Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Thành phần loài thực vật ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) trên núi đá vôi khu vực suối Cá thần xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.16 KB, 62 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐỖ HÙNG SƠN

THÀNH PHẦN LOÀI THỰC VẬT CÓ HOA TRÊN
NÚI ĐÁ VÔI Ở SUỐI CÁ THẦN XÃ CẨM LƯƠNG
HUYỆN CẨM THỦY, TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

NGHỆ AN, 2013


2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐỖ HÙNG SƠN

THÀNH PHẦN LOÀI THỰC VẬT CÓ HOA TRÊN
NÚI ĐÁ VÔI Ở SUỐI CÁ THẦN XÃ CẨM LƯƠNG
HUYỆN CẨM THỦY, TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành Thực vật
Mã số: 60.42.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM HỒNG BAN



Nghệ An năm 2013


3

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Sinh học này tôi xin bày tỏ long
biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Phạm Hồng Ban người thầy hướng dẫn khoa học đã
chỉ dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ long biết ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong
khoa Sinh học, phòng Sau đại học – Trường Đại học Vinh. Cán bộ và nhân dân
xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa đã giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện đề tài.
Trong quá trình thực hiện do còn hạn chế về mặt thời gian, trình độ và tài
chính nên bản luận văn còn nhiều thiếu sót. Tôi mong muốn nhận được những
đóng góp ý kiến quý báu của thầy cô giáo, các nhà khoa học và bạn bè đồng
nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, ngày 05 tháng 10 năm 2013
Tác giả

ĐỖ HÙNG SƠN

MỤC LỤC


4


Tra
ng
Mở đầu
1
Chương 1. Tổng quan tài liệu
3
1.1. Nghiên cứu về đa dạng thực vật trên thế giới
3
1.2. Nghiên cứu đa dạng phân loại hệ thực vật ở Việt Nam
5
1.3. Nghiên cứu đa dạng thực vật tên núi đá vôi ở Việt Nam
9
1.4. Nghiên cứu đa dạng về phổ dạng sống của hệ thực vật
10
Chương 2. Điều kiện tự nhiên và xã hội khu vực nghiên cứu
13
2.1. Một số đặc điểm tự nhiên – xã hội của huyện Cẩm Thủy
13
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
13
a. Vị trí địa lí
13
b. Địa hình – địa chất
14
c. Khí hậu thủy văn
14


5
2.1.2. Kinh tế văn hóa xã hội

14
2.2. Một số đặc điểm tự nhiên – xã hội xã Cẩm Lương
15
2.2.1. Điều kiện tự nhiên
15
a. Vị trí địa lí
15
b. Địa hình
15
c. Khí hậu
16
2.2.2. Điều kiện xã hội
16
2.2.3. Du lịch
17
Chương 3. Đối tượng – Nội dung – Phương pháp nghiên cứu
22
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
22
3.2. Thời gian nghiên cứu
22
3.3. Nội dung nghiên cứu
22
3.4. Phương pháp nghiên cứu
22


6
3.4.1. Thu thập số liệu ở thực địa
22

3.4.2. Phương pháp thu mẫu ngoài thiên nhiên
22
3.4.3. Xử lí và trình bày mẫu
23
3.4.4. Xác định và kiểm tra tên khoa học
23
3.4.5. Xây dựng bảng danh lục thực vật
24
3.4.6. Phương pháp đánh giá đa dạng thực vật
25
+ Đánh giá đa dạng các taxon trong ngành
25
+ Đánh giá đa dạng loài của các họ
25
+ Đánh giá đa dạng loài của các chí
25
3.4.7. Phương pháp đánh giá đa dạng về dạng sống
25
3.4.8. Phương pháp đánh giá về giá trị tài nguyên và mức độ bị đe dọa
26
Chương 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
27
4.1. Đa dạng về thành phần loài
27


7
4.2. Đa dạng về bậc họ
45
4.3. Đa dạng về bậc chi

46
4.4. Đa dạng về dạng sống
47
4.5. Đa dạng về nguồn tài nguyên thực vật
48
4.6. Đa dạng về nguồn gen quý hiếm
49
Kết luận và kiến nghị
51
Tài liệu tham khảo
53
Phụ lục
58

CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
1. Dạng sống
Ph

Phanérophytes - Cây có chồi trên đất

Ch

Chaméphytes (Ch) - Cây có chồi sát mặt đất

Hm

Hemicryptophytes (Hm) - Cây có chồi nửa ẩn

Cr


Cryptophytes (Cr) - Cây có chồi ẩn


8
Th

Thérophytes (Th) - Cây chồi một năm

2. Công dụng
M

Cây làm thuốc

T

Cây cho gỗ

Or

Cây làm cảnh

Oil

Cây lấy tinh dầu

F

Cây ăn được

K


Cây cho công dụng khác

* Các loài thực vật quý hiếm

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
Tra
ng
Sơ đồ
13

vị trí địa lí huyện Cẩm Thủy


9
Bảng 1. Danh lục thực vật có hoa trên núi đá vôi ở suối cá thần,
27
xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.
Bảng 2. Sự phân bố các Taxon lớp trong ngành Mộc Lan
43
ở Suối Cá Thần Cẩm Lương.
Bảng 3.

So sánh tỷ lệ % giữa các họ nghiên cứu ở Suối Cá Thần

44
với Cúc Xuân Liên.
Bảng 4.

So sánh hệ số chi, số loài trung bình của Suối cá thần Cẩm Lương


44
với Xuân Liên.
Bảng 5.

Thống kê 10 họ nhiều loài ở suối cá thần Cẩm Lương

Bảng 6.

Thống kê các chi đa dạng nhất của thực vật có hoa ở

45
46
Suối cá thần Cẩm Lương
Bảng 7.

