Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Góp phần bảo tồn tục lệ cưới hỏi truyền thống của dân tộc mường huyện kim bôi tỉnh hoà bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.3 KB, 45 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (54 dân tôc), dân tộc nào cũng có
một lịch sử lậu dài và có một nền văn hóa cổ truyền giàu bản sắc - từ người
H’Mông trên đỉnh núi cao bốn mùa sương mù hay đến người Sán Dìu trên đất
trung du đá sỏi cho đến người Việt, Khơme trên những cánh đồng châu thổ tất
cả đều tạo nên vóc dáng Việt Nam đa phong tục, đa bản sắc, giàu tính nhân
văn.
Trong cuộc sống hằng ngày những nét truyền thống văn hóa của nhiều
dân tộc đang bị biến đổi bởi sự giao lưu kinh tế văn hóa các dân tộc trong và
ngoài nước. vì vậy hơn bao giờ hết chúng ta phải nhìn nhận thật nghiêm túc
vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc của từng dân tộc trong đại gia đình Việt Nam.
Hòa Bình – địa danh thường biết đến là cái nôi của người Mường.
người Mường là dân tộc đứng hàng thứ năm trong 54 dân tộc Việt Nam về số
[4]. Ở mảnh đất quần cư đã bao đời, người Mường đã tạo cho mình những
quy ước mang tính cộng đồng rộng rãi và từ những quy ước ấy đã tạo nên bản
sắc riêng và các giá trị văn hóa của dân tộc này. Qua nhiều giai đoạn lịch sử
bản sắc ấy lại làm giàu thêm, phong phú thêm. Trong đó giá trị văn hóa thiêng
liêng đáng nhớ nhất trong mỗi cuộc đời con người đó chính là ngày cưới. Lễ
cưới là thời điểm xác lập quan hệ vợ, chồng giữa đôi nam nữ trước sự chứng
kiến của họ hàng, bè bạn. Ở mỗi dân tộc lễ cưới đề được thực hiện theo những
nghi lễ khác nhau, nhưng có một điểm chung của những nghi lễ này đó đều là
những phương thức để cộng đồng thừa nhận quan hệ hôn nhân giữa người con
trai và người con gái.
Là người con của dân tộc Mường, sinh ra và lớn lên trên bản Mường,
huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình, ngay từ đầu tôi đã được tiếp xúc và ít nhiều


Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

hiểu biết phần nào về phong tục tập quán của đồng bào dân tộc miền núi trong
đó có người Mường. Nên việc nghiên cứu các phong tục tập quán của người
dân tộc miền núi cụ thể là người Mường nhằm bảo tồn và giữ gìn nét truyền
thống tốt đẹp văn hóa của người Mường, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. Từ
đó ta có thể bảo tồn những phong tục tập quán, thuần phong mĩ tục của những
dân tộc miền núi và thiểu số đang mỗi ngày bị mai một, và có thể rút ra kết
luận và giải pháp để bảo tồn những phong tục, tập quán mang tính tích cực và
khắc phục những hủ tục vẫn còn tái diễn trong các lễ cưới ở các vùng dân tộc,
miền núi bây giờ, do vậy tôi chọn đề tài “góp phần bảo tồn tục lệ cưới hỏi
truyền thống của dân tộc Mường huyện Kim Bôi tỉnh Hòa Bình”
2. Mục đích của đề tài
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu về tục lệ cưới xin truyền
thống của dân tộc Mường ở huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình.
- Từ đó có được kết luận và các giải pháp khôi phục những nét đẹp
trong đám cưới người Mường đang có xu hướng mai một dần, cũng từ đó có
được những kiến nghị để khắc phục những hủ tục không nên có để giảm bớt
những chi phí không cần thiết trong đám cưới.
- Cung cấp thông tin cho chính quyền địa phương, các cơ quan nhà
nước các tổ chức đảng và các nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc để bảo tồn
nhiều hơn nữa những tập quán của người Mường đang có nhiều chiều hướng
bị mai một và xóa bỏ những hủ tục không nên trong đời sống hay trong cưới

xin bây giờ.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Đặc điểm tự nhiên, văn hoá xã hội của huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình.
- Các bước tiến hành một lễ cưới của người Mường ở huyện Kim Bôi,
tỉnh Hoà Bình.

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Đề tài có ý nghĩa thiết thực trong việc góp phần bảo tồn các giá trị văn
hoá truyền thống của người Mường.
- Các giải pháp mà đề tài đưa ra có thể được áp dụng để bảo tồn các
giái trị văn hoá tương tự.

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình


CHƯƠNG 1. PHƯƠNG PHÁP, THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU

1.1. Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra thực địa từ:
+ Đi thực tế tìm hiểu điều kiện tự nhiên, xã hội của huyện Kim
Bôi, tỉnh Hoà Bình.
+ Đi thực tế tìm hiểu phong tục tập quán cưới xin của dân tộc
Mường sinh sống tại huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình.
- Phát vấn
Điều tra người dân, chính quyền địa phương, trung tâm văn hoá huyện
Kim Bôi về phong tục tập quán cưới xin.
- Tra cứu thông tin trên các nguồn tài liệu: báo chí, sách vở, internet…
- Xử lí số liệu theo phương pháp thống kê thông thường
1.2. Thời gian nghiên cứu
- Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài từ ngày 10 tháng 8 năm 2008 đến
tháng 4 năm 2010.
1.3. Địa điểm nghiên cứu
- Trong quá trình tiến hành nghiên cứu tôi đã tiến hành triển khai cụ thể
trên địa bàn các xóm, thôn trong các xã Sơn Thủy, xã Vĩnh Đồng, xã Vĩnh
Tiến xã Nật Sơn của huyện Kim Bôi tỉnh Hòa Bình
- Ngoài ra tôi còn tiến hành khai thác thông tin ở các UBND xã và
trung tâm văn hóa huyện, UBND huyện Kim Bôi tỉnh Hòa Bình.
.

