I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
V VN T
NGUYÊN TắC BảO ĐảM QUYềN BìNH ĐẳNG CủA MọI CÔNG DÂN
TRƯớC PHáP LUậT THEO LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2015
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
V VN T
NGUYÊN TắC BảO ĐảM QUYềN BìNH ĐẳNG CủA MọI CÔNG DÂN
TRƯớC PHáP LUậT THEO LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04
LUN VN THC S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: GS. TS NGC QUANG
H NI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Vũ Văn Tú
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO
ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN
TRƯỚC PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............... 5
1.1.
Những khái niệm có liên quan ...................................................... 5
1.1.1.
Khái niệm bình đẳng và quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật ................................................................................ 5
1.1.2.
Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật .......................................................................... 9
1.2.
Cơ sở pháp lý và nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền
bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng
hình sự.......................................................................................... 13
1.2.1.
Cơ sở pháp lý hình thành nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự ................ 13
1.2.2.
Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự .............................. 16
Chương 2: TÌNH HÌNH XÂY DỰNG VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ THEO NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN TRƯỚC
PHÁP LUẬT................................................................................ 25
2.1.
Tình hình xây dựng pháp luật tố tụng hình sự theo nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật ........25
2.1.1.
Những kết quả trong xây dựng pháp luật tố tụng hình sự có liên
quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật ........ 25
2.1.2.
Những tồn tại trong xây dựng pháp luật tố tụng hình sự có liên
quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật .... 36
2.2.
Tình hình thực thi pháp luật tố tụng hình sự theo nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật..... 43
2.2.1.
Những kết quả trong thực thi pháp luật tố tụng hình sự có liên
quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật .... 43
2.2.2.
Những tồn tại trong thực thi pháp luật tố tụng hình sự có liên
quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật .... 46
2.2.3.
Những nguyên nhân gây nên những tồn tại trong thực hiện
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước
pháp luật........................................................................................ 55
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
CỦA MỌI CÔNG DÂN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT .....59
3.1.
Quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước về thực hiện
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật theo tinh thần cải cách tư pháp ....................... 59
3.2.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự liên quan
đến nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật..................................................................... 61
3.3.
Các giải pháp khác ...................................................................... 66
KẾT LUẬN ................................................................................................. 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 74
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ Luật hình sự
BLTTHS:
Bộ Luật tố tụng hình sự
VKSNDTC:
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1. Số lượng vụ án hình sự được điều tra, truy tố,
xét xử từ năm 2010 đến 2014
43
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Điều 14 Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (International
Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR) đã ghi nhận:
Mọi người đều bình đẳng trước các tòa án và cơ quan tài
phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai
bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập
ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong
các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó
trong các vụ kiện dân sự… [10].
Đây là cơ sở cao nhất về quyền bình đẳng trước pháp luật được ghi nhận
trong một trong những văn kiện quốc tế nền tảng về quyền con người. Trong
pháp luật Việt Nam, quyền bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động tố tụng
hình sự là một nội dung của quyền bình đẳng trước pháp luật - một quyền đã
được Hiến pháp Việt Nam ghi nhận tại Khoản 1 Điều 16 Hiến pháp năm
2013. Quyền bình đẳng trước pháp luật và cụ thể là bình đẳng trong hoạt động
xét xử và tố tụng hình sự được hiểu là quyền bình đẳng trong việc đưa ra các
chứng cứ, đưa ra các yêu cầu tranh luận trước tòa án và phải được tòa án tôn
trọng, tạo điều kiện. Điều 19 Bộ luật Tố tụng hình sự (Bộ luật TTHS) quy
định về bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án như sau:
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án.
Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó
nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án [17, Điều 19].