Thống kê các dạng sống của các loài thực vật có hoa ở

47
Suối cá thần Cẩm Lương.
Bảng 8.

Thống kê các giá trị sử dụng của các loài thực vật suối cá thần

49
Cẩm Lương
Bảng 9.

Thống kê các loài bị đe dọa ở trên núi đá vôi suối cá thần


50
xã Cẩm Lương


10

DANH MỤC HÌNH VÀ PHỤ LỤC
Tra
ng
Hình 1. Phân bố của các lớp trong ngành Magnoliophyta
43
Hình 2. Phổ dạng sống cơ bản của thực vật có hoa ở suối cá thần xã Cẩm Lương
47
Hình 3. Các nhóm công dụng chính của thực vật có hoa ở suối cá thần
49
xã Cẩm Lương
Phụ lục 1. Phiếu ghi thực địa
Phụ lục 2. Phiếu Etiket
Phụ lục 3. Một số hình ảnh thực vật trên núi đá xã Cẩm Lương


11
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cuộc sống của chúng ta liên quan mật thiết đến nguồn tài nguyên mà Trái đất
cung cấp ( nước, không khí, thực vật và động vật). Trong đó, tài nguyên sinh vật nhất
là tài nguyên thực vật có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc duy trì sự sống còn
của hành tinh chúng ta
Có thể khẳng định thực vật là cơ sở dinh dưỡng ban đầu để duy trì sự sống, là
khâu đầu tiên trong chuỗi và lưới thực ăn, là nguồn cung cấp nguyên dược liệu quý giá,

không những thế, thực vật còn có ý nghĩa quan trọng trong điều hòa lượng nước ngầm,
điều hòa khí hậu.
Việt nam nằm trong khu vực nhiệt đới châu Á, nơi có hệ thực vật phong phú đa
dạng. Với diện tích 330.000 km2 đến nay đã tìm ra khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao.
Tuy nhiên con số này còn khác xa so với thực tế vì còn rất nhiều loài chưa được biết
đến và chưa được thống kê đầy đủ.
Ngày nay, do tác động mạnh mẽ của nền công nghiệp tiên tiến, nhân loại đã tiến
hành khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên nói chung và nguồn tài nguyên trên núi đá
vôi nói riêng suy giảm một cách nhanh chóng. Điều này đã và đang làm ảnh hưởng xấu
đến môi trường sinh thái, nhiều loài trước đây khá phổ biến, nay trở nên cạn kiệt và
khu phân bố của chúng bị thu hẹp đáng kể.
Cẩm Thủy là một huyện miền núi bán sơn địa gồm 19 xã và 01 thị trấn. Trong
đó xã Cẩm Lương là một xã miền núi cao, nằm trong trương trình 135 của chính phủ.
Tạo hóa đã ban tặng cho người dân nơi đây dòng suối tiên với những con cá thần. Bên
cạnh đó xã Cẩm Lương hiện còn đang giữ được nguyên vẹn hệ thống rừng nguyên
sinh, với những loài động vật, thực vật đặc trưng của vùng nhiệt đới. Hệ thực vật nơi
đây, nhất là hệ thực vật trên núi đá vôi đã góp phần quan trọng trong việc tạo nguồn
sinh thủy cho đàn cá thần bí.
Việc bảo vệ hệ thực vật rừng đầu nguồn nói chung, hệ thực vật kề ngay bên suối
cá nói riêng là công việc hết sức cần thiết. Bởi nguồn tài nguyên thực vật trên núi đá
vôi nếu mất đi thì không bao giờ phục hồi, phát triển lại được như ban đầu. Và như thế,


12
nguồn tài nguyên trong hệ sinh thái này sẽ bị suy giảm, quỹ gen tự nhiên bị nghèo kiệt
làm mất đi tính đa dạng di truyền trong hệ sinh thái.
Vì vậy, việc nắm vững những đặc trưng cơ bản của hệ thực thực vật như lập
danh lục loài, tìm hiểu phổ dạng sống, các yếu tố địa lý, giá trị sử dụng để khai thác và
bảo vệ nguồn tài nguyên thực vật hợp lí, theo hướng phát triển lâu bền là một việc làm
hết sức cần thiết.

Cho tới nay công tác điều tra nghiên cứu các hệ thực vật trên núi đá vôi tuy đã
có những bước tiến đáng kể nhưng còn rất ít và chưa được quan tâm đầy đủ. Đặc biệt
rừng trên núi đá vôi là một hệ sinh thái tương đối nhạy cảm và khó tái sinh. Vì các lý
do trên để góp chung vào mảng các đề tài nghiên cứu về hệ thực vật trên núi đá vôi,
chúng tôi tiến hành đề tài “Thành phần loài thực vật có hoa trên núi đá vôi ở suối Cá
Thần, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa” .
2. MỤC TIÊU
Nhằm phản ánh thành phần loài thực vật có hoa, đánh giá tính đa dạng của
ngành thưc vật này trên núi đá vôi ở suối cá thần, xã Cẩm Lương. Góp phần quan trọng
tạo môi trường sinh thái bền vững cho khu du lịch suối cá thần đầy linh thiêng.


