Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.71 KB, 79 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm trở lại đây, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã không ngừng
phát triển cả về số lượng và chất lượng hoạt động kinh doanh và ngày càng
khẳng định những đóng góp quan trọng của mình vào sự phát triển kinh tế đất
nước. Với nhiều đổi mới trong các chính sách, Chính phủ đã tạo nhiều điều kiện
thuận lợi để các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Trong quá trình tồn tại và
phát triển của mình, nhu cầu vốn để mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn. Chính vì vậy, đối
với các ngân hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ được đánh giá là đối tượng tiềm
năng lớn, tạo điều kiện cho ngân hàng có thể tăng lợi nhuận, mở rộng thị trường.
Tuy nhiên, một thực tế là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp nhiều khó khăn
trong việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ngân hàng cũng như việc sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn vay. Ngoài ra, bản thân các ngân hàng cũng còn nhiều hạn
chế trong công tác cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhận thấy được tầm quan trọng và tiềm năng lớn từ đối tượng khách hàng
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong những năm gần đây, Ngân hàng TMCP
Nhà Hà Nội đã chú trọng hơn đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay
đến bộ phận khách hàng này. Tuy nhiên, dù đã có được nhưng kết quả nhất định
nhưng chất lượng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng
TMCP Nhà Hà Nội vẫn còn những mặt hạn chế. Sau quá trình thực tập tại Ngân
hàng TMCP Nhà Hà Nội, qua việc tìm hiểu và nghiên cứu thực tế công việc tại
Ngân hàng, đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội” đã được chọn làm chuyên đề tốt
nghiệp.
Chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 phần chính:
CHƯƠNG 1: CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG TMCP NHÀ HÀ NỘI
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG TMCP NHÀ HÀ NỘI


CHƯƠNG 1
CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì
vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn
định kinh tế. Ngân hàng có mối quan hệ mật thiết tới tất cả các ngành, lĩnh vực
khác nhau của nền kinh tế. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiện lớn nhất trong
hầu hết mọi nền kinh tế, hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế đều gửi tiền tại ngân hàng. Đồng thời, ngân hàng là tổ chức cho
vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với
Nhà nước. Hoạt động của ngân hàng góp phần to lớn trong việc thúc đẩy phát
triển kinh tế.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế
nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân
hàng. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai
trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Đứng trên mỗi khía cạnh khác nhau thì
có những định nghĩa khác nhau về ngân hàng.
Xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng
cung cấp, có khái niệm về ngân hàng thương mại: Ngân hàng là các tổ chức tài
chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Dựa trên các hoạt động chủ yếu, theo Luật Các tổ chức tín dụng của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngân hàng được định nghĩa: “hoạt động
ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng là với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung

ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.2.1Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng thương mại.
Đây là hoạt động đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động
của ngân hàng. Hoạt động huy động vốn là hoạt động khởi đầu, tạo nền móng
cho mọi hoạt động của ngân hàng thương mại. Nguồn vốn của ngân hàng bao
gồm vốn chủ sở hữu và vốn nợ.
Vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải có một lượng vốn
nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang
thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu thường chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng nguồn vốn mà ngân hàng nắm giữ nhưng lại là nguồn vốn có ý nghĩa
quan trọng vì nó phản ánh năng lực tài chính của ngân hàng, do vậy nó quyết
định quy mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tiến hàng kinh
doanh, thu hút những nguồn vốn khác và cho vay. Nguồn hình thành loại vốn
này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng,
yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Tuỳ theo tính chất sở hữu, vốn chủ sở
hữu có thể do ngân sách Nhà nước cấp, do các cổ đông đóng góp thông qua mua
cổ phần hoặc cổ phiếu, do các bên liên doanh góp hay vốn thuộc sở hữu tư nhân;
ngoài ra còn có các nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, các quỹ,
nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Vốn nợ
Vốn nợ của ngân hàng thương mại có thể được huy động dưới nhiều hình
thức khác nhau như: nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ chức và các tổ chức tín
dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn hay các loại
tiền gửi khác;Vay trên thị trường vốn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu,
tín phiếu, trái phiếu); Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác, vay vốn ngắn hạn
ngân hàng Nhà nước và các hình thức huy động khác như các nguồn từ uỷ thác,
nguồn trong thanh toán và các nguồn khác.

