủ đích và mang tính chọn lọc giữa chủ thể và khách thể - đối tượng phản
ánh mà chủ thể mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh hay ý
tưởng tinh thần phi vật chất, thông qua hoạt động thực tiễn có chủ đích, chủ thể
lựa chọn các phương tiện, công cụ hiệu quả để vật chất (hiện thực) hóa mô hình
tinh thần trong tư duy thành các sự vật thực sự tồn tại trong hiện thực cuộc sống.
Ý thức là một hiện tượng xã hội không chỉ do nó bắt nguồn từ thực tiễn xã hội,


Nhóm 6 – Lớp CH18G

Trang 2


THẢO LUẬN NHÓM MÔN TRIẾT HỌC

Nguyên tắc năng động chủ quan

Báo cáo tư vấn
và vận dụng trong thực tiễn

mà còn do nó phản ánh những quan hệ xã hội và sáng tạo ra những sản phẩm tinh
thần theo nhu cầu, quy luật xã hội cho phép.
Ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo thế giới khách quan vào trong
bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ và diễn ra trong các quan hệ xã hội. Ý
thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, phụ thuộc vào xã hội và mang tính chất
xã hội. Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức cũng có nghĩa là phát huy
vai trò nhân tố con người, phát huy vai trò của nhân tố chủ quan - tri thức, tình
cảm, ý chí, lý trí,…trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo hiện thực
khách quan, vươn lên làm chủ thế giới.
Dù sáng tạo là một mặt rất cơ bản của bản chất ý thức, nhưng tự bản thân
mình, ý thức không thể sáng tạo ra vật chất. Bởi vì, sáng tạo của ý thức chỉ là
sáng tạo theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh, sáng tạo ra các khách
thể tinh thần.
Sự tồn tại và phát triển của con người không thể tách rời thế giới khách
quan. Song, thế giới khách quan lại không thể luôn thích ứng với nhu cầu sinh
tồn và phát triển của con người. Vì vậy, nhằm làm cho thế giới khách quan thích
ứng với nhu cầu tồn tại và phát triển của mình, con người nhất thiết phải phát huy

tính năng động thực tiễn để cải tạo thế giới khách quan.
C.Mác đã khẳng định: "Trong khi cải tạo thế giới đối tượng, con người
mới có thể chứng minh được tính tồn tại loài của mình. Kiểu sản xuất này là đời
sống loài của sự năng động người. Thông qua sự sản xuất ấy, giới tự nhiên mới
biểu hiện thành tác phẩm của con người và hiện thực của con người. Do đó, đối
tượng của lao động là sự đối tượng hoá đời sống loài của con người: con người
không chỉ tái hiện mình một cách lý trí trong ý thức, mà còn tái hiện mình một
cách năng động, hiện thực, từ đó có trực quan về bản thân trong thế giới mà mình
sáng tạo".
Hoạt động thực tiễn của con người nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó, đạt
đến mục đích nào đó. Chỉ có lựa chọn mục tiêu thực tiễn đúng nhất mới khiến
quá trình thực tiễn ngày càng tiến bộ. Mỗi một thế hệ người chỉ có tiến hành quá
trình thực tiễn ngày càng tiến bộ mới có thể khiến cả xã hội loài người ngày càng
tiến bộ. Như vậy, mới có thể thực thi sự tác động lẫn nhau giữa tính năng động
thực tiễn và tiến bộ xã hội: sự phát huy đầy đủ tính năng động thực tiễn có lợi cho
sự tiến bộ xã hội; ngược lại, tiến bộ xã hội thúc đẩy sự phát huy đầy đủ tính năng
động thực tiễn.
Ý thức con người tồn tại trong các con người cá nhân nhưng nó không
phải là hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là hiện tượng mang tính lịch sử - xã hội,
được hình thành và thể hiện qua các quan hệ xã hội mà cá nhân luôn bị chi phối.
Do vậy, tính năng động chủ quan có quá trình phát triển của nó. Trong các điều
kiện lịch sử xã hội khác nhau, trình độ phát huy tính năng động của thực tiễn là
không giống nhau.
Các công việc trong thế giới đều cần có con người thực hiện. Khi con
người làm bất cứ việc gì, đều cần phát huy tính năng động của thực tiễn. Trình độ
Nhóm 6 – Lớp CH18G