13
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.Nghiên cứu về đa dạng sinh học trên thế giới
Vấn đề đa dạng sinh vật và bảo tồn đã trở thành một chiến lược toàn thế giới.
Nhiều tổ chức quốc tế đã ra đời để hướng dẫn, giúp đỡ và tổ chức việc đánh giá, bảo
tồn và phát triển đa dạng sinh vật trên toàn phạm vi thế giới. Đó là Hiệp hội quốc tế
bảo vệ thiên nhiên (IUCN) [Theo 47], Chương trình môi trường Liên hợp quốc
(UNEP) [Theo 45], Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF) [Theo 47], Viện Tài
nguyên di truyền quốc tế (IPGRI) [Theo 47]…Loài người muốn tồn tại lâu dài trên
hành tinh này thì phải có một dạng phát triển mới và phải có cuộc sống mới. Nhu cầu
cơ bản và sự sống còn của con người phụ thuộc vào tài nguyên của trái đất, nếu những
tài nguyên đó bị giảm sút thì cuộc sống của chúng ta và con cháu của chúng ta sẽ bị đe
dọa. Chúng ta đã quá lạm dụng tài nguyên của trái đất mà không nghĩ đến tương lai,
nên ngày nay loài người đang đứng trước hiểm họa. Để tránh sự hủy hoại tài nguyên
chúng ta phải ton trọng trái đất và sống một cách bền vững, dù muộn còn hơn không
chú ý, vì thế hội nghị thượng đỉnh bàn về vấn đề môi trường và đa dạng sinh vật đã
được tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil) tháng 6 năm 1992, 150 nước đã ký vào công

ước về đa dạng sinh vật và bảo vệ chúng. Từ đó nhiều hội thảo được tổ chức để thảo
luận và nhiều quấn sách mang tính chất chỉ dẫn ra đời. Năm 1990 WWF đã cho xuất
bản quấn sách nói về tầm quan trọng về đa dạng sinh vật (The importance ofbiological
diversity) [Theo 45], hay IUCN, UNEP và WWF đưa ra chiến lược bảo tồn thế giới
(World conservation strategy) Wri, IUCN and WWF đưa ra chiến lược sinh vật toàn
cầu (Global biological strategy) [Theo 47], Năm 1991 Wri, Wcu, WB, WWF xuất bản
cuốn “bảo tồn đa dạng sinh vật thế giới” (Conserving the World's biological diversity)
[Theo 47], hoặc IUCN, UNEP và WWF xuất bản cuốn “ Hãy quan tâm tới trái đất”
(Caring for the earth) [Theo 45]. Cùng năm, Wri, IUCN và UNEP xuất bản cuốn
“Chiến lược đa dạng sinh vật và chương trình hành động” [Theo 45]; tất cả cuốn sách
đó nhằm hướng dẫn và đề ra các phương pháp để bảo tồn đa dạng sinh học, làm nền
tảng cho công tác bảo tồn và phát triển trong tương lai.


14
Năm 1992 – 1995 WCMC công bố một cuốn sách tổng hợp “Đánh giá đa dạng
sinh vật toàn cầu” các tư liệu về đa dạng sinh vật của các nhóm sinh vật khác nhau các
vùng khác trên toàn thế giới (Global biodiversity assessment) làm cơ sở cho việc bảo
tồn chúng có hiệu quả [Theo 45].
Bên cạnh đó, hàng ngàn tác phẩm, những công trình khoa học khác nhau ra đời
và hàng ngàn cuộc hội thảo khác nhau được tổ chức nhằm thảo luận về quan điểm, về
phương pháp luận và thông báo các kết quả đã đạt được ở khắp mọi nơi trên toàn thế
giới. Nhiều tổ chức quốc tế hay khu vực được nhóm họp tạo thành mạng lưới phục vụ
cho việc đánh giá bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học.
Theo thời gian, con người ngày càng tích lũy thêm hiểu biết của mình về thế
giới thực vật phong phú xung quanh. Những công trình mô tả đầu tiên về thực vật xuất
hiện ở Ai Cập cổ đại cách đây hơn (3.000 năm TCN) [Theo 44] và Trung Quốc cổ đại
(2.200 năm TCN) sau đó là ở Hy Lạp cổ và La Mã cổ cũng xuất hiện hàng loạt các tác
phẩm về thực vật.
Théophraste (371 - 286 TCN) là người đầu tiên đề xướng ra phương pháp phân loại

thực vật [Theo 12]. Dựa trên nghiên cứu đặc điểm hình thái ngoài và sinh cảnh sinh sống
của thực vật, ông cho ra đời hai tác phẩm “Lịch sử thực vật” và “Cơ sở thực vật” trong đó
đã mô tả được khoảng 500 loài cây trồng và cây hoang dại. Tiếp đến là Plinus (79 24TCN) viết bộ “Lịch sử tự nhiên” đã mô tả gần 1.000 loài cây làm thuốc và cây ăn quả.
Sau đó Dioseoride (20 - 60 sau CN) một thầy thuốc của Tiểu Á đã viết cuốn sách “Dược
liệu học”, trong đó ông nêu được hơn 500 loài cây và đã xếp chúng vào các họ khác nhau
[Theo 12].
Trong suốt thời kỳ Trung cổ, phân loại học thực vật cũng như các ngành khoa
học khác không phát triển được do sự thống trị của giáo hội.
Đến thời kỳ Phục Hưng thế kỷ (XV - XVI) với sự phát triển của các ngành khoa
học kỹ thuật kéo theo phát triển mạnh phân loại học thực vật, đánh dấu bởi 3 sự kiện
quan trọng đó là: Sự phát sinh tập bách thảo (Herbier) thế kỷ XVI; việc thành lập các
vườn bách thảo (TKXV - XVI) và biên soạn cuốn “Bách khoa toàn thư về thực vật”.
Các sự kiện đó là những cơ sở cho các nhà nghiên cứu thực vật. Từ đây xuất hiện các


