Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Thực trạng và giải pháp cho chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.35 KB, 61 trang )

B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................1
CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI........................... 3
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại ............................................................3
1.2. Chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương
mại.........................................................................................................................12
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG TỈNH HƯNG YÊN.......................................................................... 27
2.1. Khái quát về Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên.................................27
2.2. Thực trạng chất tín dụng với DNVVN của Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng
Yên........................................................................................................................ 31

Chương III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN
HÀNG CÔNG THƯƠNG HƯNG YÊN........................................... 43
3.1. Định hướng phát triển và quan điểm nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân
hàng Công thương tỉnh Hưng Yên....................................................................... 43
3.2. Giải pháp tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNVVN tại Ngân
hàng Công thương tỉnh Hưng Yên....................................................................... 43
3.3. Một số kiến nghị nhằn nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa
và nhỏ....................................................................................................................54
KẾT LUẬN..........................................................................................................59

SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
1




B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự ra đời và phát triển của thị trường Tài chính ở nước ta, các
Ngân hàng thương mại (NHTM) đang từng bước thể hiện vai trò không thể thiếu
của mình trong nền kinh tế. Sự lựa chọn đầu tiên của các tổ chức cá nhân khi thiếu
vốn là tìm tới các NHTM, vì vậy mà hoạt động của các NHTM có ảnh hưởng rất to
lớn tới hoạt động cũng như sự phát triển của các tổ chức kinh tế khác trong nền
kinh tế.
Một thành phần kinh tế cơ bản trọng yếu trong nền kinh tế nữa đó là Doanh
nghiệp, cụ thể là Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Đặc điểm nổi bật của các
Doanh nghiệp này đó là sự tích luỹ các yếu tố sản xuất rất phù hợp với tình hình
nước ta hiện nay.
Có thể nói, hai tổ chức kinh tế này đang là hai cực lam châm của nền kinh tế
Việt Nam. Với đặc điểm bẩm sinh của mình, các DNVVN không thể không quan
hệ vay vốn với các NHTM. Ngược lại, nó cũng là Khách hàng thường xuyên của
các NHTM.
Như vậy là mối quan hệ giữa hai thành phần kinh tế này là rất đáng quan
tâm. Ở đây là quan hệ tín dụng, quan hệ cung cấp và tiếp nhận vốn kinh doanh.
Chất lượng tín dụng đối với các DNVVN từ trước tới nay luôn được các NHTM
quan tâm hàng đầu.
Trước thực tế đó, trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Công thương Hưng
Yên, ngoài việc học hỏi thực tế về các lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng, em còn
chú tâm nghiên cứu về lĩnh vực“ Nâng cao Chất lượng tín dụng đối với các Doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại, cụ thể là Ngân hàng Công thương
Hưng Yên.”
Bài viết gồm có 3 chương:
Chương I: Chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ của

Ngân hàng thương mại.
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
1


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với Doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Công thương tỉnh Hưng Yên
Do thời gian thực tập tại Ngân hàng và trình độ của sinh viên còn hạn chế
nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự hướng dẫn, góp ý của
các thầy cô.

SV: ĐOÀN THANH THUỶ

SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
2


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của Ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại là gi? Ngân hàng thương mại (NHTM) là một Doanh
nghiệp kinh doanh tiền tệ, hoạt động chính của Doanh nghiệp này là nhận tiền gửi
và cho vay nhằm mục đích sinh lời. Ngoài ra, Ngân hàng thương mại còn có một
số nghiệp vụ nữa là kinh doanh chứng khoán, nghiệp vụ bảo lãnh, uỷ thác đầu tư…
Ngân hàng là một tổ chức quan trọng trong nền kinh tế, Ngân hàng bao gồm
nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống Tài
chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về
quy mô tài sản, thị phần và số lượng các Ngân hàng.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh
tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế – Xã
hội đều gửi tiền tại Ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là thủ quỹ trong toàn xã
hội. Thu nhập từ Ngân hàng là thu nhập quan trọng trong nhiều gia đình. Ngân
hàng là tổ chức cho vay chủ yếu với các Doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và
một phần đối với Nhà nước (thành phố, tỉnh…). Đối với các Doanh nghiệp, Ngân
hàng thường là tổ chức cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua bán hàng hoá dự trữ
hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi Doanh nghiệp và người tiêu
dùng phải thanh toán các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử dụng séc,
uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử.v.v… và khi họ cần thông tin tài
chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường tới Ngân hàng để được nhận lời tư vấn.
Các khoản tín dụng của Ngân hàng cho chính phủ (thông qua chứng khoán Chính
phủ) là nguồn Tài chính quan trọng để đầu tư, phát triển. Ngân hàng thực hiện các
chính sách kinh tế, đặc biệt là các chính sách tiền tệ, vì vậy là công cụ quan trọng
trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững. Do đó,
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
3


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

cần phải nghiên cứu và hiểu một cách cặn kẽ về loại hình tổ chức này để có thể vận
hành và quản lý một cách có hiệu quả.
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các
Ngân hàng có thể được định nghĩa theo chức năng, các dịch vụ cụ thể hoặc vai trò
mà chúng có thể thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề ở chỗ các yếu tố trên đang
không ngừng thay đổi, thực tế có rất nhiều các Tổ chức Tài chính – bao gồm cả các
Công ty chứng khoán, các Công ty môi giới chứng khoán, quỹ hỗ trợ và các công
ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngược lại,
ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi
giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư quỹ hỗ trợ và thực hiện
nhiều dịch vụ mới khác.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của một ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một Doanh nghiệp đặc biệt có rất nhiều chức năng
kinh doanh về tiền tệ. Những chức năng đó được thể hiện cụ thể qua các hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng.
NHTM có hoạt động gần gũi nhất với nhân dân và nền kinh tế. Nền kinh tế
càng phát triển cao, hoạt động của NHTM càng đi vào tận ngõ ngách của đời sống
kinh tế đất nước. Hoạt động kinh doanh của NHTM được chia làm hai loại có tính
khác nhau:
a) Hoạt động nghiệp vụ (hoạt động kinh doanh tiền tệ). Chữ “nghiệp vụ” có
nghĩa là nghề nghiệp, nghề sống bẩm sinh vốn có của ngành ngân hàng (nghề buôn
tiền, kinh doanh tiền tệ), mà nếu thiếu nó thì Ngân hàng không còn là Ngân hàng
nữa. Những hoạt động để tìm kiếm nguồn vốn hoặc cung ứng vốn cho khách hàng
gọi là hoạt động kinh doanh tiền tệ và gọi tắt là hoạt động nua bán vốn tiền tệ giữa
một bên là Ngân hàng và một bên là Khách hàng là một đặc trưng cơ bản của
nghiệp vụ ngân hàng.
b) Dịch vụ: Đây là một hoạt động bao gồm các nhân tố không hiện hữu, giải
quyết các mối quan hệ giữa Khách hàng hoặc tài sản mà khách hàng sở hữu với
người cung cấp mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu. Sản phẩm của dịch vụ
SV: Đoàn Thanh Thuỷ