Trong các nguồn vốn huy động, tiền gửi của khách hàng là nguồn tài
nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu
hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh
toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh
nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh
hiện nay, các ngân hàng đã không ngừng gia tăng lượng tiền gửi cũng như chất
lượng tiền gửi bằng cách đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác
nhau.
1.1.2.2Hoạt động sử dụng vốn
Là tổ chức kinh doanh tiền tệ nên NHTM không chỉ huy động vốn mà còn
phải sử dụng vốn đó sao cho có mức sinh lời cao nhất. Việc sử dụng vốn chính là
quá trình tạo nên các nguồn tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó cho vay
và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng. Hoạt động sử dụng vốn của
NHTM chủ yếu bao gồm: Dự trữ, cho vay, đầu tư.
Dự trữ
Dự trữ của NHTM là những khoản có tính thanh khoản cao, được thiết lập
nhằm duy trì khả năng chi trả và các yêu cầu khác của NHTM. Dự trữ của ngân
hàng bao gồm: tiền mặt trong két, tiền gửi tại NHTW, tiền gửi các tổ chức tài
chính khác. Dự trữ ngân hàng sinh lời rất thấp, song lại có tính thanh khoản cao,
đáp ứng được nhu cầu chi trả thường xuyên của NHTM, giúp các NHTM tranh
nguy cơ phá sản.
Cho vay
“Cho vay là hoạt động theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với
nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi”.
Thời gian nhất định ở đây được hiểu là thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay
là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến
thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng giữa tổ chức tín dụng và khác hàng.

Cho vay là một hoạt động vô cùng quan trọng của NHTM. Mục tiêu của
ngân hàng thương mại là lợi nhuận, vì thế, để tạo ra lợi nhuận, các ngân hàng
thương mại cần phải cho vay. Hoạt động này đóng vai trò quan trọng đối với
ngân hàng nói riêng và với nền kinh tế nói chung. Đối với nền kinh tế nó thúc
đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế, góp phần cung cấp kịp thời vốn cho
sản xuất và kinh doanh cũng như cung cấp vốn cho các cá nhân tiêu dùng hay
cho Chính phủ để đầu tư phát triển đất nước. Với các NHTM, cho vay là hoạt
động sinh lời lớn nhất cho ngân hàng. Đây là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất
ở phần lớn các NHTM.
NHTM thể cho vay dưới nhiều phương thức khác nhau như: thấu chi, cho
vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả
góp, cho vay gián tiếp. Ngân hàng có thể cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu
cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ đời sống; cho vay trung và dài hạn để
thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Đầu tư
Là đơn vị kinh doanh tiền tệ nên NHTM là người nắm vững các thông tin
cũng như tình hình kinh tế khá rõ nên có thể nói các NHTM là người đầu tư có
hiệu quả nhất. Các NHTM thường dùng vốn chủ sở hữu và các vốn dài hạn để
đầu tư vào các công ty liên doanh, các dự án…, trở thành cổ đông của các công
ty cổ phần.
1.1.2.3 Các hoạt động trung gian
Khi mới ra đời, các ngân hàng thường có hai hoạt động chính là nhận tiền
gửi và cho vay, nhưng cùng với sự phát triển của thị trường tài chính cũng như
sự phát triển của trình độ khoa học công nghệ nói chung và công nghệ ngân hàng
nói riêng, các NHTM không chỉ đơn thuần thực hiện hai hoạt động trên mà còn
mở rộng ra các hoạt động khác. NHTM đóng vai trò trung gian tài chính khi thực
hiện các dịch vụ bao gồm: dịch vụ thanh toán, uỷ thác và nhận uỷ thác, cung ứng
dịch vụ bảo hiểm và tư vấn tài chính.
+ Dịch vụ thanh toán: Nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, các hình
thức thanh toán cũng ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Vì vậy, nhu cầu đòi

hỏi phải đẩy nhanh tốc độ thanh toán cùng với sự phát triển của công nghệ ngân
hàng đã thúc đẩy sự hình thành các dịch vụ thanh toán của các NHTM. Các
NHTM cung ứng các phương tiện thanh toán, thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ
khách hàng. Các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán
không dùng tiền mặt đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh, giúp cho khách
hàng kinh doanh nhanh chóng và hiệu quả hơn, tạo thuận lợi cho khách hàng
trong kinh doanh.
+ Uỷ thác và nhận uỷ thác: NHTM được uỷ thác, nhận uỷ thác làm đại lý
trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng. Nhiều cá nhân và doanh
nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch
vụ uỷ thác còn phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác
phát hành, uỷ thác đầu tư…
+Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: NHTM được cung ứng các dịch vụ bảo
hiểm, thành lập các công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm
theo quy định của pháp luật.
+ Tư vấn tài chính: Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các NHTM có rất
nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Nhiều khách hàng coi ngân hàng như một
chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài
chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
1.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng
thương mại
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
DNVVN là một trong các loại hình doanh nghiệp tồn tại trong nền kinh tế.
Mỗi quốc gia, mỗi khu vực khác nhau đều có những nét đặc thù riêng về điều
kiện kinh tế - xã hội, do vậy việc phân loại doanh nghiệp không thể thống nhất
giữa các quốc gia. Hiện nay, trên thế giới, không có khái niệm chuẩn mực về