15
công trình như của Andrea Caesalpino (1519 - 1603) một trong những nhà thực vật học
được đánh giá cao bởi quan điểm phân loại học thực vật dựa trên đặc điểm quan trọng
của chúng. Ông lấy đặc điểm hạt để làm tiêu chuẩn phân loại thực vật [Theo 12]. Nhà
tự nhiên học người Anh, Jonh Ray (1628 - 1705) trong quyển “Lịch sử thực vật” gồm 3
tập mô tả 18.000 loài thực vật. Tiếp sau đó Linnee (1707 - 1778) là người được mệnh
danh là “Ông tổ” của phân loại học, nhà tự nhiên học Thụy Điển (1707 - 1778), trong
tác phẩm “Hệ thống tự nhiên” của mình ông đã mô tả khoảng 10.000 loài cây và sắp
xếp vào một hệ thống nhất định. Ông đã đưa ra cách đặt tên sinh vật rất chặt chẽ và
thuận tiện, mỗi tên cây được gọi bằng tiếng La tinh gồm 2 từ ghép lại mà ngày nay
chúng ta còn sử dụng. Ông cũng là người xây dựng nên hệ thống phân loại gồm 7 đơn
vị: giới, ngành, lớp, bộ, họ, chi, loài [Theo 44].
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX phân loại thực vật dược dựa trên cơ sở các
mối quan hệ tự nhiên của thực vật, dựa vào toàn bộ (hay số lớn) tính chất chung của
chúng. Có rất nhiều hệ thống phân loại ra đời: hệ thống phân loại của Bernard Jussieu

(1699 - 1777) và Decandol (1778 - 1836) đã mô tả được 161 họ và đưa phân loại trở
thành một môn khoa học. Robert Brown(1773 - 1858) đã chia thực vật thành 2 nhóm
đó là hạt trần và hạt kín [Theo 44].
Bước sang thế kỷ XIX việc nghiên cứu các hệ thực vật đã thực sự phát triển
mạnh mẽ ở tất cả các quốc gia. Phân loại học ngày càng đi sâu nghiên cứu bản chất của
sinh vật. Nhiều công trình nghiên cứu có giá trị các cuốn thực vật chí lần lượt ra đời :
Thưc vật chí Hồng Công, thực vật chí Anh (1869), thực vật chí Ấn Độ 7 tập (1872 1897), thực vật chí Vân Nam (1977), thực vật chí Malayxia (1922 - 1925), thực vật chí
Trung Quốc, thực vật chí Liên Xô, thực vật chí Australia, thực vật chí Thái Lan...
Đến năm 1993, Watters và Hamilton đã thống kê được trong các tác phẩm
nghiên cứu thì trong suốt 2 thế kỷ qua đã có 1,4 triệu loài thực vật đã được mô tả và đặt
tên. Cho đến nay vùng nhiệt đới đã xác định được khoảng 90.000 loài, trong đó vùng
ôn đới Bắc Mĩ và Âu – Á có 50.000 loài được xác định [36].
1.2. Nghiên cứu đa dạng phân loại hệ thực vật ở Việt Nam


16
Ở Việt Nam lịch sử phát triển môn phân loại thực vật diễn ra chậm hơn so với
các nước khác. Thời gian đầu chỉ có các nhà nho, thầy lang sưu tập các cây có giá trị
làm thuốc chữa bệnh như Tuệ Tĩnh (1623 - 1713) trong 11 quyển “Nam dược thần
hiệu” đã mô tả được 759 loài cây thuốc, Lê Quý Đôn (thế kỷ XVI) trong “Vân Đài loại
ngữ” 100 cuốn đã phân ra cây cho hoa, quả, ngũ cốc…Lê Hữu Trác (1721 - 1792) dựa
vào bộ “Nam dược thần hiệu” đã bổ sung thêm 329 vị thuốc mới trong sách “Hải
Thượng Y tôn tâm linh” gồm 66 quyển. Ngoài ra trong tập “Lĩnh nam bản thảo” ông đã
tổng hợp được 2.850 bài thuốc chữa bệnh [Theo 12].
Đến thời kì Pháp thuộc tài nguyên rừng nước ta còn rất phong phú và đa dạng,
thu hút nhiều nhà khoa học phương Tây nghiên cứu. Do đó, việc phân loại thực vật
được đẩy mạnh và nhanh chóng. Điển hình như các công trình của Loureiro năm 1790
“Thực vật ở Nam Bộ” ông đã mô tả gần 700 loài cây [Theo 44].
Gần đây phải kể đến bộ Thực vật chí Campuchia, Lào và Việt Nam do
Aubréville khởi xướng và chủ biên (1960 - 1997) cùng với nhiều tác giả khác. Đến nay

đã công bố 29 tập nhỏ gồm 74 họ cây có mạch nghĩa là chưa đầy 20% tổng số họ đã có
[53].
Năm 1965, Pocs Tamas đã thống kê ở miền Bắc có 5.190 loài [55], và năm
1969, Phan Kế Lộc thống kê và bổ sung nâng số loài của miền Bắc lên 5.609 loài,
1.660 chi và 140 họ (xếp theo hệ thống của Engler), trong đó có 5069 loài thực vật Hạt
Kín và 540 loài các ngành còn lại [30]. Song song với sự thống kê đó ở Miền Bắc từ
1969-1976, Lê Khả Kế (chủ biên) đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ thường thấy ở Việt
Nam” gồm 6 tập đã mô tả rất nhiều loài thực vật có mặt ở Việt Nam [24] và ở Miền
Nam, Phạm Hoàng Hộ trong 2 tập “Cây cỏ ở Miền Nam Việt Nam” giới thiệu 5.326
loài, trong đó có 60 loài thực vật bậc thấp và 20 loài Rêu còn lại 5.246 loài thực vật có
mạch [19].
Để phục vụ công tác khai thác tài nguyên viện Điều tra Qui hoạch Rừng đã công
bố 7 tập “Cây gỗ rừng Việt Nam” (1971 – 1988) giới thiệu khá chi tiết cùng với hình
vẽ minh họa [52], đến năm 1996 công trình này được dịch ra tiếng Anh do Vũ Văn