Lớp: TTCK44 - NHTC
4


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
này có thể trong phạm vi hoặc vượt quá phạm vi của sản phẩm vật chất do Ngân
hàng cung cấp cho khách hàng của mình.
Hoạt động của Ngân hàng mang tính cạnh tranh cao độ. Trong nền kinh tế
thị trường, cạnh tranh là quy luật vận động tự nhiên, không lệ thuộc vào nhận thức
hoặc chọn lựa chủ quan của con người. Xuất phát từ sự mâu thuẫn lợi ích giữa các
Doanh nghiệp, cạnh tranh là động lực của sự phát triển, mục đích của cạnh tranh là
giữa vững thị phần của mình, mở rộng thị phần sang thị trường tiềm năng, chiếm
lĩnh thị phần của đối thủ cạnh tranh. Mục tiêu của kinh doanh là tối đa hoá lợi
nhuận, an toàn trong kinh doanh, không ngừng gia tăng doanh thu, nên cạnh tranh
chính là một trong các chìa khoá của mỗi Doanh nghiệp để đạt được tham vọng
trong thương trường. Ngày nay, sự phát triển không ngừng của khoa học, công
nghệ, sản xuất hàng hoá phát triển với quy mô rộng lớn làm cho cạnh tranh càng
quyết liệt và sâu rộng - Cạnh tranh chính là yếu tố nội tại của quá trình kinh doanh
và tiếp xúc với cạnh tranh là điều không thể tránh. Đối với hoạt động của NHTM,
sự cạnh tranh gay gắt đã bắt đầu trên thế giới từ nhữnq năm 70 của thế kỷ 20 do
các yếu tố cơ bản sau: 1.Công nghệ ngân hàng có xu hướng quốc tế hoá; 2. Các thị
trường vốn mới được mở đã làm biến đổi hệ thống tiền gửi truyền thống; 3. Công
nghệ ngân hàng tại nhiều nước đã bắt đầu đa dạng hoá các dịch vụ; 4. Ngành công
nghiệp ngân hàng đã tìm mọi cách phát triển các tổ chức phi ngân hàng, tạo điều
kiện hoạt động trong lĩnh vực chuyên biệt v.v…
Nghiệp vụ ngân hàng nói chung bao gồm tất cả những việc mà ngân hàng
thường làm trong khuôn khôn khổ nghề nghiệp của họ. tuỳ điều kiện kinh tế và
mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi nước, các nghiệp vụ kinh doanh của NHTM
bao gồm ba lĩnh vực: nghiệp vụ nợ, nghiệp vụ có và nghiệp vụ môi giới trung gian.

Đó là các nghiệp vụ nằm trong bảng tổng kết tài sản. Ngoài ra còn có các nghiệp
vụ khác không được phản ánh lên bảng tổng kết tài sản như nghiệp vụ bảo lãnh,
nghiệp vụ cho thuê két sắt, tư vấn… Thị trường các sản phẩm tài chính thay đổi
nhanh chóng gây ra nhiều vấn đề cho công tác quản lý và có thể dẫn đến các rủi ro
mới có tính hệ thống. Vì đó là các trách nhiệm không biết trước được nên nó được
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
5


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
định nghĩa như là sản phẩm ngoài bảng tổng kết tài sản và có thể các trách nhiệm
này nằm ngoài phạm vi các nguyên tắc truyền thống về các khoản vốn hỗ trợ cần
thiết.
Các nghiệp vụ của NHTM có quan hệ chặt chẽ, hộ trợ lẫn nhau để hình
thành hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế. Khi NHTM đi vào hoạt
động ổn định, các nghiệp vụ được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động,
tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
Dưới đây là hai hoạt động (nghiệp vụ) cơ bản của NHTM.
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Nghiệp vụ huy đông vốn của Ngân hàng thương mại được gọi là nghiệp vụ
nợ, những khoản mục nguồn vốn do nghiệp vụ này tạo nên khi thể hiện trên bảng
tổng kết tài sản của Ngân hàng thương mại sẽ nằm bên tài sản nợ. Đây được coi là
nghiệp vụ khởi đầu, tạo nền móng cho mọi hoạt động tiếp theo của Ngân hàng
thương mại. Về sau, khi Ngân hàng đã hình thành vốn cố định, các nghiệp vụ của
nó được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động.
Huy động các nguồn vốn khác nhau (tài sản nợ) trong xã hội để hoạt động là
lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM. Ở các nước công nghiệp, với sự phát triển
nhanh chóng của thị trường Tài chính, đã có nhiều tài sản có mức lợi tức ổn định

và tính thanh khoản cao, tài sản nợ rất đa dạng làm cho việc tìm kiếm vốn hoạt
động của NHTM trở thành cạnh tranh khốc liệt, trước mắt các NHTM ở các nước
phát triển luôn luôn xuất hiện một vấn đề, đó là làm thế nào để có đủ vốn đầu tư
giữa môi trường đầu tư cạnh tranh đầy kịch tính. Ngân hàng thương mại phải cạnh
tranh với các Ngân hàng khác, với các tổ chức tài chính khác, với các nghiệp vụ thị
trường trực tiếp và với bất cứ một tổ chức nào khác muốn thu hút một khối lượng
vốn nào đó.
Tài sản nợ của NHTM tập trung vào năm nhóm phổ biến là: 1)Vốn pháp
định hay vốn điều lệ; 2)Tiền gửi không kỳ hạn; 3)Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm;
4)Các khoản vay trên thị trường tiền tệ; 5)Các khoản vay từ các Ngân hàng khác
hoặc từ Ngân hàng Trung ương.Tài sản nợ của Ngân hàng thương mại là nguồn
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
6


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nói theo ngôn ngữ thị
trường, tài sản nợ diễn tả những khoản mà NHTM mắc nợ thị trường, nghĩa là bao
gồm những khoản mà nhân dân gửi vào (ký thác) cho nó, hay nó đi vay các đối
tượng khách trong nền kinh tế Ngân hàng trung ương, các ngân hàng hay tổ chức
tín dụng khác, chính quyền, nước ngoài, các doanh nghiệp, nhân dân… Đứng bên
tài sản nợ, NHTM là người đi vay, là con nợ, còn các đối tượng kia là người cho
vay, là chủ nợ của NHTM. Như vậy, thuật ngữ “tài sản nợ” phản ánh rằng đó là tài
sản của người khác mà ngân hàng vay. Tài sản nợ bao gồm:
Vốn pháp định, vốn điều lệ.
Vốn pháp định (hay còn gọi là vốn điều lệ) là số vốn đầu tư ban đầu khi
thành lập ngân hàng và được ghi rõ trong điều lệ của NHTM. Vốn điều lệ ít nhất
phải bằng mức vốn pháp định do NHNN công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Vốn

điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và phạm vi
hoạt động, cổ đông, ngân sách cấp, lợi nhuận bổ sung… Vốn này chủ yếu dùng để
mua sắm bất động sản, động sản, trang thiết bị… cho hoạt động ngân hàng, ngoài
ra còn được dùng để đóng góp vốn liên doanh, cho vay, mua cổ phần của các công
ty khác. Không được dùng vốn điều lệ để chia cổ tức, lập quỹ phúc lợi khen
thưởng. Như vậy, đến khi ngân hàng hoạt động, vốn điều lệ có thể đã nằm dưới
dạng trụ sở, văn phòng, kho bãi, xe cộ, trang thiết bị, dự trữ hay lý quỹ tại NHTW,
hoặc đã đầu tư vào một thương vụ nào đó.
Ngoài vốn điều lệ, NHTM còn có các quỹ dự trữ ngân hàng (đây là các quỹ
buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng), quỹ phát
triển kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo tồn, quỹ phúc lợi,.v.v…
Tiếp theo là các nguồn vay, chủ yếu bao gồm:
Vay của Ngân hàng trung ương (NHTW).
Để chuẩn bị cho các hoạt động của mình như các hoạt động thanh toán bù
trừ, hoạt động chuyển nhượng lẫn nhau, kể cả quy định dự trữ bắt buộc do NHTW
áp đặt, tất cả các NHTM đều phải lý gửi những khoản tiền mặt nhất định tại kho
của NHTW, khoản dự trữ này không sinh lời.
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
7


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Trong quá trình hoạt động của mình, có lúc các NHTM gặp những tình
huống thiếu hụt dự trữ hoặc quá kẹt tiền mặt. Đây là điều thường xuyên xảy ra đối
với NHTM ở bất kỳ nước nào. Trong khi có một số ngân hàng thiếu hụt dự trữ, thì
cũng có một số các NHTM khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo quy định của
NHTW, các NHTM điện thoại hoặc liên lạc qua màn hình computer vay lẫn nhau
dự trữ trong một ngày là chuyện bình thường. Thủ tục vay được tiến hành qua viễn

ký (fax) hoặc điện tín. Trong vòng vài phút sau, ngân hàng thừa dự trữ trong ngày
hôm đó sẽ viết séc hoặc gửi điện tín tới chi nhánh của NHTW tại địa phương, yêu
cầu chuyển một phần dự trữ thừa từ ngân hàng mình qua dự trữ của ngân hàng xin
vay. Thế là ngân hàng xin vay trở lên đủ dự trữ theo yêu cầu của NHTW.
Việc vay qua vay lại như vậy vẫn diễn ra hàng ngày trong hệ thống NHTM.
Nó hình thành một loại tài sản nợ khá thường xuyên. Tuy nhiên, khoản nợ này
thường rất ngắn, không quá một tuần, và thường chỉ trong một vài ngày, vì mỗi
ngân hàng đều ý thức được không thể lạm dụng kéo dài tình trạng này.
Hiện nay ở Việt Nam chưa phát triển khoản vay ngắn hạn dự trữ tại NHTW. Ở
nước ta còn có “vốn tiếp nhận: là những nguồn vốn mà NHTM nhận uỷ thác từ các
tổ chức trong hoặc ngoài nước, từ ngân sách nhà nước để cho vay trung và dài hạn
thuộc kế hoạch xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước, để thực hiện những
chương trình và dự án có mục tiêu định trước trong sản xuất kinh doanh, cải tạo
môi trường, môi sinh.
Vay trên thị trường tiền tệ.
Thị trường tiền tệ theo mô hình của các nước phát triển bao gồm thị trường
mua bán các chứng từ có giá ngắn hạn, thị trường liên ngân hàng, thị trường hối
đoái. Ta chỉ đề cập khái quát thị trường tiền tệ trong mối liên quan với việc vay
mượn của các NHTM trên thị trường này.
Hoạt động trên thị trường này hỗ trợ tích cực cho hoạt động của các NHTM,
bổ sung kịp thời cho nhu cầu vốn thông qua việc điều hoà các nguồn vốn từ nơi
thừa đến nơi thiếu. Thị trường tiền tệ góp phần sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đã
có tại các Ngân hàng, làm cho các nguồn vốn phong phú, chủ động nằm trong tầm
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
8


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

tay này hoà trộn, lưu thông, khơi nguồn cả dòng chảy cho tất cả các nguồn vốn vào
mạng lưới đầu tư phát triển nền kinh tế đất nước. Thị trường tiền tệ giúp cho các
NHTM tìm được nguồn vốn vay, đồng thời giúp cho chúng khi dư thanh khoản, có
được cơ hội sinh lời.
Vay từ công ty mẹ.
Ở các nước phát triển, mỗi Công ty hoặc Tập đoàn kinh doanh có thể là chủ
của một hay một số NHTM. Thay vì việc phát hành trái phiếu hoặc giấy nợ để vay
tiền từ thị trường tiền tệ, các Công ty mẹ có thể thay thế nó dưới hình thức phát
hành trái phiếu, cổ phiếu công ty hoặc thương phiếu rồi chuyển vốn đã huy động
được này về Ngân hàng này hoạt động. Việc này sẽ hạn chế được những khó khăn
mà các NHTM thường mắc phải khi tiến hành huy động vốn trên thị trường này.
Ngoài các loại vay đã nên trên, một NHTM để đảm bảo vốn cho hoạt động
kinh doanh của mình, còn tiến hành vay vốn của các Ngân hàng khác, giữa các
NHTM và các tổ chức tín dụng có thể cho vay lẫn nhau theo nguyên tắc: Các Ngân
hàng phải hoạt động hợp pháp; Nguyên tắc thực hiện việc vay và cho vay theo hợp
đồng tín dụng; Nguyên tắc vốn vay phải có được đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố
hay xin vay của NHTW.
Các nghiệp vụ ký thác.
Muốn làm Ngân hàng cần có vốn riêng, tuy nhiên số vốn riêng này chỉ
chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng số tiền mà Ngân hàng đã cho vay. Số vốn riêng của
Ngân hàng thường chỉ để mua sắm, trang bị trụ sở. Trong thực tế, số tiền mà Ngân
hàng cho vay có nguồn gốc từ tiền gửi của Khách hàng. Do đó, huy động vốn là
hoạt động chủ yếu và thường xuyên của NHTM, là mối quan tâm chính của các
Ngân hàng này.
Có thể nói, Ngân hàng là một xí nghiệp kinh doanh đồng vốn, Ngân hàng
vừa là người cung cấp đồng vốn, đồng thời cũng là người tiêu thụ đồng vốn của
Khách hàng. Tất cả những hoạt động mua bán này thường thông qua một số công
cụ và nghiệp vụ Ngân hàng. Chính nhờ các nghiệp vụ đa dạng mà Ngân hàng cung
cấp mà nghiệp vụ ký thác ra đời. Thông thường, người ta xem ký thác là các số
SV: Đoàn Thanh Thuỷ