DNVVN. Tuỳ vào điều kiện và tình hình kinh tế mà mỗi nước sẽ quy định riêng
về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc xác định quy mô DNVVN chỉ mang tính chất
tương đối vì nó chịu tác động của các yếu tố như trình độ phát triển của đất
nước, tính chất ngành nghề và điều kiện của một vùng lãnh thổ nhất định hay
mục đích phân loại doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tuy nhiên việc đưa ra một
khái niệm về DNVVN cho riêng mình có vai trò quan trọng trong việc đưa ra
chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Tại Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NĐ – CP của Chính phủ ngày 23
tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đã định
nghĩa: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng
ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10
tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”
1.2.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Phát triển DNVVN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Trong
quá trình phát triển của mình, DNVVN đã bộc lộ những ưu điểm nhưng cũng có
những không ít nhược điểm. Việc nhận rõ được những điểm mạnh cũng như
điểm yếu sẽ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có biện pháp khắc phục khó khăn
để nâng cao chất lượng hoạt động và khả năng cạnh tranh, đồng thời cũng là một
trong những tiêu chí để các ngân hàng đánh giá một cách tương đối chính xác về
khách hàng của mình từ đó nâng cao được chất lượng các khoản cho vay.
Điểm mạnh của DNVVN
- Quy mô vừa và nhỏ nên có tính năng động, linh hoạt
Quy mô vốn nhỏ đã tạo ra những mặt thuận lợi cho các DNVVN. Với số
vốn đầu tư ban đầu nhỏ, khả năng thu hồi vốn cao do đó các nhà đầu tư dễ lựa
chọn loại hình doanh nghiệp này khi quyết định thành lập công ty. Vốn đầu tư
ban đầu nhỏ, khả năng thu hồi vốn nhanh vì phần lớn các DNVVN hoạt động
trong lĩnh vực thương mại, sản xuất nhỏ nên sản phẩm dễ tiêu thụ, chu kỳ kinh
doanh ngắn, thu hồi vốn nhanh hơn những doanh nghiệp lớn. Do việc thu hồi
vốn ban đầu trong thời gian ngắn nên khả năng quay vòng vốn, tái đầu tư, mở
rộng sản xuất kinh doanh dễ dàng hơn.

So với các doanh nghiệp lớn, các DNVVN năng động hơn trước những sự
thay đổi của thị trường. Các doanh nghiệp lớn với quy mô và cơ sở vật chất hạ
tầng đồ sộ thường kém nhanh nhậy và linh hoạt hơn trong việc đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng. Trong khi đó, quy mô vừa và nhỏ tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu sản xuất hay bộ máy quản
lý khi có sự bất lợi từ môi trường kinh doanh, tăng khả năng thích nghi của các
doanh nghiệp với những biến động của thị trường.
Khác với các doanh nghiệp lớn đòi hỏi một thị trường lớn, thậm chí là cần
sự bảo hộ của Chính phủ và có sự độc quyền, các DNVVN hoạt động với số
lượng đông đảo dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. DNVVN
thường có tính tự chủ cao hơn so với các doanh nghiệp lớn, sẵn sàng khai thác
triệt để các cơ hội phát triển mà không ngại rủi ro. Chính điều này tạo động lực
thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động hơn, khai thác tối đa mọi tiềm lực của
đất nước.
- Hệ thống tổ chức và quản lý ở các DNVVN gọn nhẹ, linh hoạt, tiết kiệm
được chi phí. Công tác điều hành mang tính trực tiếp, các quyết định được thực
hiện nhanh chóng, công tác kiểm tra, giám sát được tiến hành chặt chẽ, không
phải qua nhiều khâu trung gian vì vậy tiết kiệm được nhiều chi phí quản lý doanh
nghiệp.
DNVVN có số lao động không lớn nên mối quan hệ giữa người quản lý và
người lao động khá chặt chẽ, gắn bó, tạo môi trường làm việc tốt.Việc tiếp xúc,
gần gũi để nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của người lao động dễ dàng, tạo
điều kiện cho nhà quản lý trong việc đưa ra các chính sách quản lý phù hợp, giúp
người lao động phát huy hết được khả năng của mình.
Hạn chế
Thứ nhất: Quy mô vốn nhỏ là một thuận lợi nhưng cũng lại là một khó khăn
chủ yếu của các DNVVN. Các DNVVN thường gặp nhiều trở ngại trong việc vay
vốn do năng lực vốn nội tại của các doanh nghiệp này còn hạn chế. Ở nước ta, có
khoảng 42% doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 1 tỷ đồng; từ 1 đến 5 tỷ chiếm
47%; từ 5 đến 10 tỷ chiếm 8%; còn lại hơn 10 tỷ đồng. Với số vốn tự có nhỏ bé