17
Dũng chủ biên. Trần Đình Lý và tập thể (1993) công bố “1.900 loài cây có ích ở Việt
Nam” [32].
Trong thời gian gần đây hệ thực vật Việt Nam đã được hệ thống lại bởi các nhà
thực vật Liên Xô và Việt Nam và đăng trong Kỷ yếu cây có mạch của thực vật Việt
Nam - Vascular Plants Synopsis of Vietnamese Flora tập 1 - 2 (1996) và Tạp chí Sinh
học số 4 (chuyên đề) 1994 và 1995 [34],[35].
Đáng chú ý nhất phải kể đến bộ “Cây cỏ Việt Nam” của Phạm Hoàng Hộ (19911993) xuất bản tại Cadana với 3 tập, 6 quyển và tái bản năm 2000 đã mô tả được
khoảng 10.500 loài thực vật bậc cao có mạch ở Việt Nam [21]. Có thể nói đây là bộ
sách đầy đủ nhất về thành phần loài thực vật bậc cao ở Việt Nam, tuy nhiên theo tác
giả thì một số loài thực vật ở hệ thực vật Việt Nam có thể lên tới 12.000 loài.
Tiếp theo hàng loạt công trình nghiên cứu về đa dạng thực vật cho các VQG,
các khu bảo tồn thiên nhiên trong đó đặc biệt là những công trình như “Danh lục thực
vật Tây Nguyên” đã công bố 3.754 loài thực vật có mạch do Nguyễn Tiến Bân, Trần

Đình Đại, Phan Kế Lộc chủ biên (1984) [2]; “Danh lục thực vật Phú Quốc” của Phạm
Hoàng Hộ (1985) công bố 793 loài thực vật có mạch trong một diện tích 592 km 2 [20];
Nguyễn Nghĩa Thìn (1996) cùng các cộng sự với các công trình: “Tính đa dạng thực
vật Cúc Phương” đã công bố 1.944 loài thực vật bậc cao [26]; Phan Kế Lộc, Lê Trọng
Cúc (1997) đã công bố 3.858 loài thuộc 1.394 chi, 254 họ trong cuốn “Thực vật Sông
Đà” [29]; Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Thị Thời (1998) đã giới thiệu 2.024 loài
thực vật bậc cao, 771 chi, 200 họ thuộc 6 ngành của vùng núi cao Sa Pa - Phan Si Pan
[37]; Nguyễn Nghĩa Thìn, Mai Văn Phô công bố cuốn "Đa dạng sinh học khu hệ Nấm
và Thực vật ở Vườn Quốc gia Bạch Mã" (2003) [41]; Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn
Thanh Nhàn (2004) [45] đã công bố cuốn “Đa dạng thực vật ở Vườn Quốc gia Pù
Mát”. Nguyễn Nghĩa Thìn (2006) công bố cuốn Đa dạng hệ thực vật ở khu bảo tồn
thiên nhiên Na hang [47]. Đó là những kết quả nghiên cứu trong nhiều năm các tác giả,
nhằm phục vụ cho công tác bảo tồn của các Vườn Quốc gia và Khu bảo tồn ở Việt
Nam.


18
Dựa trên những công trình nghiên cứu trong nước và trên thế giới đã công bố
Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) đã thống kê toàn bộ hệ thực vật Việt Nam bao gồm 11.373
loài thực vật bậc cao trong đó có 10.580 thực vật bậc cao có mạch [36]. Lê Trần Chấn
(1999) với trong công trình “Một số đặc điểm cơ bản của hệ thực vật Việt Nam” đã
công bố 10.440 loài thực vật [10].
Trên cơ sở các công trình nghiên cứu trên để phục vụ cho công tác bảo tồn nguồn
gen thực vật từ năm 1996 các nhà thực vật Việt Nam đã cho xuất bản cuốn “Sách đỏ Việt
Nam” phần thực vật đã mô tả 356 loài thực vật quý hiếm ở Việt Nam có nguy cơ tuyệt
chủng, được tái bản và bổ sung năm 2007 tổng số lên 464 loài thực vật, tăng 108 loài đang
bị đe dọa ngoài thiên nhiên [7].
Hiện nay, các nhà khoa học đang đi theo hướng là nghiên cứu các họ thực vật
dưới dạng thực vật chí các công trình như: Euphorbiaceae của Nguyễn Nghĩa Thìn
(1999,2007) [38],[ 48], Annonaceae của Nguyễn Tiến Bân (2000) [4], Lamiaceae của

Vũ Xuân Phương (2002) [52], Myrsinaceae của Trần Thị Kim Liên (2002) [27],
Apocynaceae của Trần Đình Lý (2005) [33], Verbenaceae (2005) của Vũ Xuân
Phương [50]. Đây là những tài liệu quan trọng nhất làm cơ sở cho việc đánh giá về đa
dạng phân loại thực vật Việt Nam.
Về đa dạng các đơn vị phân loại: Trên phạm vi cả nước Nguyễn Tiến Bân
(1990) đã thống kê và đi đến kết luận thực vật Hạt kín trong hệ thực vật Việt Nam hiện
biết 8.500 loài, 2.050 chi trong đó lớp Hai lá mầm 1.590 chi và trên 6.300 loài và lớp
Một lá mầm 460 chi với 2.200 loài [Theo 47]. Phan Kế Lộc (1998) đã tổng kết hệ thực
vật Việt Nam có 9.628 loài cây hoang dại có mạch, 2.010 chi, 291 họ, 733 loài cây
trồng, như vậy tổng số loài lên tới 10.361 loài, 2.256 chi, 305 họ chiếm 4%, 15% và
57% tổng số các loài, chi và họ của thế giới. Ngành Hạt kín chiếm 92,47% tổng số loài;
92,48% tổng số chi và 85,57% tổng số họ. Ngành Dương xỉ kém đa dạng hơn theo tỷ lệ
6,45%, 6,27%, 9,97% về loài. Ngành Thông đất đứng thứ 3 (0,58%) tiếp đến là ngành
Hạt trần (0,47%) hai ngành còn lại không đáng kể về họ, chi và loài [Theo 30]. Nguyễn
Nghĩa Thìn (1997) đã tổng hợp và chỉnh lý các tên theo hệ thống Brummitt (1992) đã
chỉ ra hệ thực vật Việt Nam hiện biết 11.178 loài, 2.582 chi, 395 họ thực vật bậc cao và