Trang 3



THẢO LUẬN NHÓM MÔN TRIẾT HỌC

Nguyên tắc năng động chủ quan

Báo cáo tư vấn
và vận dụng trong thực tiễn

phát huy tính năng động thực tiễn của con người trực tiếp quyết định thành tựu
lớn hay nhỏ của hoạt động thực tiễn con người. Xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa là sự nghiệp của hàng triệu con người. Trong bối cảnh Việt Nam đang xây
dựng và hiện đại hóa chủ nghĩa xã hội, việc huy động tối đa sự nỗ lực tự giác,
tính tích cực hoạt động thực tiễn của quảng đại quần chúng nhân dân, phát huy
tính năng động thực tiễn của mọi tầng lớp trong xã hội chính là sự đảm bảo cơ
bản cho việc thực hiện mục tiêu to lớn đó.
Trong phạm vi điều kiện khách quan cho phép, việc phát huy tính năng
động, đối với bất cứ sự thành công nào, đều đóng vai trò rất lớn. Để phát huy tính
năng động, nhất thiết phải dựa vào những điều kiện vật chất và các biện pháp vật
chất nhất định. Không có cơ sở hiện thực, thì bất luận có phát huy tính năng động
thực tiễn đến thế nào, cũng không thể tạo ra bất cứ thứ vật chất nào. Ngay cả khi
đã có những tiền đề vật chất cần thiết cho sự cải tạo, cũng vẫn phải dựa vào điều
kiện vật chất nhất định, lợi dụng các phương pháp kỹ thuật vật chất nhất định,
như công cụ, cơ khí, v.v. mới có thể chuyển hoá sự vật trong quan niệm thành sự
vật vật chất trong hiện thực.
2. Quan hệ giữa tính khách quan và tính năng động của thực tiễn
Tính khách quan và tính năng động thống nhất biện chứng với nhau. Tôn
trọng khách quan là tiền đề của tính năng động chủ quan, chủ thể phải biết lấy
hiện thực khách quan (thực tế) chứ không phải lấy ý muốn, tình cảm chủ quan
làm căn cứ cho mọi hoạt động cải tạo thế giới của mình. Còn trong mọi hoạt
động cải tạo thế giới của mình cần biết phát huy tính năng động sáng tạo của hiện
thực chủ quan (ý thức). Đồng thời, chủ thể thực tiễn lại là người cải tạo tự nhiên,

xã hội và chính bản thân mình. Hoạt động thực tiễn của con người là sự thống nhất
giữa tính khách quan và tính năng động.
Phát huy tính năng động chủ quan của ý thức ngoài việc phát huy tính chủ
động, tích cực sáng tạo của nó còn đồng thời phải tạo điều kiện để hạn chế những
yếu tố tiêu cực, bảo thủ, lạc hậu của ý thức, thường xuyên đổi mới tư duy và
phương pháp hoạt động. Cơ sở để phát huy tính năng động sáng tạo chủ quan của
ý thức là việc thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của thế giới vật chất. Nếu
như thế giới vật chất và những quy luật của nó tồn tại khách quan không phụ
thuộc vào ý thức của con người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
xuất phát từ thực tiễn khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi
hoạt động của mình. V.I. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn
chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát
cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan,
nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì chúng ta sẽ
mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
một cách sáng tạo. Vì vậy, nếu cường điệu tính sáng tạo của ý thức sẽ rơi vào
bệnh chủ quan duy ý chí. Bệnh chủ quan, duy ý chí là khuynh hướng tuyệt đối
hóa vai trò của nhân tố chủ quan, của ý chí, xa rời hiện thực khách quan, bất chấp
quy luật khách quan, lấy sự nhiệt tình thay cho sự yếu kém về tri thức khoa học.
Như vậy, thực hiện nguyên tắc năng động chủ quan trong nhận thức và
Nhóm 6 – Lớp CH18G