như thế nên 90% số doanh nghiệp phải tự huy động, vay vốn các nguồn để sản
xuất kinh doanh. Nguồn vay chủ yếu của các DNVVN là tín dụng ngân hàng, tuy
nhiên các doanh nghiệp lại thường khó tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng của
các ngân hàng do thiếu tài sản có giá trị lớn để thế chấp. Việc thiếu vốn sẽ làm
doanh nghiệp bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh, gặp khó khăn trong việc mua sắm các
thiết bị máy móc, mở rộng sản xuất.
Thứ hai: Máy móc ít, công nghệ lạc hậu, khả năng và điều kiện áp dụng tiến
bộ kĩ thuật rất hạn chế, lao động thủ công nhiều là một trong những hạn chế của
các DNVVN. Hạn chế này cũng bắt nguồn từ việc thiếu vốn của DNVVN. Tỷ lệ
đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với
20% của thế giới. Đây chính là nguyên nhân của tình trạng lãng phí trong sử
dụng năng lượng, nguyên vật liệu và ô nhiễm môi trường. Công nghệ lạc hậu
làm tăng chi phí lên 1,5 lần đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá
thành cao và nâng suất thấp
Thứ ba: Năng lực quản lý, điều hành của người lãnh đạo và chất lượng lao
động tác nghiệp còn thấp. Do trong các DNVVN người sở hữu vốn đồng thời là
người quản lý, chủ doanh nghiệp nên hiểu biết về quản trị doanh nghiệp còn
nhiều hạn chế. Số lượng công nhân và người đứng đầu công ty được đào tạo chỉ
chiếm hơn 20%. Cơ cấu nghề nghiệp không cân đối, phần lớn đào tạo ngắn hạn,
rất ít nhân sự kĩ thuật và kĩ thuật đầu đàn, năng suất lao động thấp, năng lực quản
lý yếu. Những người lãnh đạo các DNVVN thường không có sự hiểu biết cặn kẽ
về luật lệ kinh doanh trong nước cũng như luật lệ quốc tế.
Thứ tư: DNVVN có thị trường chỉ chiếm một thị phần nhỏ nên họ gặp nhiều
áp lực về thâu tóm, xoá sổ từ phía các doanh nghiệp lớn. Việc phát triển thị
trường, thương trường, xây dựng thương hiệu của các DNVVN mới ở giai đoạn
đầu. Các DNVVN chưa thật sự chú trọng đến việc mở rộng thị trường, chưa chú
trọng đầu tư vào khâu phân tích, dự đoán xu thế chung của thị trường để phát
triển và xây dựng những chiến lược lâu dài mà chủ yếu chỉ kinh doanh mang tính
chất thời vụ đáp ứng nhu cầu tức thì của thị trường.
1.2.1.3 Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế

Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và triển khai Luật
doanh nghiệp, các DNVVN ở Việt Nam đã phát triển một cách nhanh chóng.
Đến nay cả nước có trên 200.000 đơn vị, chiếm 97% số doanh nghiệp, sử dụng
hơn 30% số lao động xã hội, làm ra gần 40% mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu,
chiếm 1/3 tổng thu ngân sách quốc gia. Với vị trí và đóng góp nói trên, doanh
nghiệp vừa và nhỏ đang là nhân tố quan trọng trong việc “ổn định kinh tế vĩ mô -
bảo đảm an sinh xã hội” của đất nước. Những đóng góp của các DNVVN cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia là rất lớn và không thể phủ nhận,
được thể hiện cụ thể như sau:
 Đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế
Các DNVVN được đánh giá là một bộ phận năng động, hoạt động có hiệu
quả của nền kinh tế. Sự phát triển nhanh các DNVVN về cả chất lượng và số
lượng đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng thu nhập cho
các nước.
Các DNVVN ở Việt Nam cung cấp ra thị trường nhiều loại hàng hoá khác
nhau đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. DNVVN hoạt động đa
dạng ở mọi ngành nghề, trong mọi thành phần kinh tế, sức lan toả của các doanh
nghiệp này vào các lĩnh vực của đời sống xã hội là rất lớn. Với ưu thế là quy mô
nhỏ, các DNVVN có thể hoạt động ở trong cả các lĩnh vực mà các doanh nghiệp
lớn không muốn tham gia, có thể thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà
doanh nghiệp lớn khó có thể vươn tới nên nó có khả năng thoả mãn mọi nhu cầu
về sản phẩm dịch vụ dù nhỏ nhất của mọi tầng lớp xã hội. DNVVN của Việt
Nam đã đóng góp hơn 40% GDP, luôn duy trì tốc độ tăng trưởng trên 18%, đóng
góp trn 30% tổng thu ngân sách nhà nước. Đây là bộ phận có vai trò quan trọng
trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ, là vệ tinh gắn
kết, hỗ trợ thúc đẩy phát triển của các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.
 Tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu
Trong những năm qua, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
mở rộng và khuyến khích thương mại quốc tế, tạo điều kiện cho mọi thành phần