Lớp: TTCK44 - NHTC
9


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
tiền do Khách hàng gửi vào tài khoản của họ tại Ngân hàng. Tuy nhiên, đối với
người gửi tiền thì ý nghĩa ký thác không dừng lại ở đó, nó không hoàn toàn không
như danh từ đã sử dụng. Nó phụ thuộc vào mục đích của người gửi tiền. Các nguồn
ký thác ngày càng phong phú, phức tạp. Vì thế không thể phân định một cách
chính xác từng nhóm ký thác riêng biệt. Song về mặt kỹ thuật Ngân hàng, các
khoản ký thác có thể phân theo tiêu chuẩn sau:
-Tiền gửi không kỳ hạn. Đây là loại ký thác hoàn toàn theo nguyên tắc khả
dụng, nghĩa là người gửi có quyền rút tiền bất kỳ lúc nào họ muốn. Ngân hàng sẽ
sắp xếp khoản tiền này vào tiền gửi không kỳ hạn, nghĩa là khoản tiền gửi có thời
hạn không xác định. Người gửi tiền vừa mới gửi tiền vào sáng này, nến cần anh ta
có thể rút vào ngay chiều hôm đó, nếu không có nhu cầu sử dụng, anh ta có thể để
đó mười bữa, nửa tháng hoặc một năm sau mới rút ra. Tiền gửi không kỳ hạn có
thể là tiền gửi thanh toán hoặc thuần tuý chỉ là khoản gửi tiết kiệm, không có nhu
cầu chi trả nào.
-Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi được uỷ thác vào Ngân hàng kèm
theo thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hành và Ngân hàng. Về nguyên tắc,
Khách hàng gửi tiền chỉ được rút tiền ra khi đến hạn đã thoả thuận hoặc nếu muốn
rút trước thì Khách hàng sẽ phải chịu một số thiệt thòi nhất định như đã ghi trong
hợp đồng tín dụng như là phải chịu mức lãi suất thấp, hay phải báo trước vài ngày...
Khác với tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán), tiền gửi có kỳ hạn (tiền gửi
định kỳ) là tiền tạm thời chưa sử dụng hoặc là tiền để dành của cá nhân, vì vậy,
mục đích gửi tiền tới Ngân hàng là nhằm kiếm lợi nhận.
1.1.2.2.Hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại
Huy động vốn được rồi, NHTM phải làm thế nào để hiệu quả hoá những

nguồn tái sản này. Hầu như tất cả các khoản mục trên tài sản nợ của Ngân hàng
đều là vốn vay, nghĩa là Ngân hàng phải trả lãi suất cho nó đến đúng giờ. Do đó để
khỏi bị thiệt hại và có thể thu lợi thì Ngân hàng phải cho vay hay đầu tư ngay tài
sản ấy vào những dịch vụ sinh lời. Từ lãi thu được, Ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi
suất cho số vốn đã huy động được, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của Ngân hàng. Nói
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
10


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
cách khác, nghiệp vụ có của Ngân hàng là những nghiệp vụ thực hiện sử dụng
những khoản vốn đã huy động được nhằm mục đích sinh lợi.
Nghiệp vụ có của Ngân hàng bao gồm nghiệp vụ dự trữ tiền mặt, đầu tư vào
chứng khoán và nghiệp vụ cho vay.
- Nghiệp vụ dự trữ tiền mặt. Là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh
khoản của Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên của
Khách hàng. NHTM phải duy trì một bộ phận vốn bằng tiền mặt để thực hiện
nghiệp vụ dự trữ. Mức dự trữ này cao hay thấp tuỳ thuộc vào quy mô hoạt động
của Ngân hàng, mối quan hệ thanh toán bằng tiền mặt và chuyển khoản, thời vụ
của khoản chi tiền mặt. Các khoản dự trữ tiền mặt của Ngân hàng không sinh lãi,
nhưng Ngân hàng vẫn phải duy trì do luật Ngân hàng quy định và bản thân Ngân
hàng cũng thấy rõ việc dự trữ tiền mặt trong két là cần thiết. Các NHTM phân loại
dự trữ tiền mặt làm ba phần: Tiền mặt tại kho của Ngân hàng, tiền mặt ký gửi tại
NHTW và tiền mặt đang thu hồi.
- Đầu tư vào chứng khoán. Đây là loại hình phổ biến nhất trong tài sản có
của NHTM tại các nước phát triển, các chứng khoán được các NHTM đầu tư là:
Chứng khoán Nhà nước (tiền của kho bạc, trái phiếu kho bạc trung và dài hạn, và
trái phiếu của Chính phủ địa phương), chứng khoán công ty…

- Nghiệp vụ cho vay của NHTM. Nghiệp vụ này bao gồm cho vay tiền, cho
vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền, cho vay qua chữ ký… Đây là hoạt
động chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay
mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí
vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư.
Kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các NHTM càng tăng nhanh và
loại hình cho vay càng trở nên đa dạng. Ở hầu hết các nước công nghiệp trong
nhóm 10 và 15 nước hàng đầu thế giới, cho vay của các NHTM đã chuyển dần từ
cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Ngược lại, ở hầu hết các nước đang phát
triển, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm một bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát
từ chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn.
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
11


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Ở một số nước đang phát triển cho đến nay, khi một ngân hàng được thành
lập và đi vào hoạt động, mối quan tâm chính và thường xuyên của nó là sẽ cho ai
vay và sẽ đầu tư vào đâu. Ở những nước này, đối tượng đầu tư là điều bận tâm
nhiều hơn, nếu không nói là vấn đề quan trọng nhất. Trong khi đó, ở các nước đã
phát triển, tình hình lại ngược lại. Vấn đề đặt ra của các NHTM không phải là vấn
đề đầu tư vào đâu hay cho ai vay, mà là lợi tức có cao và an toàn không. Thậm chí
những lo ngại như vậy thực tế đã không còn vì hầu hết mọi họ đã có những thân
chủ chắc chắn, và vấn đề an toàn đã có pháp luật bảo vệ. Điều họ quan tâm là làm
thế nào để huy động càng nhiều tiền cho khoản đầu tư sẵn có.
Như vây, chúng ta đã biết được hai hoạt động chính của một Ngân hàng
thương mại là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn đó để sinh lời.
Ngoài hai hoạt động cơ bản đó ra, ngân hàng thương mại còn cung cấp cho các

khách hàng của mình một số dịch vụ khác nữa như dịch vụ thanh toán nhanh bằng
thẻ, dịch vụ chuyển tiền,v.v...
1.2. Chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng
thương mại
1.2.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ - một đối tượng quan trọng trong hoạt động
của Ngân hàng thương mại
1.2..1.1. Khái niệm, đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, và tính đến xu thế phát triển trong
thời gian tới, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn ở nước ta, ngày 23/11/2001 Chính
phủ đã ban hành nghị định số 90/NĐ-CP quy định tiêu chí để xác định DNVVN là
“Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất – kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh
doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ Đồng hoặc số
lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Đây sẽ là khái niệm được sử
dụng trong suốt chuyên để.
Các đặc điểm và lợi thế tiềm năng của các DNVVN bao gồm:
DNVVN giúp sử dụng các yếu tố sản xuất hiệu quả hơn. Một trong những lý
lẽ kinh tế nêu ra để ủng hộ các DNVVN là liên quan đến việc sử dụng các yếu tố
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
12