Trang 4


THẢO LUẬN NHÓM MÔN TRIẾT HỌC

Nguyên tắc năng động chủ quan

Báo cáo tư vấn

và vận dụng trong thực tiễn

thực tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí;
Muốn vậy, chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm chủ quan duy ý chí, nguyên nhân
và biện pháp phòng, chống.
Chủ nghĩa chủ quan là khuynh hướng nhìn nhận, đánh giá, xét đoán về
người, sự việc hay sự vật xuất phát từ quan điểm của một người hay một số
người, đi ngược lại hoặc không tính đến thực tế khách quan. Chủ nghĩa chủ quan
coi tính tích cực của chủ thể là quyết định tất cả, không lấy thực tiễn làm xuất
phát điểm, làm cơ sở và tiêu chuẩn của nhận thức. Trong hoạt động thực tiễn, chủ
nghĩa chủ quan xem nhẹ điều tra nghiên cứu để nắm vững tình hình thực tế,
thường xuất phát từ ý kiến chủ quan của cá nhân, từ những định kiến, những
nhận định, những sự đánh giá đã có sẵn. Do đó, những kết luận của nó thường có
tính chất võ đoán, ý chí luận. Cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa chủ quan là
tuyệt đối hoá tính độc lập, vai trò tích cực của chủ thể trong các lĩnh vực hoạt
động khác nhau.
Thuyết duy ý chí là quan điểm duy tâm thừa nhận khởi nguyên của mọi tồn
tại và phát triển không phải là quy luật khách quan mà là ý chí. Có hai loại thuyết
duy ý chí: loại mang hình thức của chủ nghĩa duy tâm khách quan mà đại diện tiêu
biểu là Sôpenhaoơ (A. Shopenhauer) và Hacman (E. Hartmann), cho rằng khởi
nguyên của mọi tồn tại và phát triển là "ý chí thế giới"; loại mang hình thức của
chủ nghĩa duy tâm chủ quan mà đại diện tiêu biểu là Stiêcnơ (J. K. S. Stirner) và
Nitsơ (F. Nietzsche) cho rằng khởi nguyên đó là ý chí chủ quan của chủ thể. Trong
hoạt động thực tiễn chính trị - xã hội, thuyết duy ý chí thể hiện ở việc xem thường
hoặc phủ nhận quy luật khách quan của xã hội, cường điệu vai trò ý chí của cá
nhân, của lãnh tụ trong sự phát triển của lịch sử, do đó mà dẫn tới chủ nghĩa phiêu
lưu mạo hiểm hoặc độc tài cá nhân.
Bệnh chủ quan duy ý chí có nguồn gốc từ nhận thức là do sự yếu kém về
trình độ nhận thức, về tri thức khoa học nói chung và sự hạn chế trong quá trình
áp dụng tri thức lý luận vào thực tiễn nói riêng, không đáp ứng được đòi hỏi của

thực tiễn. Do đó, Lênin đã gọi căn bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai
lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý
luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm mống
cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song vẫn có khả năng được ngăn ngừa
và loại bỏ. Bệnh chủ quan duy ý chí còn do nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai cấp,
tâm lý của người sản xuất nhỏ chi phối. Cơ chế quan liêu bao cấp cũng tạo điều
kiện cho sự ra đời của bệnh chủ quan, duy ý chí….
Sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động giản
đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan biểu hiện trong một số chủ
trương và chính sách của Đảng và Nhà nước xa rời hiện thực khách quan.
Để khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí phải sử dụng đồng bộ nhiều biện
pháp. Trước hết, phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ
lý luận của Đảng. Trong hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của hệ thống chính trị, chống bảo thủ, trì trệ quan liêu.
Nhóm 6 – Lớp CH18G

Trang 5


THẢO LUẬN NHÓM MÔN TRIẾT HỌC

Nguyên tắc năng động chủ quan

Báo cáo tư vấn
và vận dụng trong thực tiễn

II. VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN VÀO THỰC
TIỄN VIỆT NAM
Phát huy tính năng động chủ quan thể hiện rất đa dạng, phong phú trong