kinh doanh xuất nhập khẩu, DNVVN nhất là các doanh nghiệp kinh doanh các
mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản, thuỷ sản đã chủ động tìm kiếm
và khai thác thị trường quốc tế, qua đó tích cực tăng kim ngạch xuất khẩu, thu
ngoại tệ cho đất nước. Với những ưu thế về ngành nghề, tính nhạy cảm của thị
trường cao, các DNVVN có nhiều thuận lợi trong việc sản xuất và cung ứng các
sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Số lượng
DNVVN tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu chiếm 80,6%, nhập khẩu chiếm
84,2% tổng số doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu trong cả nước.
 Tăng việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
Với số lượng các DNVVN chiếm 97% tổng số doanh nghiệp nên tạo ra việc
làm cho một số lượng lớn người lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp. Do
sự phân bố rộng khắp và khá đa dạng trong ngành nghề kinh doanh, hơn nữa lại
không đòi hỏi trình độ cao, DNVVN đã và đang thu hút rất nhiều lao động ở
thành thị và nông thôn, từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động,
cải thiện đời sống và hạn chế các tệ nạn xã hội. Các DNVVN cung cấp khoảng
50% khối lượng việc làm cho nền kinh tế. Các DNVVN đã đóng góp một phần
đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế.
 Tạo sự năng động, hiệu quả và góp phần làm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế
Với ưu thế về tính linh hoạt và lượng vốn yêu cầu tương đối nhỏ, DNVVN
có khả năng chuyển đổi mặt hàng, chuyển đổi hướng sản xuất, đổi mới công
nghệ cho phù hợp với môi trường kinh doanh. Các DNVVN cũng linh hoạt trong
việc chuyển hướng kinh doanh từ các ngành nghề kém hiệu quả sang các ngành
khác hiệu qủa hơn, thoả mãn nhu cầu của dân cư một cách tốt nhất. Chính vì vậy,
các DNVVN làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự phát triển nhanh chóng của
các DNVVN cả về chất lượng và số lượng đã làm tăng tính cạnh tranh, tính linh
hoạt cho nền kinh tế.
Với việc rất nhiều các DNVVN được thành lập tại các vùng nông thôn,
miền núi, vùng sâu vùng xa đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, làm giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và

dịch vụ. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế nhờ sự phát triển của các khu vực nông thôn
qua phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông
thôn, xoá dần tình trạng thuần nông độc canh, tạo sự phát triển đồng đều. Sự phát
triển của các DNVVN ở thành thị cũng góp phần làm tăng tỷ trọng khu vực công
nghiệp, dịch vụ làm thu hẹp dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế
quốc dân.
Nhận thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò đặc biệt quan trọng trong
nền kinh tế, trong việc huy động tối đa nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, sản
xuất hàng tiêu dùng, xuất khẩu, giải quyết việc làm và nộp ngân sách cho Nhà
nước, Chính phủ đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển loại hình doanh
nghiệp này. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Chỉ thị số 40/2005/CT-TTg về việc tiếp tục
đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Chỉ thị số
09/2005/CT-TTg về tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi và hỗ trợ doanh
nghiệp phát triển. Chính điều này đã tạo điều kiện cho các DNVVN phát triển
nhanh về số lượng và chất lượng hoạt động trong thời gian qua.
1.2.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng
thương mại
1.2.2.1 Khái niệm cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng
thương mại
Cho vay là hoạt động quan trọng và có quy mô lớn nhất trong toàn bộ hoạt
động của NHTM. Phần lớn vốn huy động được ngân hàng dùng để cho vay. Thu
nhập từ hoạt động cho vay đóng góp lớn vào lợi nhuận của ngân hàng.
Cho vay khách hàng doanh nghiệp là loại cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Điều này không chỉ đúng với các nước
đang phát triển mà còn đúng với cả những nước có thị trường tài chính phát
triển. Cho vay doanh nghiệp chiếm khoảng 70% hoạt động cho vay của các ngân
hàng.
Với việc các DNVVN chiếm đa số trong tổng số các doanh nghiệp của nền
kinh tế, nhu cầu vốn của bộ phận doanh nghiệp này là không hề nhỏ và đặc biệt