1
Để bảo đảm được quyền bình đẳng trước tòa án, trong quá trình xét xử, người
tiến hành tố tụng phải thực sự khách quan, điều khiển phiên tòa đúng quy định
của pháp luật, không được thiên vị hay gây trở ngại cho bất cứ bên nào. Tuy
nhiên những vụ việc gây xôn xao dư luận gần đây liên quan tới hành vi vi
phạm nguyên tắc hiến định này trong hoạt động tố tụng hình sự cho thấy thực
tiễn thực thi và kiểm sát tư pháp liên quan tới nguyên tắc này hiện nay vẫn còn
nhiều bất cập, chưa thực sự tạo ra niềm tin, tính thuyết phục của các phán quyết
của cơ quan xét xử và thực thi pháp luật. Với lý do trên, tác giả mạnh dạn lựa
chọn đề tài luận văn: “Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số
liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”, để tiến hành nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan tới nguyên tắc bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
trong tố tụng hình sự, có thể kể tới một số công trình nghiên cứu khoa học có
ý nghĩa lý luận như: Luận án Tiến sĩ Luật học “Nguyên tắc tranh tụng trong tố
tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn
Văn Hiển, Học viện Khoa học xã hội, năm 2011; Luận án Tiến sĩ Luật học
“Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trong xét xử hình sự ở Việt Nam
hiện nay” của TS. Hoàng Hùng Hải, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2012; Luận văn Thạc sĩ Luật học “Địa vị pháp lý của
người bào chữa trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận
và thực tiễn” của TS Đỗ Đình Nghĩa, năm 2004…cùng nhiều công trình
nghiên cứu có giá trị khác.
Tuy nhiên, thực tế các công trình nghiên cứu trực tiếp về nguyên tắc
bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự hiện này còn hiếm
hoi, cơ sở dữ liệu lí luận và thực tiễn còn hạn chế nên phạm vi nghiên cứu của
đề tài sẽ góp phần đào sâu các nội dung lí luận liên quan để bổ sung vào kho
lí luận phong phú trong lĩnh vực tố tụng hình sự Việt Nam.
2
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các khía cạnh lí luận về nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam thông qua quá trình phân tích, làm rõ nội dung nguyên
tắc trong từng giai đoạn tố tụng, áp dụng với từng đối tượng chủ thể tham gia
tố tụng, các quy định pháp luật cụ thể được áp dụng trong quy trình tố tụng.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu và tham khảo các ví dụ thực tiễn liên quan, các
trường hợp vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc “bảo vệ quyền bình đẳng của
mọi công dân trước pháp luật” trong quá trình tiến hành tố tụng cũng là một
mục đích của luận văn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hoá các công trình khoa học của các
tác giả đi trước có liên quan đến đề tài luận văn, tác giả kế thừa có chọn lọc và
phát triển ý tưởng khoa học, từ đó đưa ra những luận điểm của mình về vấn
đề nghiên cứu. Nhiệm vụ nghiên cứu mà luận án hướng tới cụ thể sau:
Một là, làm rõ những nội hàm lí luận của nguyên tắc “bảo vệ quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Hai là, phân tích và làm rõ thực tiễn tố tụng áp dụng nguyên tắc “bảo
vệ quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật”.
Ba là, trên cơ sở lí luận và thực tiễn để khái quát các nội dung liên quan
và đề xuất các cơ chế để thực hiện nghiêm túc nguyên tắc “bảo vệ quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam thời gian tới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các lí luận về nguyên tắc “bảo vệ quyền
bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự.
Đồng thời, luận văn cũng nhấn mạnh những quy định pháp luật tố tụng hình
3
sự liên quan tới các nội dung của nguyên tắc “bảo vệ quyền bình đẳng của
mọi công dân trước pháp luật”.
3.4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin và quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp
nghiên cứu luật học truyền thống như phương phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, tư
duy logic, phương pháp quy nạp, diễn giải… nhằm làm sáng tỏ nội dung và
phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Với cơ sở và thành quả lí luận và thực tiễn được nghiên cứu, luận văn
mong muốn đóng góp những kết quả khái qua tổng quan cũng như cung cấp
những khía cạnh lí luận mới liên quan tới nguyên tắc “bảo vệ quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu khoa học
tham khảo, tài liệu giảng dạy hoặc cơ sở tham khảo phục vụ công tác nghiên
cứu khoa học hoặc tham vấn lập chính sách và xây dựng pháp luật.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
có 3 chương:
Chương 1.