19
30 họ có trên 100 loài với tổng số 5.732 loài chiếm 51,3% tổng số loài của hệ thực vật
[36]. Lê Trần Chấn (1999) với công trình "Một số đặc điểm cơ bản của hệ thực vật
Việt Nam" đã công bố 10.440 loài thực vật [10].
Gần đây tập thể các nhà thực vật Việt Nam đã công bố “Danh lục các loài thực
vật Việt Nam” từ bậc thấp đến bậc cao. Có thể nói đây là công trình tổng hợp đầy đủ
nhất từ trước tới nay và cũng là tài liệu cập nhật nhất. Cuốn sách đã giới thiệu 368 loài
Vi khuẩn lam, 2.200 loài Nấm, 2.176 loài Tảo, 461 loài Rêu, 1 loài Quyết lá thông, 53
loài thông đất, 2 loài Cỏ tháp bút, 691 loài Dương xỉ, 69 loài Hạt trần, và 13.000 thực
vật Hạt kín đưa tổng số các loài thực vật Việt Nam lên trên 20.000 loài [15].
Về đánh giá phân loại theo từng vùng: mở đầu là các công trình của Nguyễn
Nghĩa Thìn(1992 – 1994) về đa dạng thực vật Cúc Phương, tiếp theo là Phan Kế Lộc

(1992) về cấu trúc hệ thực vật Cúc Phương; Lê Trấn Chấn, Phan Kế Lộc, Nguyễn
Nghĩa Thìn, Nông Văn Tiếp (1994) về đa dạng hệ thực vật Lâm Sơn(Hòa Bình).
Đó là những kết quả nghiên cứu trong nhiều năm các tác giả, nhằm phục vụ cho
công tác bảo tồn của các Vườn Quốc gia và Khu bảo tồn ở Việt Nam.
1.3. Nghiên cứu đa dạng thực vật trên núi đá vôi ở Việt Nam
Việt Nam có diện tích rừng và rừng khoảng 19.164.000ha. Trong đó diện tích
núi đá vôi 1.152.500 ha, chiếm 6,01% tổng diện tích đất lâm nghiệp. Núi đá vôi chiếm
một tỷ lệ tương đối lớn phân bố chủ yếu ở khu vực phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Trong
1.152.500 ha núi đá vôi, núi đá vôi có rừng là 396.200 ha và diện tích núi đá vôi không
có rừng là 756.300 ha (theo tài liệu kiểm kê rừng năm 1995 của Viện điều tra quy
hoạch rừng) [52].
Theo thống kê bước đầu trong vùng núi đá vôi hiện có 20 khu rừng đặc dụng
bao gồm: 3 Vườn Quốc gia, 14 khu bảo tồn thiên nhiên, 4 khu bảo tồn di tích lịch sử
văn hoá và môi trường với diện tích là 366.371 ha. Do vậy hệ sinh thái rừng núi đá vôi
đã và đang đóng góp một phần rất quan trọng đối với môi trường, cảnh quan cũng như
nghiên cứu khoa học ở nước ta [40].
Hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi ở Việt Nam đã được nhiều tác giả đề cập đến,
nhưng các tác giả chỉ đề cập theo từng chuyên đề riêng lẻ không tính đến luận chứng


20
kinh tế cũng như khoa học và kỹ thuật để xây dựng các Khu bảo tồn, Vườn Quốc gia
một cách có hệ thống.
Việc nghiên cứu hệ thực vật trên núi đá vôi một cách có hệ thống chưa nhiều,
ngay cả Vườn Quốc gia Cúc Phương từ khi Bác Hồ ký quyết định thành lập Vườn
Quốc gia đầu tiên 1962 đến nay ngoài những tài liệu về thực vật đã được hệ thống một
cách đầy đủ thì chưa có một thống kê nào mang tính hệ thống.
Nguyễn Nghĩa Thìn và các tác giả (1994, 2000, 2003, 2004); Phan Kế Lộc và
cộng sự (1999 - 2001) đã công bố một số công trình về hệ thực vật trên núi đá vôi như
Sơn La, Hòa Bình, Phong Nha-Kẻ Bàng, Ba Bể, Cát Bà, Na Hang... Các tác giả đã