đó có một số biểu hiện cơ bản của nó là: tôn trọng tri thức khoa học; Phải làm
chủ tri thức khoa học và truyền bá tri thức khoa học vào quần chúng nhân dân để
nó trở thành tri thức, niềm tin định hướng cho quần chúng nhân dân hành động.
1. Phải tôn trọng tri thức khoa học
Tri thức khoa học là tri thức chân thực về thế giới, được khái quát từ thực
tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm. Tri thức khoa học giữ vai trò đặc biệt trong
cuộc sống của con người vì nó là động lực phát triển của xã hội. Mọi bước tiến
trong lịch sử nhân loại dều gắn liền với những thành tựu mới của tri thức khoa
học.
Tôn trọng tri thức khoa học không chỉ chống sự tuyệt đối hóa vai trò của
kinh nghiệm, xem thường khoa học mà còn là không tuyệt đối hóa một loại khoa
học nào trong hệ thống các khoa học.
Từ đầu thế kỷ XX đến nay, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là một
bước nhảy vọt trong lực lượng sản xuất. Thực chất của cuộc cách mạng đó là ở
chỗ nó mở ra kỷ nguyên mới của sản xuất tự động hóa với việc phát triển ứng
dụng điều khiền học và vô tuyến điện tử. Khoa học là điểm xuất phát chi những
biến đổi to lớn trong kỹ thuật sản xuấ, tạo ra những ngành mới như chế tạo vật
liệu mới, khai thác nguồn năng lượng mới…
Đặc điểm chung đòi hỏi thay đổi mối quan hệ giữa khoa học và thực tiễn,
mà trong đó tri thức khoa học được vật chất hóa kết tinh vào mọi yếu tố của lực
lượng sản xuất. Cho nên ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp.
Trong thời ký quá độ lên XHCN của nước ta hiện nay, đường lối đúng đắn
của Đảng và nhà nước ta có khả năng đảm bảo kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích tập thể, giải quyết kịp thời những mâu thuẫn của nhân dân, tạo
điều kiện thuận lợi cho mỗi cá nhân phát triển toàn diện. Bên cạnh đó, việc xây
dựng nền kinh tế hang hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đi
đôi với việc tăng cường vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩ luôn đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân: phát huy yếu tố con
người là mục đích cao nhất trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội là một

yêu cầu trong việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội ở
nước ta hiện nay.
Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức, sự hình thành và phát triển của
ý thức có lien quan mật thiết đến quá trình con người nhận thức về thế giới, tích
lũy những tri thức, sự hiểu biết nói chung. Tri thức là kết quả của quá trình phản
ánh thế giới khách quan và có tích chất lịch sử xã hội. Tri thức bao gồm cả tri
thưc cảm tính là tri thức lý tính ( hoặc tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận).
Như vậy, xét về nguồn gốc tri thức là một hiện tượng mang tính xã hội.
Nhóm 6 – Lớp CH18G

Trang 6


THẢO LUẬN NHÓM MÔN TRIẾT HỌC

Nguyên tắc năng động chủ quan

Báo cáo tư vấn
và vận dụng trong thực tiễn

Chúng ta biết rằng khoa học là hệ thống các tri thức của con người về thế
giới. Tri thức khoa học khác với tri thức thông thường và tri thức kinh nghiệm,
Tri thức kinh nghiệm được hình thành một cách trực tiếp thông qua những điều
kiện sống thường ngày, mang tính hiện tượng, tính bên ngoài, tính riêng biệt và
cụ thể, còn tri thức khoa học đem lại hiểu biết cái bản chất, cái quy luật của hiện
thức khách quan.
Xét về vai trò và tác dụng, tri thưc khoa học bao gồm khoa học cơ bản và
khoa học ứng dụng. Khoa học cơ bản vạch ra những nguyên tắc, quy tác, phương
pháp cụ thể để ứng dụng trực tiếp vào hoạt động cải tiến thiên nhiên và xã hội.
Vai trò của tri thức ngày càng quan trọng và đóng vai trò chủ đạo trong