Những vấn đề chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự.
Chương 2. Tình hình xây dựng và thực thi pháp luật tố tụng hình sự
theo nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật.
Chương 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
trong tố tụng hình sự.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN
TRƯỚC PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Những khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm bình đẳng và quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật
Bình đẳng trước pháp luật là những nguyên lý của pháp luật được thể
hiện qua các quy phạm pháp luật về quyền được đối xử một cách như nhau,
công bằng giữa mọi công dân trước pháp luật, theo đó, mọi công dân thuộc
các dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội khác nhau trong
một quốc gia đều không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, nghĩa vụ
và chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.
Lý tưởng bình đẳng dựa trên nguyên lý căn bản là con người sinh ra
đều như nhau, đều có chung dòng máu đỏ và nước mắt mặn và đều xứng đáng
được hưởng quyền lợi như nhau. Mọi ranh giới như: giai cấp, màu da, chủng
tộc, giới tính, trình độ, địa vị … không thể quyết định và thay đổi bản chất
bình đẳng giữa mọi người. Qua đó cho thấy “bình đẳng” là một nguyên lý căn
bản được chấp nhận bởi mọi quốc gia, mọi dân tộc. “Bình đẳng” là một khái
niệm chung của cả nhân loại, nó hướng đến việc khẳng định quyền lợi ngang
nhau của mọi người, mọi đối tượng, mọi nhóm người trong xã hội. Bình đẳng
là mục tiêu phấn đấu của mọi dân tộc, mọi xã hội tiến bộ và là lý tưởng chung
của mọi cuộc cách mạng trên thế giới. Bình đẳng có nghĩa là bình đẳng về cơ
hội, nghĩa là mọi người đều được tạo một cơ hội như nhau để phấn đấu và
vươn lên trong xã hội, nếu ai nỗ lực nhiều hơn, học giỏi hơn, làm việc hiệu
quả hơn, tất nhiên sẽ thu được nhiều lợi ích hơn. Hơn nữa, bình đẳng cũng
5
bao gồm cả việc tạo điều kiện cho những nhóm người có khó khăn hơn như
người nghèo, người già, trẻ em, người tàn tật, dân tộc thiểu số, người ở vùng
sâu vùng xa… giảm bớt những khó khăn của họ. Bình đẳng, là nền tảng, cơ sở
và là nguyên lý cơ bản của mọi thiết chế xã hội, mọi quy định, luật lệ. Xã hội
càng tiến bộ thì tính bình đẳng giữa mọi công dân càng cao. Trong một xã hội
dân chủ pháp trị, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, kể cả tổng
thống, nếu vi phạm pháp luật cũng phải ra tòa như một thường dân. Bình đẳng
là mục tiêu ban đầu và lâu dài của mọi nỗ lực xây dựng xã hội, là thước đo
trình độ văn minh và tiến bộ của một đất nước. Theo Ths. Đinh Thế Hưng Viện Nhà nước và Pháp luật, bình đẳng là cội nguồn của tự do còn pháp luật
là sự giới hạn cần thiết cho cả tự do và bình đẳng. Bình đẳng được xét dưới
hai góc độ là bình đẳng thực tế và bình đẳng pháp lý. Mác đã nói: “Về bản
chất, pháp luật chỉ có thể là sự vận dụng một đại lượng ngang bằng với
những người khác nhau”. Đại lượng ngang bằng ở đây là pháp luật. Bởi lẽ,
các giá trị về bình đẳng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống được xã hội thông
qua nhà nước và thể chế hóa thành pháp luật. Trong cùng một điều kiện như
nhau, công dân được hưởng quyền và nghĩa vụ như nhau, có tư cách pháp lý
như nhau. Bình đẳng về trách nhiệm pháp lí là bất kỳ công dân nào vi phạm
pháp luật đều bị xử lí bằng các chế tài theo quy định của pháp luật. Như vậy
có thể hiểu, bình đẳng là sự ngang nhau về quyền và nghĩa vụ của mọi công
dân trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Khi nói đến quyền bình đẳng của mọi công dân là nói đến sự ghi nhận
quyền này trong pháp luật. Pháp luật trở thành thước đo mang tính chuẩn mực
cho sự bình đẳng bởi đỉnh cao nhất của các hệ thống lập pháp quy gọn vào hai
mục tiêu: Tự do và bình đẳng. Quyền bình đẳng là thành quả đấu tranh lâu dài
của nhân loại tiến bộ qua các thời kì lịch sử khác nhau, là một quyền cơ bản
của mọi công dân, cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản được thể chế
6
hóa trong nhiều văn kiện quốc tế và quốc gia. Điều 6 và Điều 7 Tuyên ngôn
nhân quyền năm 1948 tuyên bố “Mọi người đều có quyền được công nhận tư
cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi”. “Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có