nhu cầu vay vốn của các ngân hàng là rất lớn. Chính vì vậy, cho vay các
DNVVN đang được rất nhiều NHTM quan tâm hiện nay.
Cho vay đối với DNVVN tại NHTM là một hình thức cấp tín dụng theo đó
NHTM giao cho DNVVN một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích nhất định
theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
1.2.2.2 Các hình thức cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các NHTM hiện này áp dụng một số hình thức cho vay cơ bản đối với
DNVVN là cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân
chuyển, ngoài ra còn có cho vay hợp vốn, cho vay thấu chi, cho vay tài trợ dự án
và một số hình thức cho vay khác.
• Cho vay trực tiếp từng lần
Là hình thức cho vay khá phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng
không có nhu cầu vốn thường xuyên hoặc ngân hàng muốn kiểm tra, giám sát
việc sử dụng vốn vay chặt chẽ hơn.
Đối với hình thức này doanh nghiệp phải tiến hành đủ các thủ tục cần thiết
và kí kết hợp đồng tín dụng mỗi lần vay vốn. Khi có nhu cầu, doanh nghiệp đến
ngân hàng xin vay một khoản tiền cho mục đích sử dụng của doanh nghiệp như
thanh toán tiền hàng, nguyên vật liệu cũng như các chi phí sản xuất kinh doanh
khác.
Số tiền cho vay của ngân hàng được xác định dựa trên nhu cầu vay vốn của
doanh nghiệp, tài sản đảm bảo và khả năng hoàn trả của doanh nghiệp cũng như
khả năng nguồn vốn của ngân hàng. Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ được xác
định tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo từng
kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách
hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả, nếu thấy
dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá
hạn.
• Cho vay theo hạn mức
Là hình thức cho vay mà ngân hàng và doanh nghiệp xác định và thoả thuận
một hạn mức tín dụng được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Hạn

mức tín dụng là mức dư nợ tối đa được duy trì trong một khoảng thời gian nhất
định mà ngân hàng và doanh nghiệp đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng thường được áp dụng đối với các
doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn – trả nợ thường xuyên, vốn vay tham gia
thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh và có uy tín với ngân hàng. Hạn
mức tín dụng được xác định trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh và nhu cầu
vốn vay của doanh nghiệp.
Trong kì khách hàng có thể thực hiện vay và trả nhiều lần song dư nợ
không được vượt quá hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay, doanh nghiệp chỉ cần trình
bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ cần thiết. Sau khi kiểm tra
tính hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ chi tiền cho khách hàng.
Trong hình thức cho vay này, ngân hàng không xác định trước kì hạn trả nợ
và thời hạn tín dụng. Khi doanh nghiệp có thu nhập ngân hàng sẽ thu nợ, do đó
tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, do các lần vay
không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả
sử dụng từng lần vay, mà chỉ có thể phát hiện vấn đề khi doanh nghiệp nộp báo
cáo tài chính hay dư nợ lâu không giảm sút.
• Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng cho phép người vay được chi
trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong
khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là
không có tài sản đảm bảo. Hình thức này có thể cấp cho cả các cá nhân lẫn các
doanh nghiệp vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để chi trả lương,
chi trả các khoản phải nộp, mua hàng… Đối tượng áp dụng hình thức cho vay
này thường là những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu
nhập ngắn.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng cấp hạn mức thấu chi. Khi
được ngân hàng chấp nhận, trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc,
mua thẻ, lập uỷ nhiệm chi…vượt quá số dư tiền gửi để chi trả.