việc đính hướng nền kinh tế, một nền kinh tế đang chuyển mình đi lên.
Nhận thức được vai trò của tri thức khoa học, Đảng và nhà nước đã khẳng
định “ giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hang
đầu” nhằm đào tạo những con người toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khỏe,
thẩm mỹ và nghề nghiệp trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đối với khoa học, Đảng và nhà nước chủ trương “ thực hiện cơ chế kết
hợp chặt chẽ giữa khoa học xã hội và nhân văn với khoa học tự nhiên, khoa học
công nghệ… Phát huy tính sáng tạo, tính dân chủ trong hoạt động khoa học và
công nghệ. Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ tri thức, trọng dụng
và tôn vinh nhân tài kể cả người Việt Nam ở nước ngoài. Khuyến khích và tạo
điều kiện thuận lợi cho mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học công
nghệ, thu hút chuyển gia giỏi của thế giới đóng góp vào sự phát triển đất nước
bằng nhiều hình thức thích hợp”.
2. Phải làm chủ tri thức khoa học và truyền bá tri thức khoa học vào quần
chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin định hướng cho quần chúng nhân
dân hành động.
Từ tôn trọng tri thức khoa học đến làm chủ được tri thức khoa học là cả
một quá trình. Việc vươn lên làm chủ tri thức khoa học không chỉ liên quan đến
quan niệm của con người về khoa học mà còn liên quan đến năng lực, nghị lực,
quyết tâm của con người và những điều kiện vật chất để thực hiện nó. Mặt khác,
sức mạnh và hiệu quả của tri thức phụ thuộc vào sự thâm nhập của nó vào quần
chúng nhân dân, và đây là điều kiện trực tiếp để phát huy vai trò nhân tố con
người trong hoạt động vật chất hóa tri thức.
Vươn lên làm chủ tri thức khoa học là quá trình vừa mang tính cá nhân
vừa mang tính xã hội và liên quan đến tất cả mọi lĩnh vực trong cuộc sống.
Khơi dậy trong nhân dân long yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí
của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu”….
Việc đầu tư có trọng điểm trong hệ thống giáo dục và nghiên cứu khoa học, việc

chủ trương xã hội hóa giáo dục để “cả nước trở thành một xã hội học tập”, chủ
Nhóm 6 – Lớp CH18G

Trang 7


THẢO LUẬN NHÓM MÔN TRIẾT HỌC

Nguyên tắc năng động chủ quan

Báo cáo tư vấn
và vận dụng trong thực tiễn

trương sử dụng tối ưu những phương tiện thông tin đại chúng cũng như đa dạng
hóa các hình thức tuyên truyền, việc động viên các nhà khoa học bám sát cơ sở
sản xuất, hướng dẫn nhân dân nắm bắt và làm chủ những tri thức mới về khoa
học và công nghệ” mà Đảng, nhà nước và toàn dân đang tiến hành là những hoạt
động sống động về việc phát huy tính năng động chủ quan phù hợp với yêu cầu
và điều kiện của xã hội hiện tại.
Tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan vừa là những ý
nghĩa phương pháp luận cơ bản, vừa là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong
hoạt động thực tiễn. Những yêu cầu này khác nhau nhưng thống nhất và quan hẹ
hữu cơ với nhau nên hoạt động của con người chỉ đạt hiệu quả tối ưu khi thực
hiện chúng đồng bộ và chống lại quan điểm, những biểu hiện đối lập với chúng.
3. Chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí:
Chủ quan duy ý chí là một căn bệnh khá phổ biến ở nước ta và nhiều nước
XHCN trước đây, gây tác hại nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.
Trước thời kỳ đổi mới (ĐH 6), Đảng ta đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí
trong việc xây dựng mục tiêu và bước đi về cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo
XHCN và quản lý kinh tế, Đảng đã nóng vội muốn xóa bỏ ngay nền kinh tế

nhiều thành phần, muốn sau khi cải tạo XHCN chỉ còn lại hai thành phần kinh tế
quốc doanh và tập thể hay có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp
nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ, chúng ta đã duy trì quá lâu cơ
chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, cơ chế xin cho, có nhiều chủ trương sai
trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ.
Trên thực tế có rất nhiếu quốc gia trong đó có Việt Nam đã tìm ra con
đường đi cho mình từ lý luận trên. Chính sự nhận thức đúng đắn về mối liên hệ
giữa vật chất và ý thức mà Đảng và nhà nước ta đã có hướng đi đúng đắn. Hiện
nay tôn chỉ của ĐCSVN là :"Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát
từ thực tế, tôn trọng kỷ luật khách quan."
*