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
đầu vào( vốn, lao động, tài nguyên…) hiệu quả hơn, có khả năng tận dụng các
nguồn lực mà Doanh nghiệp khác bỏ qua. Tính hiệu quả kinh tế cao hơn này có thể
có do việc lựa chọn các nhân tố phù hợp, tổng sức sản xuất các các yếu tố hợp
thành, hoặc sự kế hợp của cả hai.
Khả năng tạo việc làm tại các DNVVN là tương đối lớn. Các DNVVN được
xem là cần tập trung sức lao động nhiều hơn các Doanh nghiệp lớn, điều này có

được là do việc sử dụng lao động rẻ hơn, công nghệ đòi hỏi nhiều lao động, do đó
làm nảy sinh vấn đề sử dụng nhiều lao động hơn trên một đơn vị vốn đầu tư. Trong
điều kiện hiện nay của Việt Nam, nếu Chính phủ Việt Nam có sự quan tâm hơn
nữa tới khu vực này thì hàng năm giải quyết đáng kể việc làm của xã hội.
DNVVN giúp tiết kiệm ngoại hối. Vì các DNVVN thường được hiểu là sử
dụng nhiều công nghệ trong nước nên đòi hỏi ít ngoại hối hơn cho việc nhập khẩu
máy móc thiết bị, nhưng có khuynh hướng cho rằng sự đóng góp của khu vực
DNVVN đối với khối lượng hàng xuất khẩu là không đáng kể, nhưng sản phẩm,
dịch vụ xuất khẩu của nó có ý nghĩa xã hội rõ hơn, đó là việc làm và sử dụng
nguyên liệu trong nước.
DNVVN cũng giúp tận dụng và làm tăng tiết kiệm trong nước. Việc quan
tâm thoả đáng đến khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ khuyến khích các chủ
Doanh nghiệp trong nước sử dụng nhiều hơn các khoản tiết kiệm của họ, vì thế
tăng vốn đầu tư trong nền kinh tế. Vì các Doanh nghiệp mới thành lập có khuynh
hướng sử dụng vốn của chủ Doanh nghiệp và gia đình họ, nên hy vọng rằng sự
thúc đẩy các DNVVN sẽ huy động được các nguồn vốn này.
DNVVN giúp phân phối thu nhập và hàng hoá tiêu dùng cơ bản. Vì có nhiều
người kiếm kế sinh nhai từ các DNVVN hơn là từ việc làm cho các Doanh nghiệp
lớn, do đó đem lại sự bình đẳng hơn trong phân phối thu nhập Xã hội. Các
DNVVN cũng được thừa nhận là nơi sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá tiêu dùng
đơn giản, có chi phí và giá cả thấp phục vụ cho đối tượng những người có thu nhập
thấp.

SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
13


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

Nhờ có các DNVVN mà ta có thể phân bổ ngành nghề theo địa lý một cách
hợp lý. Sự thúc đẩy các DNVVN xem như là biện pháp chống lại sự tập trung vào
các ngành và xu hướng thiên về các đô thị, làm thúc đẩy hoạt động kinh tế và việc
làm ở các vùng nông thôn.
DNVVN giúp thúc đẩy sự kết nối trong nền kinh tế: Tăng mối liên kết giữa
các Doanh nghiệp lớn với các DNVVN. Do đó, hy vọng nguồn kinh tế phi chính
quy nhỏ sẽ hội nhập vào khu vực hiện tại mạnh hơn.
Các DNVVN có sự thích nghi cao về mặt công nghệ. Các DNVVN kết hợp
nhiều cấp độ công nghệ, đặc biệt là công nghệ truyền thống, sản xuất các mặt hàng
thủ công mỹ nghệ.
DNVVN có vị trí, vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của mỗi nước, kể
cả những nước có trình độ phát triển cao. Trong bối cảnh toàn cầu cạnh tranh gay
gắt như nhiện nay, các nước đều chú ý hỗ trợ các DNVVN nhằm huy động tối đa
các nguồn lực và hỗ trợ cho công nghiệp lớn, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. vị
trí, vai trò của các DNVVN đã được khẳng định thể hiện qua các điểm sau:
- Về số lượng các DNVVN chiếm ưu thế tuyệt đối, ví dụ số DNVVN chiếm
hơn 99% trong tổng số Doanh nghiệp ở Nhật bản và Đức.
- DNVVN có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại như một bộ
phận không thể thiếu được trong nền kinh tế mỗi nước. Nó là một bộ phận hữu cơ
gắn bó chặt chẽ với các Doanh nghiệp lớn, tác dụng hỗ trợ và bổ xung, thúc đẩy
các Doanh nghiệp quốc doanh, các Doanh nghiệp lớn phát triển.
Sự phát triển của các DNVVN góp phần quan trọng trong việc giải quyết các
mục tiêu kinh tế sau dây:
Một là, Các Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp đáng kể vào sự phát triển và
ổn định kinh tế của mỗi nước. Việc phát triển DNVVN đóng góp quan trọng vào
tốc độ phát triển nên kinh tế, đặc biệt đối với những nước mà trình độ kỹ thuật còn
lạc hậu như ở Việt Nam thì giá trị gia tăng do các Doanh nghiệp này tạo ra hàng
năm chiếm tỷ trọng khá lớn, bảo đảm thực hiện các chỉ tiêu tăng trưởng của nền
kinh tế.
SV: Đoàn Thanh Thuỷ


Lớp: TTCK44 - NHTC
14


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Hai là, Các Doanh nghiệp vừa và nhỏ cung cấp cho toàn xã hội khối lượng
hàng hoá đáng kể.
Ba là, Chúng thu hút lao động, tạo ra nhiều việc làm với chi phí đầu tư thấp,
giảm thất nghiệp.
Bảng 1: BẢNG DỰ ÁN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VN NĂM 2000
Nước và vùng lãnh thổ

Tỷ trọng lao động

Giá trị gia tăng tạo ra

thu hút

(%)