bất cứ sự phân biệt nào”. Điều 26 Công ước về quyền dân sự, chính trị năm
1966 của Liên Hợp quốc (Việt Nam gia nhập Công ước này ngày 24/9/1982)
cụ thể hóa hơn về cơ chế bảo vệ quyền bình đẳng trước pháp luật như sau:
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được
pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân
biệt đối xử nào. Về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự
phân biệt đối xử và đảm bảo cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và
có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da,
giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm
khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân
hoặc các địa vị khác [10, Điều 26].
Dưới góc độ pháp lý, quyền con người trong đó có quyền bình đẳng trước
pháp luật là một quan hệ pháp luật mà mỗi bên tham gia quan hệ đó đều có
quyền và nghĩa vụ pháp lý. Quan hệ về bình đẳng chỉ được xác lập trên cơ sở
của tự do và tự nguyện. Khi giải thích về quyền bình đẳng trước pháp luật, Lênin
cho rằng: “Khi những người theo chủ nghĩa xã hội nói về bình đẳng thì có nghĩa
là sự bình đẳng mang tính xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội chứ không phải sự
bình đẳng về khả năng thể chất hoặc tinh thần”. Từ đó có thể thấy, quyền bình
đẳng trước pháp luật là quyền tự nhiên của con người trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và nó phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật.
Ở Việt Nam, câu đầu tiên trong Tuyên ngôn độc lập của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền
bình đẳng”. Ý tưởng về sự bình đẳng này được trích dẫn từ tuyên ngôn độc
7
lập của Mỹ và Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng
Pháp. Thực tế, quyền bình đẳng trước pháp luật được ghi nhận nhất quán
trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992 – đạo luật có giá trị
pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp lý Việt Nam. Điều 6, 7 Hiến pháp năm
1946 – bản hiến pháp đầu tiên sau ngày độc lập với nhiều tư tưởng lập hiến
tiến bộ của Hồ Chủ tịch có quy định:
Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương
diện: chính trị, kinh tế, văn hóa”. “Tất cả công dân Việt Nam đều bình
đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc
kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình [13, Điều 6,7].
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 tiếp tục khẳng định “Công dân
có quyền bình đẳng trước pháp luật” (Điều 51). Trước xu thế hội nhập quốc tế,
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã được sửa đổi, bổ sung phù hợp, với những
điểm mới quan trọng, nổi bật là đề cao quyền con người. Cụ thể Hiến pháp sửa
đổi năm 2013 đã quy định quyền con người tách khỏi quyền công dân và được
quy định tại Chương II - Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Theo đó, nội dung của nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật được quy
định tại Điều 16 “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân
biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
So với các quy định của các bản Hiến pháp trước đây thì quy định Hiến
pháp sửa đổi năm 2013 về quyền bình đẳng trước pháp luật được thể hiện đầy
đủ, cụ thể hơn. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 khẳng định bình đẳng trước pháp
luật là quyền con người theo hướng mở rộng đối tượng có quyền bình đẳng
trước pháp luật; khẳng định quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi người
được công nhận trong tất cả lĩnh vực, bao gồm đời sống chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, không phân biệt đối
xử đối với mọi người trong việc hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ
8
do “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác” (Điều 15 khoản
2). Công dân ở bất kỳ địa vị nào dù là cán bộ, công chức hay người lao động,
dù là người có chức, có quyền hay là một người dân bình thường đều phải
chịu trách nhiệm trước nhà nước, trước pháp luật về mỗi hành vi, mỗi việc
làm của mình. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật. Công
dân có hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý bằng các chế tài theo quy định
của pháp luật không phân biệt chức vụ, nghề nghiệp, tuổi tác và địa vị xã hội.