Số tiền chi vượt quá của khách hàng phải nằm trong hạn mức thấu chi. Các
khoản chi vượt quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và đình chỉ sử dụng
hình thức này. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ
thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả được tính theo công thức:
Lãi phải trả = Lãi suất thấu chi × Thời gian thấu chi × Số tiền thấu chi
Thấu chi dựa trên cơ sở thu chi của khách hàng, vì vậy, sự không phù hợp về
thời gian và quy mô của các khoản thu và chi sẽ được giải quyết. Do đó, hình
thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh
toán: chủ động, nhanh, kịp thời.
• Cho vay luân chuyển
Là nghiệp vụ cho vay dựa vào sự luân chuyển hàng hóa. Khi doanh nghiệp
mua hàng có thể sẽ gặp phải tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời, do đó doanh
nghiệp có thể yêu cầu ngân hàng cho vay và ngân hàng sẽ thu nợ khi doanh
nghiệp bán được hàng.
Đầu thời kì kinh doanh, doanh nghiệp muốn vay vốn cần làm đơn xin vay
luân chuyển. Doanh nghiệp và ngân hàng sẽ thoả thuận về hạn mức tín dụng,
phương thức giải ngân, trả nợ, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu
thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong một hay vài năm. Đây là
thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với doanh nghiệp và quyết định
sẽ cho vay nữa hay không tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa ngân hàng và khách
hàng cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Việc cho vay dựa vào sự luân chuyển của hàng hóa nên đòi hỏi cả ngân
hàng và doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá, phân
tích được luồng tiền ra vào của doanh nghiệp. Khi có nhu cầu vay vốn, doanh
nghiệp gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn chứng minh việc mua hàng hoá
và số tiền cần vay. Sau đó ngân hàng sẽ xem xét cho vay hay không và trả tiền
cho người bán, theo hình thức này thu nhập bán hàng là nguồn chi trả cho ngân
hàng. Hình thức cho vay này thường được áp dụng đối với doanh nghiệp trong
ngành thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có chu kì tiêu thụ
ngắn ngày, có quan hệ thường xuyên với ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo

tỷ lệ dựa trên khối lượng hàng hoá và chất lượng quan hệ nợ nần của doanh
nghiệp.
1.3Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng
thương mại
1.3.1 Khái niệm chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cho vay khách hàng doanh nghiệp là loại cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong hoạt động cho vay của các NHTM. Đây cũng là hoạt động đem lại lợi
nhuận lớn nhất nhưng cũng là hoạt động phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro
nhất. Chính vì vậy, chất lượng cho vay luôn luôn được các ngân hàng quan tâm.
Chất lượng cho vay được hiểu là sự đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu về
vốn cho DNVVN và được doanh nghiệp đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh
một cách đúng mục đích, có hiệu quả nhất, có thể tạo ra được lượng tiền lớn hơn
để bù đắp chi phí, hoàn trả nợ đầy đủ cho ngân hàng cả gốc và lãi đúng hạn và có
lợi nhuận.
Đứng trên giác độ khác nhau chất lượng chất lượng cho vay đem lại những
lợi ích khác nhau. Trên khía cạnh lợi ích của khách hàng, chất lượng cho vay là
sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng với lãi suất, kì hạn cho vay hợp lý, thủ tục
đơn giản. Đối với ngân hàng, chất lượng cho vay thể hiện ở phạm vi, mức độ,
giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng của bản thân mỗi ngân hàng mà vẫn
đảm bảo được lợi nhuận, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên
thị trường. Đối với nền kinh tế, chất lượng cho vay phải góp phần tạo ra hiệu quả
xã hội như phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, gia
tăng sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và khai thác tiềm năng
trong nền kinh tế.
Trong khuôn khổ bài viết này xin đề cập đến chất lượng cho vay dưới giác
độ của NHTM.
Chất lượng cho vay được thể hiện ở chất lượng của từng khoản vay khác
nhau. Mỗi khoản vay có chất lượng sẽ góp phần tạo nên chất lượng chung của
hoạt động cho vay của mỗi NHTM. Đối với ngân hàng, hoạt động cho vay là
hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Chính vì vậy, chất lượng cho vay có liên