Singgapo

35.2

26.6

Malaixia

47.8


36.4

Hàn quốc

37.2

21.1

Nhật bản

55.2

38.8

Hồng Kông

59.3

42.3

(Theo nguồn: Kỷ yếu khoa học, dự án chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt
Nam năm 2000)
Bốn là: Các DNVVN tạo nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho dân cư,
góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập của các bộ phận dân cư, tạo ra sự phát
triển tương đối đồng đều giữa các vùng của đất nước và cải thiện mối quan hệ giữa
các khu vực khác nhau.
Năm là: Chúng giúp khai thác, phát huy các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ
của các địa phương, các nguồn tài chính của dân cư trong vùng.
Sáu là: Hình thành, phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động, cùng

với sự phát triển của các DNVVN là sự xuất hiện ngày càng nhiều hơn các nhà
kinh doanh sáng lập.
Bẩy là: Tạo ra môi trường cạnh tranh, thúc đẩy SX - KD phát triển có hiệu
quả hơn, sự tham gia của rất nhiều DNVVN vào sản xuất kinh doanh làm cho số
lượng và chủng loại sản phẩm tăng thêm rất nhanh.
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
15


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Đối với Việt Nam thì vị trí, vai trò của các DNVVN lại càng quan trọng do
những đặc điểm, tình hình và bối cảnh phát triển kinh tế nước ta quy định. Mặc dù
vậy, nhưng bức tranh thực tế nền kinh tế nước ta hiện nay cho thấy DNVVN đã và
đang giữ một vị trí rất quan trọng thông qua vài con số có thể thấy:
- Toàn bộ khu vực DNVVN tạo ra khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công
nghiệp hàng năm, khoảng 24% GDP trong cả nước.
- DNVVN giải quyết 26% lao động cả nước (không kể lao động trong gia
đình – lực lượng đông đảo nhất Việt Nam hiện nay) ước tính có trên 7.8 triệu lao
động được thu hút và làm việc tại khu vực Doanh nghiệp này.
- Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong các DNVVN ở Việt
Nam khoảng 740.000 đồng, chỉ bằng 3% trong các Doanh nghiệp lớn (trung
bình là 5 – 10 triệu đồng)
Với những lợi thế và thế mạnh của mình, số lượng các DNVVN ở Viêt Nam
ngày càng tăng. Cụ thể, vào năm 2002, số lượng các DNVVN ở nước ta đã nên tới
hơn 45.000 DN, chiếm tỷ trọng hơn 90% (Bảng 2).
Bảng 2: BẢNG SỐ LƯỢNG DNVVN TẠI VIỆT NAM NĂM 2002
Tổng số DN


Tổng số lao động

Tổng số vốn

Số DN

Tỷ trọng (%)

số DN

Tỷ trọng (%)

46834

97

43772

91

(Nguồn: niên giám thống kê năm 2002 được Tạp chí Kính tế Việt Nam đăng ngày
29/2/2006)
1.2.1.2. Phân loại Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việc đưa ra khái niệm chuẩn xác về DNVVN có ý nghĩa rất quan trọng để
xác định đúng đối tượng được hỗ trợ. Nếu phạm vi đối tượng hỗ trợ quá rộng, sẽ
không đủ sức bao quát và tác dụng hỗ trợ sẽ giảm đáng kể, vì hỗ trợ tất cả có nghĩa
là không hỗ trợ ai. Còn nếu phạm vi quá hẹp thì sẽ không có ý nghĩa và ít tác dụng
tới nền kinh tế. Chính vì vậy, hầu hết các nước rất chú trọng nghiên cứu tiêu thức
phân loại DNVVN. Tuy nhiên, không có tiêu thức thống nhất để phân loại cho tất
cả các nước vì điều kiện kinh tế xã hội mỗi nước khác nhau, và ngay trong một

SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
16


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
nước sự phân loại khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, từng ngành nghề, từng lãnh thổ.
Có hai tiêu thức phổ biến dùng để phân loại DNVVN: Tiêu thức định tính và tiêu
thức định lượng.
Tiêu thức định tính: Dựa trên những đặc trưng cơ bản của các DNVVN như:
Chuyên môn quá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp quản lý thấp… các
chỉ tiêu này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác
định trên thực tế. Do đó, nó thường chỉ làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít
được sử dụng trong thực tế.
Tiêu thức định lượng: Có thể sử dụng các tiêu chí như số lao động, giá trị
tài sản vốn, doanh thu, lợi nhuận.
Sự phân loại Doanh nghiệp theo quy mô lớn, vừa và nhỏ mang tính tương
đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố Ngân hàng:
- Trình độ phát triển của mỗi nước
- Tính chất ngành nghề
- Vùng lãnh thổ
- Tính lịch sử
- Mục đích phân loại
1.2.1.3. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với DNVVN
Tín dụng của NHTM là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả cả
gốc lẫn lãi trong một khoảng thời gian xác định theo thoả thuận giữa một bên là
Ngân hàng đóng vai trò người cho vay và một bên là các tổ chức, các nhân đóng
vai trò là người đi vay.
Các nghiệp vụ theo nghĩa rộng là: Nghiệp vụ chiết khấu, cho vay, bảo lãnh,

cho thuê tài chính. Tuy nhiên, ở đây chúng ta tạm hiểu tín dụng theo nghĩa hẹp tức
là chỉ đơn thuần là hoạt động cho vay của NHTM.
Các loại tín dụng của NHTM rất phong phú và đa dạng, có thể được chia
theo nhiều tiêu thức khác nhau như: Thời hạn vay, hình thức vay, tài sản đảm bảo,
theo mức độ rủi ro, mục đích sử dụng… Nếu phân loại theo đối tượng Khách hàng
sẽ có loại tín dụng là tín dụng các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
17


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm
đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời của các DNVVN cũng như các Khách
hàng nói chung phải thực hiện các nguyên tắc tín dụng sau đây đã được cụ thê hoá
trong các quy định của NHNN và các NHTM:
+ Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn và lãi trong thời gian xác định vì
các khoản tín dụng của Ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của
Khách hàng và các khoản vay mượn. Như vậy Ngân hàng cũng phải có trách
nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết với chủ nguồn vốn. Do vậy Ngân
hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là
điều kiện để Ngân hàng tồn tại và phát triển.
+ Khách hàng phải cam kết sử dụng khoản tín dụng này theo đúng mục đích
đã ghi trong thoả thuận với Ngân hàng, không trái với quy định của pháp luật và
các quy định khác của Ngân hàng cấp trên. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp
đồng tín dụng, đảm bảo Ngân hàng không tài trợ cho hoạt động trái pháp luật và
việc tài trợ này phải phù hợp với cương lĩnh của Ngân hàng.
+ Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án (hoặc dự án) có hiệu quả. Thực hiện
nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt động

có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và
trả nợ cho Ngân hàng. Các khoản tài trợ của Ngân hàng phải gắn liền với việc hình
thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, Ngân hàng
đòi hỏi người đi vay phải có tài sản đảm bảo khi vay.
Như vậy, ta có thể thấy được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng Ngân
hàng đối với việc hình thành và phát triển DNVVN:
Thứ nhất, Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ cho sự ra đời và
phát triển của DNVVN
Trong nền kinh tế thị trường, ai cũng muốn đồng vốn của mình phải sinh lời
nhiều hơn. Nhiều Doanh nghiệp mới thành lập, muốn mở rộng và phát triển SX KD nhằm kiếm được những khoản lợi nhuận lớn hơn, bằng cách vay thêm nhiều
tiền của Ngân hàng để tăng đầu tư trang thiết bị máy móc, mua nguyên liệu. Để
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
18