Như vậy, quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật là bình
đẳng về quyền, nghĩa vụ của công dân theo quy định của pháp luật, bao hàm
cả việc bình đẳng về trách nhiệm pháp lý của công dân mà không có sự phân
biệt về giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, lứa
tuổi, chức vụ, nghề nghiệp.
1.1.2. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật
Nguyên tắc, theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là “những quy định,
phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở để làm việc, xem xét” [26]. Tuy nhiên nguyên
tắc trong tố tụng còn có những cách hiểu khác nhau. Có quan điểm cho rằng:
Những nguyên tắc của luật tố tụng hình sự là kinh chỉ nam
cho mọi hoạt động tố tụng và được quy định trực tiếp trong Bộ luật
tố tụng hình sự. Chính vì vậy, nói đến nguyên tắc của luật tố tụng
hình sự phải hiểu đó là những nguyên tắc của một ngành luật độc
lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Những nguyên tắc này
không chỉ định hướng cho hoạt động tố tụng hình sự, mà còn cho
hoạt động xây dựng pháp luật tố tụng hình sự trong thực tiễn [24].
Do vậy, trong các giáo trình Luật tố tụng hình sự của một số trường
luật và khoa luật đều đặt với cái tên là: "Những nguyên tắc cơ bản của Luật tố
tụng hình sự.
9
Quan điểm khác không đồng ý với nội dung của quan điểm thứ nhất về
cách gọi những nguyên tắc này là:
Những nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, mà là Những
nguyên tắc của tố tụng hình sự, với lý do, trong thực tiễn và ngay cả
trong sách báo pháp lý, cho đến nay vẫn không ít người sử dụng
khái niệm các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự. Sự nhầm lẫn này
bắt nguồn từ việc coi tố tụng hình sự và pháp luật tố tụng hình sự là
một. Trong lúc đó thì chính nguyên tắc tố tụng hình sự lại chính là
tiền đề, là căn cứ để xây dựng luật pháp tố tụng hình sự chứ không
phải ngược lại [24].
Như vậy, đang tồn tại hai cách hiểu về "Những nguyên tắc cơ bản"
được quy định tại Chương 2 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, để hiểu như
thế nào cho đúng về hệ thống những nguyên tắc cơ bản này cần thiết xác định
vị trí của các điều luật này trong Bộ luật tố tụng hình sự, với tư cách là một
văn bản pháp luật nói chung. Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai vì,
trước tiên, nguyên tắc là những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở để
làm việc, xem xét. Những nguyên tắc trong pháp luật bao giờ cũng là sự thể
hiện hệ thống quan điểm của nhà nước về pháp luật nói chung. Dựa trên
những quan điểm này, các quy phạm pháp luật trong một văn bản luật được
soạn thảo nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Tiếp theo, hoạt động tố tụng hình sự và pháp luật tố tụng hình sự là hai
phạm trù khác nhau. Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm hoạt động khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự của những người tiến hành tố tụng. Còn
pháp luật tố tụng hình sự là hệ thống những văn bản pháp luật tố tụng bao
gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những hành vi tố tụng của những
người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Điều đó có nghĩa rằng, hệ thống
10
những nguyên tắc cơ bản này có ý nghĩa trong xây dựng các quy phạm pháp
luật tố tụng hình sự và có ý nghĩa trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung.
Cho nên, đây thực chất là những nguyên tắc trong tố tụng hình sự.