quan mật thiết đến rủi ro cho vay hay hiểu một cách khác là rủi ro tín dụng. Rủi
ro trong hoạt động cho vay là một loại rủi ro chủ yếu của NHTM và luôn luôn
tồn tại trong các ngân hàng. Khi rủi ro tín dụng xảy ra với ngân hàng, các khoản
dư nợ đủ tiêu chuẩn của ngân hàng sẽ giảm đi đồng thời là việc gia tăng các
khoản nợ quá hạn, nợ xấu. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc chất lượng cho vay
theo đó sẽ giảm đi.
Một ngân hàng có chất lượng cho vay thấp sẽ ảnh hưởng tình hình huy
động vốn của ngân hàng, đồng thời cũng ảnh hưởng lớn đến thu nhập của ngân
hàng. Ngược lại, ngân hàng có chất lượng cho vay tốt sẽ thể hiện được tình hình
tài chính lành mạnh, thu nhập ổn định bền vững, nâng cao uy tín ngân hàng và
bảo vệ quyền lợi của khách hàng. Như vậy, chất lượng cho vay là một vấn đề rất
quan trọng đối với mỗi một ngân hàng thương mại và các ngân hàng phải có
những sự quan tâm đúng mức để chất lượng cho vay ngày càng được tốt hơn.
1.3.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ của ngân hàng thương mại
1.3.2.1 Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ trong hoạt động cho
vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả
thuận ghi trong hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kì hạn
nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn. Chỉ
tiêu về nợ quá hạn phản ánh mức độ an toàn của hoạt động cho vay của ngân
hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ =
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề, nợ khó đòi hay
có khả năng mất vốn. Ngân hàng càng có nhiều khoản nợ quá hạn thì chất lượng
cho vay càng thấp và rủi ro càng cao.
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn và nợ quá hạn trên tổng dư nợ cho thấy các khoản
nợ quá hạn cho vay đối với DNVVN chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng dư
nợ đối với DNVVN và trong tổng các khoản cho vay của ngân hàng. Đây là chỉ

tiêu hết sức quan trọng khi đánh giá chất lượng cho vay của ngân hàng, cho thấy
khả năng thu hồi vốn đối với các khoản vay cũng như rủi ro trong hoạt động cho
vay tại ngân hàng. Chỉ tiêu này phản ánh độ an toàn các khoản cho vay nói riêng
và chất lượng hoạt động cho vay nói chung của ngân hàng đối với các DNVVN.
Tỷ lệ nợ quá hạn ở mức quá cao chứng tỏ chất lượng cho vay của ngân hàng
càng kém và ngược lại.
Bên cạnh chỉ tiêu nợ quá hạn, ngân hàng có thể sử dụng tỷ lệ nợ khó đòi
trên tổng dư nợ quá hạn của các DNVVN để xem xét khả năng thu hồi vốn của
mình một cách chính xác hơn.
Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã quá một kỳ gia hạn nợ. Khi đến hạn,
khách hàng không có khả hoàn trả do gặp phải khó khăn trong sản xuất kinh
doanh, ngân hàng thường gia hạn nợ cho khách hàng. Nợ khó đòi là một lời cảnh
báo cho ngân hàng về khả năng thu nợ trở nên mong manh hơn, nguy hiểm hơn.
Cũng giống tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ khó đòi càng cao cũng phản ánh chất
lượng tín dụng càng thấp. Khi tỷ lệ này quá cao sẽ đòi hỏi ngân hàng cần có
những biện pháp cụ thể để nâng cao chất lượng cho vay nhằm giảm thiểu những
tổn thất cho ngân hàng.
1.3.2.2 Lãi thu được từ hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ
Khi đánh giá chất lượng cho vay DNVVN một chỉ tiêu cần xét đến là tỷ
trọng thu lãi từ hoạt động cho vay DNVVN trong tổng lãi thu được từ hoạt động
cho vay của ngân hàng.
Lãi thu được từ hoạt động cho vay đối với DNVVN được tính từ các khoản
cho vay đối với DNVVN của ngân hàng trong một chu kỳ kinh doanh (thường
được tính là một năm). Lãi thu được càng cao và tăng dần qua các năm cho thấy
chất lượng cho vay đối với DNVVN càng tốt và ổn định.
Tỷ lệ (lãi thu được từ cho vay đối với DNVVN) /( tổng lãi thu được từ hoạt
động cho vay của ngân hàng) phản ánh phần trăm lãi thu từ cho vay đối với
DNVVN trong tổng lãi thu được từ cho vay của ngân hàng. Tỷ lệ này càng cao
chứng tỏ hoạt động cho vay đối với DNVVN của ngân hàng phát triển và có chất
lượng.

1.3.2.3 Thu nhập từ hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hoạt động cho vay, đặc biệt là cho vay doanh nghiệp là hoạt động cơ bản mang
lại thu nhập cao cho ngân hàng. Vì thế, để đánh giá chất lượng cho vay đối với
DNVVN phải xem xét đến tỷ trọng thu nhập của hoạt động cho vay DNVVN
trong tổng thu nhập của Ngân hàng. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ khả năng
sinh lời của các khoản vay càng lớn và cho thấy chất lượng của khoản cho vay
càng tốt và ngược lại
Để đánh giá được đúng chất lượng hoạt động cho vay DNVVN của NHTM
cần kết hợp phân tích các chỉ tiêu với nhau, từ đó đánh giá những kết quả đạt
được và hạn chế mà ngân hàng cần khắc phục. Để khắc phục được những điểm

×