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
giải quyết vấn đề này, Ngân hàng thông qua quan hệ tín dụng, thu hút những khoản
nhàn rỗi và màn tới cho các Doanh nghiệp cần vốn. Do vậy, tín dụng Ngân hàng đã
tạo điều kiện cho những Doanh nghiệp muốn thành lập và mở rộng SX - KD có thể
vay vốn bởi lẽ vốn tự có của DNVVN là nhỏ, thường chỉ chiếm từ 5-10% vốn lưu
động, không đủ tài trợ cho các hoạt động sản xuất, đổi mới quy mô, nâng cấp thiết
bị công nghệ. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, vốn của Ngân hàng chủ yếu
được các DNVVN sử dụng mở rộng SX - KD.
Thứ hai, Tín dụng Ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
DNVVN
Tín dụng Ngân hàng với quy trình kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay,
giám sát chặt chẽ tiến trình sử dụng vốn của các Doanh nghiệp đi đúng hướng đã
chọn, nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận cao nhất. Bởi tín dụng Ngân hàng không phải là

cấp phát vốn mà là cho vay có hoàn trả gốc và lãi theo thời gian quy định. Do đó
buộc các Doanh nghiệp phải tìm các biện pháp để sử dụng có hiệu quả và kinh
doanh có lãi để không những trả được nợ mà còn để tích luỹ mở rộng sản xuất.
Thứ ba, Tín dụng Ngân hàng giúp hình thành cơ cấu vốn tối ưu, cơ cấu vốn
của Doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh luôn bao gồm hai nguồn cơ
bản là vốn chủ sở hữu và vốn vay. Sự kết hợp của hai nguồn này chỉ ra chi phí vốn
cho DN. Cơ cấu vốn tối ưu là sự kết hợp hợp lý nhất các nguồn tài trợ cho kinh
doanh của một Doanh nghiệp nhằm mục đích tối đa hoá giá trị thị trường của
Doanh nghiệp tại mức giá vốn rẻ nhất.
Nếu vốn vay quá lớn thì chi phí vốn sẽ tăng, kéo theo giá thành cũng tăng và
lợi nhuận giảm, đồng thời giảm khả năng thanh toán của DN. Hơn nữa với vốn vay
đó, Doanh nghiệp phải chịu sự kiểm soát và đáp ứng được các điều kiện vay vốn
chặt chẽ của Ngân hàng. Từ đó, buộc các Ngân hàng và các Doanh nghiệp phải cân
nhắc trong việc quết định tỷ trọng vay vốn trong tổng hoạt động của DN, do đó
hình thành nên một cơ cấu vốn tối ưu cho kinh doanh.

SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
19


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Thứ tư, Tín dụng Ngân hàng đã tác động vào xu hướng chuyển dịch cơ cấu
SX - KD của DNVVN theo chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, chiến lược công nghiệp hoá đất nước.
Phần lớn DNVVN hoạt động trong kĩnh vực công nghiệp và dịch vụ đóng
góp một phần quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước. Hiện nay,
Nhà nước ta đã có chuyển dịch cơ cấu theo hướng thiên về công nghiệp và dịch vụ
theo chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thực hiện chiến lược

Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Vì vậy, những DNVVN hoạt động trong lĩnh vực
này sẽ được các NHTM ưu đãi như lãi suất ưu đãi, nới lỏng hạn mức tín dụng, đơn
giản hoá các thủ tục…
Không chỉ thu lợi nhuận từ lãi, các Ngân hàng thương mại còn thu được
những lợi ích sau đây:
+ Tín dụng không chỉ là hoạt động mang lại thu nhập từ lãi cao nhất cho
Ngân hàng còn giúp Ngân hàng tạo lập, xây dựng một số quan hệ gắn bó lâu dài
với DN.
+ Các Doanh nghiệp sử dụng dịch vụ, làm tăng tỷ trọng lợi nhuận từ dịch vụ
trong tổng lợi nhuận của NH.
+ Đa dạng hoá Khách hàng, góp phần làm giảm rủi ro tín dụng.
1.2.1.4. Các phương thức cho vay DNVVN của Ngân hàng thương mại
- Cho vay trực tiếp từng lần: Đây là hình thức cho vay tương đối phổ biến
của Ngân hàng đối với những Khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường
xuyên. Theo hình thức này, mỗi lần vay, Doanh nghiệp phải trình Ngân hàng
phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ tiến hành phân tích Khách hàng, nến
Khách hàng có đủ tiêu chuẩn cho vay thì Ngân hàng sẽ ký hợp đồng cho vay, xác
định quy mô và thời hạn hoàn trả, cũng như giá của khoản vay hay lãi suất vay.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, Ngân hàng có thể kiểm soát
từng món vay tách biệt. Theo từng kỳ hạn hợp đồng, Ngân hàng se thu cả gốc lẫn
lãi. Trong quá trình Khách hàng sử dụng tiền vay, Ngân hàng sẽ kiểm soát mục
đích và hiệu quả. hạn chế của cho vay trực tiếp từng lần này là mỗi lần vay vốn,
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
20


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
Doanh nghiệp phải tiến hành đầy đủ các thủ tục như trước, như vậy sẽ tốn rất nhiều

thời gian và chi phí của cả hai bên Ngân hàng và Doanh nghiệp.
- Cho vay trong hạn mức tín dụng: Phương thức cho vay này thuận tiện
cho những Khách hàng vay thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá
trình SX - KD. Mỗi lần vay, Khách hàng chỉ cần trình phương án sử dụng tiền vay,
nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau
khi kiểm tra tính hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, Ngân hàng sẽ đồng ý cho
Doanh nghiệp vay vốn.
Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không xác định trước kỳ hạn nợ và thời hạn
tín dụng. Khi Doanh nghiệp có thu nhập, Ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động
quản lý ngân quỹ cho Khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành
các kỳ hạn nợ cụ thể nên Ngân hàng khó kiểm tra, kiểm soát hiệu quả sử dụng từng
lần này. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi Doanh nghiệp nộp báo cáo tài
chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Đây là hình thức cho vay trong đó Ngân hàng
cho Doanh nghiệp vay vốn đề thực hiện các dự án đầu tư SX - KD, dịch vụ và các
dự án đầu tư phục vụ đời sống. Các khoản cho vay theo dự án thường là các khoản
tín dụng trung và dài hạn. Một trong những yêu cầu của Ngân hàng là Doanh
nghiệp phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá
trình thực hiện dự án.
Thẩm định dự án là điều kiện đề Ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và
khả năng hoàn trả của DN. Thực tế, ở Việt Nam hiện nay, DNVVN thành lập dự
án còn hạn chế nên khó vay được Ngân hàng theo dự án đầu tư.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Ngân hàng cam kết đảm bảo
sẵn sàng cho Khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định giúp
Khách hàng chủ động thu xếp các nguồn vốn cần thiết để nhằm tận dụng cơ hội
đầu tư mở rộng quy mô SX - KD đáp ứng nhu cầu của thị trường. Trong thời hạn
của hợp đồng tín dụng, Khách hàng phải trả cho ch phí cam kết. Phí cam kết này
thường được tính trên số tiền mà Ngân hàng đã cho Doanh nghiệp vay.
SV: Đoàn Thanh Thuỷ