Cuối cùng, theo lý luận chung về pháp luật thì một văn bản luật (đạo
luật) chứa đựng nhiều quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh một hoặc một
nhóm quan hệ xã hội có những đặc điểm chung giống nhau. Như vậy, một
trong những vấn đề cốt lõi nhất của quy phạm pháp luật nói chung là phải có
khả năng điều chỉnh quan hệ xã hội thông qua các hành vi của các chủ thể mà
pháp luật điều chỉnh. Do vậy, văn bản luật phải chứa đựng trong mình tính bắt
buộc phải thực hiện nhằm mục đích ngăn ngừa, răn đe, trừng phạt đối với
những hành vi vi phạm pháp luật. Nếu những quy định trong một văn bản
pháp luật không thoả mãn những yêu cầu trên và không có khả năng điều
chỉnh những hành vi nhất định thì văn bản pháp luật đó thiếu tính khả thi và
không thể áp dụng được trong thực tế cuộc sống. Điều đó có nghĩa rằng, trước
khi xây dựng các quy phạm pháp luật trong một đạo luật nói chung, các nhà
làm luật phải đưa ra được những tiêu chí cần phải đạt được của văn bản luật
đó như: mục đích, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương châm, phương pháp điều
chỉnh v.v…, hay còn gọi là đưa ra những nguyên tắc để xây dựng quy phạm
pháp luật trong một văn bản pháp luật. Cho nên có thể hiểu, các nguyên tắc
cơ bản của tố tụng hình sự là sự thể hiện quan điểm, đường lối và chính sách
của Nhà nước ta; là những định hướng cơ bản trong xây dựng và áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự nhằm hoàn thiện quá trình tố tụng hình sự từ khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, được vận hành một cách thống
nhất, đồng bộ trong phạm vi toàn quốc, đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tổ chức, động viên
được các cơ quan khác của Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự nói
riêng và cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
11
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được đưa ra làm
định hướng cho việc xây dựng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và
thực thi các quy phạm pháp luật này trong thực tiễn liên quan đến quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nguyên tắc này thể hiện sự bình đẳng về các
quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mọi công dân trước nhà nước, pháp luật,
là một trong những quyền tắc của nền dân chủ. Trong hoạt động tố tụng hình
sự, quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật được chi phối toàn bộ
quá trình tố tụng hình sự, từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử vụ án hình sự
liên quan đến các chủ thể tố tụng hình sự (cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng) khi phát sinh và giải quyết vụ án
hình sự. Hay nói cách khác, nguyên tắc này bảo đảm cho việc thi hành
nghiêm chỉnh pháp luật tố tụng hình sự đối với mọi công dân, không phân
biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội và
không loại trừ bất kỳ một đối tượng, chủ thể phạm tội hình sự nào không phải
theo đuổi quá trình tố tụng hình sự theo quy định pháp luật. Người phạm tội
phải bị xử lý theo pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn
giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Có thể về trình tự, mỗi vụ án và mỗi
chủ thể có thể có những điểm đặc thù về trình tự tố tụng, có thể được rút ngắn
một hoặc một vài giai đoạn (tố tụng rút gọn) nhưng về cơ bản bất kỳ người
phạm tội hình sự phải bị xét xử theo một trình tự tố tụng hình sự luật định.
Mặt khác, nguyên tắc bảo đảm mọi công dân bình đẳng trước pháp luật
điều chỉnh toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm
cho những người tham gia tố tụng có cùng tư cách pháp lý có quyền bình
đẳng trước pháp luật về quyền và nghĩa vụ pháp lý ngang nhau, không phân
biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội.
Sự bình đẳng đối với các vụ án hình sự cũng như những cá nhân, tổ chức có
12
liên quan trong một vụ án hình sự còn thể hiện ở việc áp dụng một quy trình
giải quyết vụ án hình sự thống nhất theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự.
Như vậy, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước
pháp luật là tư tưởng chủ đạo chi phối toàn bộ hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án hình sự phải
bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân
tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội, bất cứ
người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.