đánh giá về mặt phân loại, về tính đa dạng quần xã thực vật, tổ hợp cấu thành cũng như
yếu tố địa lý và phổ dạng sống [9], [39], [42], [43], [46].
Đặng Quang Châu (1999) [11] với công trình "Bước đầu điều tra thành phần
loài thực vật núi đá vôi Pù Mát - Nghệ An". Tác giả đã thống kê được 154 loài thực vật
thuộc 60 họ, 110 chi (không kể ngành rêu).
Nguyễn Nghĩa Thìn (2001) [40], đã công bố 497 loài thực vật thuộc 323 chi,
110 họ trên núi đá vôi khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mát.
Averyanov và các cộng sự (2005), đã nghiên cứu hệ thực vật Pù Luông, các tác
giả đã đánh giá về đa dạng thảm thực vật và thành phần loài với 152 họ, 477 chi, 1109
loài [1].
Nguyễn Nghĩa Thìn (2006) [47] Với công trình "Nghiên cứu đa dạng thực vật
Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang". Công bố 1.162 loài thuộc 614 chi, 159 họ.
Đỗ Ngọc Đài và cộng sự (2007), khi nghiên cứu hệ thực vật bậc cao có mạch
trên núi đá vôi ở VQG Bến En Thanh Hóa đã xác định được 412 loài [17].
Khi nghiên cứu hệ thực vật trên núi Đông Bắc vùng Nghĩa Đàn, Nguyễn Đức
Linh và cộng sự (2010), đã công bố hơn 300 loài thực vật bậc cao có mạch [28].
1.4. Nghiên cứu đa dạng về phổ dạng sống của hệ thực vật
Dạng sống là một đặc tính biểu hiện sự thích nghi của thực vật với điều kiện
môi trường. Vì vậy, việc nghiên cứu dạng sống sẽ cho thấy mối quan hệ chặt chẽ của


21
các dạng với điều kiện tự nhiên của từng vùng và biểu hiện sự tác động của điều kiện
sinh thái đối với từng loài thực vật.
Trên thế giới, người ta thường dùng thang phân loại của Raunkiaer (1934) [56],
về phổ dạng sống, thông qua dấu hiệu vị trí chồi so với mặt đất trong thời gian bất lợi
của năm. Thang phân loại này gồm 5 nhóm dạng sống cơ bản.
1- Cây có chồi trên đất (Ph)
2- Cây chồi sát đất (Ch)
3- Cây chồi nửa ẩn (Hm)

4- Cây chồi ẩn(Cr)
5- Cây chồi một năm (Th)
Trong đó cây chồi trên đất (Ph) được chia thành 9 dạng nhỏ:
a. Cây gỗ lớn cao trên 30m (Mg)
b. Cây lớn có chồi trên đất cao 8 - 30m (Me)
c. Cây nhỏ có chồi trên đất 2 - 8m (Mi)
d. Cây có chồi trên đất lùn dưới 2m (Na)
e. Cây có chồi trên đất leo cuốn (Lp)
f. Cây có chồi trên đất sống nhờ và sống bám (Ep)
g. Cây có chồi trên đất thân thảo (Hp)
h. Cây có chồi trên đất mọng nước (Suc)
i. Cây có chồi trên đất ký sinh và bán ký sinh (Pp)
Để thuận tiện trong việc so sánh phổ dạng sống giữa các hệ thực vật với nhau,
Raunkiaer (1934) đưa ra một phổ dạng sống chuẩn dựa trên việc tính toán cho hơn
1.000 cây ở các vùng khác nhau trên thế giới:
SB = 48 Ph + 9Ch + 26 He + 8 Cr + 15 Th
Ở Việt Nam, trong công trình nghiên cứu hệ thực vật Bắc Việt Nam, tác giả
Pócs Tamás (1965) [55] đã đưa ra một số kết quả như sau :
- Cây gỗ lớn cao trên 30m (Mg)

4,85%

- Cây lớn có chồi trên đất cao 8 - 30m (Me)

3,80%

- Cây có chồi trên đất lùn dưới 2m (Na)

8,02%



22
- Cây có chồi trên đất leo cuốn (Lp)

9,08%

- Cây có chồi trên đất sống nhờ và sống bám (Ep)

6,45%

- Cây chồi sát đất (Ch)
- Cây chồi nửa ẩn (Hm)

40,68%

- Cây chồi ẩn (Cr)
- Cây chồi một năm (Th)

7,11%

Và phổ dạng sống như sau:
SB = 52,21Ph + 40,68 (Ch,H, Cr) + 7,11Th
Richard [Theo 49] đưa ra phổ dạng sống cho rừng mưa ẩm nhiệt đới:
SB = 88Ph + 12Ch + 0Hm + 0Cr + 0Th
Đối với Vườn Quốc gia Cúc Phương, Phùng Ngọc Lan và các tác giả (1996)
[26], đưa ra phổ dạng sống như sau:
SB = 57,78Ph + 10,46Ch + 12,38Hm + 8,37Cr + 11,01Th
Đối với Vườn Quốc gia Bạch Mã, Nguyễn Nghĩa Thìn, Mai Văn Phô (2003)
[41], đã công bố dạng sống như sau:
SB = 75,71Ph + 5,78Ch + 4,83Hm + 10,23Cr + 3,45Th

Còn ở Vườn Quốc gia Pù Mát, Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Thanh Nhàn
(2004) [45], đã lập được phổ dạng sống :
SB = 78,88Ph + 4,14Ch + 5,76Hm + 5,97Cr + 5,25Th
Năm 2006, Nguyễn Nghĩa Thìn đưa ra phổ dạng sống ở Khu bảo tồn Na Hang
[47].
SB = 70,14Ph + 4,33Ch + 3,50Hm + 11,98Cr + 10,05Th
Từ những dẫn liệu trên cho thấy: Vùng nhiệt đới ẩm đặc trưng bởi sự ưu thế của
nhóm dạng sống cây chồi trên (Ph), điều này cũng phù hợp với những kết quả nghiên
cứu và nhận xét của các tác giả như Raunkiaer (1934), Nguyễn Nghĩa Thìn (1996), Lê
Trần Chấn (1999)…


23
Chương 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Một số đặc điểm tự nhiên – xã hội của huyện Cẩm Thủy
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
a.Vị trí địa lý
Cẩm Thủy là một huyện trung du miền núi nằm ở phía Tây – Bắc của tỉnh thanh
hóa cách thành phố Thanh Hóa 76km.
Diện tích 425,03km2.
Phía Đông giáp huyện Vĩnh Lộc
Phía Bắc giáp huyện Thạch Thành
Phía Tây giáp huyện Bá Thước
Phía Nam giáp huyện Ngọc Lặc và Yên Định
Sơ đồ 1. Vị trí địa lí Huyện Cẩm Thủy.