Lớp: TTCK44 - NHTC
21


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp

1.2.2. Chất lượng tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng
thương mại
Các nhà kinh tế nói đến chất lượng bằng nhiều cách: Chất lượng là sự phù
hợp với mục đích và sử dụng, là một trình độ dự kiến trước đó về độ đồng đều và
độ tin cậy với chi phí thấp và phù hợp với thị trường.
Hoặc theo hiệp hội tiêu chuẩn hoá pháp (tiêu chuẩn NFX 50-104) thì chất
lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu của
người sử dụng.
Với cách hiểu như vậy, có thê hiểu rằng: Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng
nhu cầu của Khách hàng, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế – xã hội và đảm
bảo sự phát triển và tồn tại của Ngân hàng. chất lượng tín dụng được thể hiện:
- Đối với Ngân hàng thương mại phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải
phù hợp với thực lực của bản thân Ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh
trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
- Đối với Khách hàng: Tín dụng phát ra phải phù hợp với mực đích sử dụng
vốn của Khách hàng, với lãi suất và lỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận tiện, thu
hút được nhiều Khách hàng nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với sự phát triển Kinh tế - Xã hội: Tín dụng phục vụ sản xuất, lưu
thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác khả năng tiềm
năng của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất, giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế. Như vậy, rõ ràng rằng:
- Chất lượng tín dụng là một chỉ tiếu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích
nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh
của một Ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển.

- Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: Thu hút được Khách
hàng, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí tổng
thể và chi phí nghiệp vụ thấp, cạnh tranh.

SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
22


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
- Chất lượng tín dụng không tự dưng mà có, nó là kết quả của quá trình kết
hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức vơi nhau vì mục
tiêu chung.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng
1.2.3.1. Các nhân tố chủ quan, thuộc về Ngân hàng
+ Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một Ngân hàng, trở
thành hướng dẫn cho cán bộ tín dụng và các nhân viên Ngân hàng, tăng cường
chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung cho hoạt động
tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.
Toàn bộ các vấn đề có liên quan tới cấp tín dụng nói chung đều được xem
xét và đưa ra trong chính sách tín dụng như: Quy mô, lãi suất, kỳ hạn, đảm bảo,
phạm vi, các khoản tín dụng có vấn đề do đó việc hoạch định chính sách tín dụng
có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của Ngân hàng trong hoạt
động tín dụng, từ đó đạt chất lượng tín dụng cao nhất.
Với một chính sách tín dụng đối với DNVVN hợp lý, các NHTM có thể vừa
thể hiện được vai trò của mỉnh trong việc cung cấp đồng vốn cho các doanh nghiệp
nay, và mang lại doanh thu lớn cho ngân hàng từ hoạt động cho vay đó, mặt khác
lại có thể quản lý được các hiện tượng nợ xấu, hạn chế rủi ro về tín dụng.

+ Chất lượng thẩm định:
Thẩm định tín dụng là một quá trình thu thập, xử lý phân tích và nghiên cứu
mọi mặt tình hình của Khách hàng trên cơ sở đó sẽ ra quyết định về việc cho vay
của Ngân hàng.
Mục đích của thẩm định dự án là giúp cho Ngân hàng rút ra các kết luận
chính xác có nên cho Khách hàng đó vay hay không, dựa vào hiệu quả kinh tế và
khả năng trả nợ Ngân hàng của DN. cũng từ quá trình thẩm định, Ngân hàng có thể
tư vấn cho nhà đầu tư, đồng thời xác định số tiền, thời hạn, định mức trả lãi và gốc
hợp lý tạo điều kiện cho Khách hàng hoạt động một cách có hiệu quả, việc thẩm
định nếu được thực hiện đúng với trình tự, nội dung đầy đủ và chính xác thì sẽ
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
23


B¸o c¸o thùc tËp tèt nghiÖp
giảm thiểu được rủi ro đối với Ngân hàng, tù đó chất lượng tín dụng của Ngân
hàng được nâng cao và ngược lại.
+ Công tác tổ chức NH:
Công tác tổ chức tác động một phần không nhỏ đến chất lượng tín dụng,
công tác này thực hiện tốt được thể hiện bằng việc tổ chức khoa học trong việc
phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự thống nhất đoàn kết nhất trí từ ban
lãnh đạo tới cán bộ nhân viên tín dụng, đảm bảo đúng người, đúng việc đề phát
huy sở trường và khả năng của từng cán bộ.
+ Thông tin tín dụng:
Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng, những thông tin
chính xác về Khách hàng sẽ giúp cho Ngân hàng dễ dàng trong việc ra quyết định
cho vay, đồn thời cũng thuận tiện cho Ngân hàng trong quá trình kiểm tra giám sát
cho các khoản cho vay.

Việc xây dụng một hệ thống thông tin tín dụng với nhiều kênh và nhiều
nguồn cung cấp thông tin thông tin, cùng với việc đào tạo cán cộ có đủ năng lực
chon lọc và sử lý thông tin thông tin kịp thời là một trong những điều kiện quyết
định tới sự thành công trong công tác kinh doanh và thực hiện hoạt động tín dụng
của Ngân hàng, bởi lẽ thông tin chính xác sẽ hạn chế thấp nhất mức rủi ro, chất
lượng tín dụng sẽ được nâng cao.
+ Những vấn đề về kiểm tra, kiểm soát:
Trong hoạt động tín dụng, khâu kiểm tra kiểm soát nên được thực hiện đối
với cả Khách hàng lẫn Ngân hàng:
- Đối với Khách hàng: Kiểm tra trước, trong và sau khi cấp tín dụng, từ đó
Ngân hàng nhắm được đúng đối tượng, mục đích và hiệu quả sử dụng vốn vay.
- Đối với NH: Kiểm tra và kiểm soát trong quy trình thực hiện cho vay, quy
trình quản lý vốn vay…
1.2.3.2. Các nhân tố khách quan.
Các nhân tố khách quan có thể từ phía khách hàng, tức là các Doanh nghiệp
vừa và nhỏ hoặc từ ảnh hưởng của các chính sách vĩ mô.
SV: Đoàn Thanh Thuỷ

Lớp: TTCK44 - NHTC
24


×