1.2. Cơ sở pháp lý và nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự
1.2.1. Cơ sở pháp lý hình thành nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự
Cơ sở, theo Từ điển tiếng Việt, là nền tảng để tồn tại và phát triển. Cơ sở
pháp lý là nền tảng pháp lý để xây dựng các quy phạm pháp luật. Nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình
sự cũng được xây dựng trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong
xây dựng các văn bản pháp luật nói chung và Luật tố tụng hình sự nói riêng.
Thắng lợi của cuộc cách mạng dân chủ nhân dân vào Tháng Tám năm
1945 đưa đến việc hình thành Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) là Nhà nước Công nông
đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long
trọng đọc bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố: “Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả
mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên
ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất
cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
13
sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và
bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền
lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Có thể nói bản tuyên ngôn
độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên đọc vào ngày 2/9/1945, mặc dù
không phải là văn bản pháp luật, nhưng là lời tuyên bố chính thức của Nhà
nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa trước toàn thể thế giới rằng, nước Việt
Nam là một nước độc lập và mọi người dân Việt Nam được sinh ra đều có
quyền bình đẳng, ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ như người dân của các
nước khác trên thế giới.
Để khẳng định bản chất của nhà nước công nông, Hiến pháp năm 1946,
văn bản pháp luật cao nhất của Nhà nước Việt Nam, đã quy định về quyền
bình đẳng của mọi người dân Việt Nam rằng:
Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền
binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân
biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo. Tất cả công
dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh
tế, văn hoá. Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp
luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ
theo tài năng và đức hạnh của mình. Đàn bà ngang quyền với đàn
ông về mọi phương diện [13].
Trên cơ sở Hiến pháp 1946, các Hiến pháp tiếp theo vào các năm 1959,
1980, 1992 và 2013 của Nhà nước Việt Nam tiếp tục khẳng định lại quan
điểm mọi người dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật. Ví dụ, Điều 22,
Điều 24 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà đều bình đẳng trước pháp luật. Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị,
14
kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình” [14]. Điều 54 và Điều 55 Hiến pháp
1980 quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Quyền của
công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các
quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà
nước và xã hội” [15].
Điều 51 và Điều 52 Hiến pháp 1992 quy định:
Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn
nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ
của công dân do Hiến pháp và luật quy định. Mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật [18].
Hiến pháp năm 2013 quy định:
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội [21].
Như vậy, cơ sở pháp lý để xây dựng nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự đều xuất phát
trên cơ sở những quy định Hiến pháp (Hiến định) với tư cách đạo luật cơ bản
của nhà nước ta trong các thời kỳ khác nhau để xây dựng những quy phạm
pháp luật tố tụng hình sự trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự mà điển
hình nhất là Bộ luật tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 là Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của
Nhà nước ta được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 1980. Tại Điều 4 của Bộ
luật tố tụng hình sự này quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
15
công dân trước pháp luật với nội dung: “Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên
tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam nữ, dân
tộc, tín ngưỡng tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội
đều bị xử lý theo pháp luật” [16]. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 tiếp tục
quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp
luật cũng với nội dung, mặc dù câu chữ có được bổ sung, hoàn chỉnh: “Tố tụng
hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội,
địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật” [20].
Điều này cho thấy, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật trong tố tụng hình sự được xây dựng có căn cứ pháp lý là được
coi là phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự và
được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận.
1.2.2. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự
Điều 5 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 với tên gọi: Bảo đảm quyền
bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật và với nội dung:
Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật,không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người
nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật [20, Điều 5].
Theo Điều luật này, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp có hai nội dung chính: Tố tụng hình sự được tiến hành theo
nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; và tố tụng hình sự
được tiến hành với bất cứ người nào phạm tội để xử lý theo pháp luật.