*
*

Nhóm 6 – Lớp CH18G

Trang 8


THẢO LUẬN NHÓM MÔN TRIẾT HỌC

Nguyên tắc năng động chủ quan

Báo cáo tư vấn
và vận dụng trong thực tiễn

KẾT LUẬN
CNDV biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, vật chất
quyết định ý thức, vật chất sinh ra ý thức, ý thức chỉ là sự phản ánh vật chất

nhưng đó là sự phản ánh năng động sáng tạo.Vì vậy giữa vật chất và ý thức có
mối quan hệ biện chứng.
Vật chất quyết định ý thức bởi vì bộ não con người là dạng vật chất có tổ
chức cao nhất và chỉ có duy nhất ở con người. Đó là cơ quan phản ánh cho ra đời
ý thức là một dạng biểu hiện của vật chất đồng thời các yếu tố tạo thành nguồn
gốc ra đời của ý thức hoặc là chính thế giới vật chất (thế giới khách quan) Tất cả
các yếu tố đó đều thuộc về dạng vật chất.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất phải thông qua lao động thực
tiễn của con người bởi vì thông qua lao động của người khi tác động vào thế giới
khách quan đã làm cho thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những quy
luật từ đó con người có thể nhận thức được dễ dàng hơn các sự vật hiện tượng
trong thế giới đó, đồng thời trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, thế
giới khách quan đã được cải biến đi thông qua cơ quan cảm giác của con người
thông qua lăng kính chủ quan của con người.
Nghiên cứu về phạm trù ý thức, ý thức là một hình ảnh tinh thần toàn vẹn về
hiện thực khách quan. Nó bao gồm các yếu tố cơ bản cấu thành như: Tâm lý,
nhận thức và tư tưởng. Tâm lý bao gồm các trạng thái tinh thần của con người
như: Tình cảm, ý trí, cảm xúc, mong muốn… Nhận thức bao gồm các trạng thái
tinh thần như: Tri thức, suy nghĩ, tư duy, quá trình nhận thức… Tư tưởng của
con người là những khuynh hướng tâm lý, nhận thức, những yếu tố cơ bản của ý
thức kết hợp chặt chẽ với nhau và có vai trò khác nhau trong hoạt động của con
người. Tâm lý là cơ sở tinh thần, trên đó các hoạt động tinh thần khác nhau diễn
ra như nhận thức, tư tưởng. Không có cảm xúc thì không có hoạt động tư duy.
Nhận thức, tri thức đóng vai trò quyết định các ý thức trên. Nhờ tri thức, con
người làm chủ được hoạt động tâm và định hướng hoạt động tinh thần nói chung.
Còn tư tưởng đóng vai trò định hướng của hoạt động tinh thần nhưng nó hình
thành trên cơ sở của tâm lý và nhận thức.
Chúng ta cần phát huy tính năng động và sáng tạo của ý thức, phát huy vai
trò nhân tố con người để tác động, cải tạo thế giới khách quan, đồng thời khắc
phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại.

Trong khuôn khổ bài thảo luận này, Nhóm 6 hi vọng có được những gạch
đầu dòng cơ bản, nhóm mong Cô giáo và các thành viêu trong lớp trao đổi sâu
hơn về đề tài này, cùng góp ý với nhóm để nội dung của đề tài được đầy đủ hơn.

Nhóm 6 – Lớp CH18G

Trang 9


THẢO LUẬN NHÓM MÔN TRIẾT HỌC

Nguyên tắc năng động chủ quan

Báo cáo tư vấn
và vận dụng trong thực tiễn

Nhóm 6 – Lớp CH18G

Trang 10



×