24
b.Địa hình – địa chất

Địa hình thấp đần theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, độ cao trung bình 200 –
400m so với mặt nước biển, độ dốc trung bình 25 – 30 o, có sông Mã chảy qua dài hơn
40km nên huyện có một nguồn nước lớn phục vụ cho đời sống và sinh hoạt cho nhân
dân.
Cẩm Thủy có địa hình lòng chảo và thấp dần từ phía Tây Nam và Đông Bắc
xuống thung lũng sông Mã, trong đó có đến 80% diện tích là đồi núi. Có các loại đất:
Feralit nâu đỏ, Feralit vàng nhạt, Feralit đỏ vàng… thích hợp cho việc trồng cây lâm
nghiệp, công nghiệp lâu năm, cây hàng năm và hoa màu, có phù sa bồi đắp thích hợp
cho trồng lúa nước.
c. Khí hậu – Thủy văn
Khí hậu nhiệt đới gió mùa, không quá nóng, mưa vừa phải, mà đông lạnh tương
đối khô. Tổng nhiệt độ trong năm 8400 – 8500 oC. nhiệt độ tối thấp tuyệt đối có thể
xuống 2oC, tối cao tuyệt đối có thể tới 38 – 40 oC. Ba tháng có nhiệt độ trung bình dưới
20oC là tháng 12, 01, 02 còn lại là các tháng có nhiệt độ trung bình trên 20oC.
Lượng mưa trung bình năm 1.600 - 1.900 mm. Hàng năm có 10-15 ngày có gió
Tây khô nóng. Sương muối chỉ xảy ra trung bình vào 1 – 3 ngày trong mùa đông.
2.1.2. Kinh tế văn hóa xã hội
Huyện có 19 xã và 01 thị trấn; 201 thôn; có 10 xã vùng cao, với 05 xã đặc biệt
khó khăn thuộc chương trình 135 của chính phủ, trong đó có xã Cẩm Lương.
Dân số: 113.580 người (đến 01/4/2009), có 3 dân tộc anh em sinh sống: Mường
(52,4%), Kinh (44,5%), Dao (2,9%), còn lại là các dân tộc khác.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2006 – 2010 đạt 10,7%.
Cơ cấu kinh tế:
Nông – Lâm – Thủy sản: 54,4%.
Công nghiệp và xây dựng cơ bản: 11,6%
Dịch vụ: 34%
Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt 7,45 triệu đồng. tỉ lệ hộ nghèo
giảm 4%/năm, hiện còn 28,9%.



25
Toàn huyện có 72 trường học ở các cấp học phổ thông, trong đó có 03 trường
THPT, 01 trung tâm Giáo dục thường xuyên, 01 trung tâm dạy nghề, 10 trường đạt
chuẩn quốc gia (02 trướng THCS, 07 trường Tiểu học, 01 trường Mầm non), có 03
trường cận chuẩn. chất lượng học sinh ngày càng nâng cao.
Y tế: có một bệnh viện đa khoa, 01 trung tâm y tế dự phòng, 02 phòng khám đa
khoa và 20 trạm y tế xã, thị trấn (có 10 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế).
Trong báo cáo tóm tắt kinh tế xã hội huyện Cẩm Thủy năm 2007 với phó thủ
tướng Trương Vĩnh Trọng ngày 13/7/2007, huyện đã đưa ra một số chỉ tiêu quan trọng
trong việc phát triển suối cá Cẩm Lương, đó là “Tập trung huy động các nguồn lực,
đầu tư phát triển và xây dựng các công trình trọng điểm phục vụ sản xuất; phát triển
mạnh các loại hình dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ du lịch suối cá Cẩm Lương”. Huyện còn
đề nghị, kiến xuất lên Chính phủ “Hổ trợ đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng đồng
thời bảo tồn khu du lịch suối cá thần Cẩm Lương”.
2.2. Một số đặc điểm tự nhiên – xã hội xã Cẩm Lương
2.2.1. Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý
Cẩm lương là một xã đặc biệt khó khăn nằm ở phía tây huyện cẩm thủy, cách thị
trấn huyện 12km. tổng diện tích tự nhiên1594,81 ha. Trong đó chiếm 2/3 là đồi núi đá
có cây. Đất sản xuất nông nghiệp 250 ha. Đất rừng đầu nguồn bảo vệ suối cá thần
363,96 ha. Đất quy hoạch suối cá 22 ha.
Phía bắc, tây bắc, đông bắc là dãy núi đá vôi và đất lâm nghiệp bao quanh giáp
lương trung- Bá Thước và xã Cẩm Quý.
Phía tây nam, nam, đông nam là dòng sông mã cắt ngang, chia tách cách ly với
vùng lân cận giáp xã Cẩm Thành, Cẩm Thạch, Cẩm Bình, Cẩm Giang.
b. Địa hình
Là một vùng gò đồi nên có địa hình khá đặc trưng. Trong xã có kiểu địa hình
núi đá chạy suốt từ đầu xã đến cuối xã; núi, đối đất xen kẽ bải bằng, thung lũng. Địa
hình thấp dần xuống thung lũng sông Mã theo hướng Tây bắc - Đông nam, độ cao
trung bình 200 - 400 m, độ dốc trung bình 25 - 300.



×