Tuy nhiên, để hiểu rõ nội dung của nguyên tắc này cần hiểu rõ những
nội dung khác liên quan như: những vấn đề thuộc tố tụng hình sự và chủ thể
16
tiến hành tố tụng hình sự; tại sao tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và mục tiêu của tố tụng hình sự
tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật là gì.
Điều 5 BLTTHS hình sự quy định: Tố tụng hình sự tiến hành theo
nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Như vậy, tố tụng
hình sự là gì. Thực ra, tố tụng hình sự là thủ tục, hay cách thức tiến hành giải
quyết vụ án hình sự. Khác với các hình thức tố tụng khác, tố tụng hình sự là
hình thức tố tụng do cơ quan nhà nước, mà cụ thể là cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng tiến hành để truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người đã gây nên những thiệt hại cho quyền lợi của nhà nước, xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bằng việc điều tra, xử lý về hình sự
đối với bất kỳ hành vi phạm tội của cá nhân nào. Do vậy, tố tụng hình sự
được phát sinh khi có sự gây thiệt hại đến mức phải xử lý về hình sự đối với
người có hành vi xâm hại vào quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội
và công dân.
Đối với hình thức tố tụng khác (dân sự, kinh tế, hành chính…) được
phát sinh chỉ khi có những tranh chấp giữa các bên có lợi ích hợp pháp khác
nhau cần phải được phân giải. Các chủ thể những tranh chấp này không tự
mình giải quyết được mà cần thiết phải có sự can thiệp của cơ quan tài phán
(toà án). Trên cơ sở nội dung tranh chấp về lợi ích và quy định của pháp luật
hiện hành, hoạt động tố tụng hướng vào việc phân định đúng sai để đưa ra các
quyết định phù hợp với quy định của pháp luật. Thế nhưng, đối với tố tụng
hình sự, không chỉ đơn thuần là việc việc giải quyết tranh chấp, mà Nhà nước
có trách nhiệm đứng ra giải quyết trên cơ sở pháp luật về bảo vệ quyền lợi của
nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức khi có
hành vi xâm phạm vào quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, gây nên
những thiệt hại nhất định theo quy định của pháp luật hình sự. Cơ quan điều
17
tra được Nhà nước giao nhiệm vụ thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và
người phạm tội; Viện Kiểm sát được nhà nước giao nhiệm vụ thực hành
quyền công tố, buộc tội đối với người phạm tội và Toà án với tư cách là một
bộ phận của cơ quan quyền lực tư pháp đưa ra kết luận cuối cùng về tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi, loại và mức hình phạt cần được áp dụng với
người thực hiện hành vi nguy hiểm đó. Những quyết định trong bản án của
Toà án đều nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có tính
cưỡng chế nhà nước. Do vậy, hoạt động tố tụng hình sự chỉ được phát sinh
khi có sự gây thiệt hại đến mức phải xử lý về hình sự đối với người có hành vi
xâm hại vào quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân.
Do tố tụng hình sự đụng chạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, xã hội và công dân mà hoạt động tố tụng hình sự đòi hỏi phải
là hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Chính pháp luật nói chung và
pháp luật tố tụng hình sự nói riêng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động tố tụng
hình sự. Hoạt động của các chủ thể tố tụng hình sự phải tuân theo những quy
định của Hiến pháp, pháp luật. Chỉ khi tuân theo pháp luật mới có thể giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt
động tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng là đặc biệt quan trọng
không chỉ có ý nghĩa xử lý công bằng vụ án hình sự, mà còn tạo dựng lòng tin
của nhân dân và xã hội vào hệ thống các cơ quan tư pháp. Mặt khác, hoạt
động tố tụng hình sự phải tuân thủ những quy tắc, trình tự rất chặt chẽ từ khi
bắt đầu cho đến khi kết thúc.
Những quy tắc, trình tự này được thể chế hoá bằng các quy phạm pháp
luật tố tụng hình sự trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ tố tụng hình sự phải được tuân thủ một cách
nghiêm chỉnh mới đảm bảo thể hiện rõ đặc tính quyền lực nhà nước thực sự
dân chủ, làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án hình sự một cách chính xác và
18