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu nguồn gốc dân tộc Mường
Không phải ngay từ buổi đầu lịch sử, dân tộc Mường đã có tộc danh
như ngày nay. Và đương nhiên trước đây, người Mường cũng không dùng
danh từ này làm tên gọi cho dân tộc mình. Theo Trần Từ (tức Nguyễn Đức Từ
Chi),[4] Mường là từ dùng để chỉ một vùng cư trú của đồng bào bao gồm
nhiều làng. Mỗi vùng được đặt dưới sự cai quản của một nhà Lang. Qua sự
tiếp xúc giao lưu giữa người Mường và người Kinh, người Kinh đã sử dụng
từ Mường để gọi dân tộc này. Cho đến tận bây giờ, Người Mường vẫn từ gọi
mình là mol, moăn như ở Hoà Bình; Mon, mwanl như ở Thanh Hoá. Còn ở
Phú Thọ, đặc biệt là ở Thanh Sơn, nơi Người Mường tập trung đông đảo nhất
cũng như Người Mường ở huyện Yên Lập và một số xã thuộc huyện Thanh
Thuỷ đồng bào tự gọi mình là Mol, Monl. Mặc dù những từ này có biến âm
hơi khác ở mỗi vùng, mỗi địa phương nhưng đều quan niệm giống nhau về
mặt nghĩa. Tất cả những từ mà đồng bào dùng để chỉ dân tộc mình có nghĩa là
người. Vì lẽ đó mà người Mường thường tự xưng mình là con Mol hoặc là
con monl: con người. Còn từ Mường vốn là từ mương đồng bào dùng để chỉ
nơi cư trú chứ không liên quan gì đến tộc danh ngày nay của mình. Mặc dù
vậy cùng sự biến động của lịch sử cũng như quá trình giao lưu kinh tế, văn
hoá với các dân tộc anh em khác cho đến nay “Mường” đã được đồng bào
chấp nhận và coi đó là tộc danh của mình, và hiển nhiên, họ tự nhận mình là
người Mường như ngày nay. Do đó, Mường đã trở thành tên gọi chính thức
và duy nhất của tộc người này để phân biệt với các dân tộc khác. Tộc danh
Mường đã được các tổ chức, thể chế, các nhà nghiên cứu và nhân dân dùng
khi tìm hiểu, nghiên cứu và gọi dân tộc này là Người Mường.


Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

Cũng như các dân tộc khác, để lý giải về nguồn gốc của dân tộc mình,
dân gian Mường Thanh Sơn còn lưu giữ và truyền kể những huyền thoại về
sự xuất hiện dân tộc mình. Mặc dù vậy, những truyền thuyết đó được lưu
truyền chủ yếu dưới dạng các bản mo hát với dài ngắn khác nhau.
2.2. Nét văn hoá truyền thống dân tộc Mường
Dân tộc Mường có trên 914.596 người. Đồng bào Mường cư trú ở
nhiều tỉnh phía Bắc, nhưng tập trung đông nhất là ở Hòa Bình và các huyện
miền núi tỉnh Thanh Hóa [1].
Đồng bào Mường sống định canh định cư miền núi, nơi có nhiều đất
sản xuất, gần đường giao thông, thuận tiện cho việc làm ăn. Người Mường
làm ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương thực chủ yếu. Trước đây, đồng
bào trồng lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ và gạo nếp là lương thực ăn hàng ngày.
Nguồn kinh tế phụ đáng kể của gia đình người Mường là khai thác lâm thổ
sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, quế, mật ong, gỗ, tre, nứa,
mây, song... Nghề thủ công tiêu biểu của người Mường là dệt vải, đan lát,
ươm tơ. Nhiều phụ nữ Mường dệt thủ công với kỹ nghệ khá tinh xảo.
Trang phục của nam giới Mường là bộ quần áo cánh màu chàm. Phụ nữ
đội khăn màu trắng hình chữ nhật, mặc yếm và áo cánh ngắn thân có xẻ ngực
(có nơi xẻ vai), ít cài cúc. Váy của phụ nữ Mường khá dài, mặc cao đến nách.
Những chiếc cạp váy được dệt bằng tơ nhuộm màu, tạo những hoa văn hình
học và những hình con rồng, phượng, hươu, chim... tuyệt đẹp.

Xưa kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người Mường là chế độ
lang đạo, các dòng họ lang đạo (Đinh, Quách, Bạch, Hà) chia nhau cai quản
các vùng. Đứng đầu mỗi mường có các lang cun, dưới lang cun có các lang
xóm hoặc đạo xóm, cai quản một xóm.
Tục cưới xin của người Mường gần giống như người Kinh (chạm ngõ,
ăn hỏi, xin cưới và đón dâu). Khi trong nhà có người sinh nở, đồng bào rào

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

cầu thang chính bằng phên nứa. Khi trẻ lớn khoảng một tuổi mới đặt tên. Khi
có người chết, tang lễ thường có thầy cúng hát - kể về buổi khai thiên lập địa,
về tổ tiên xưa...
Người Mường thường có câu tục ngữ: “Cơm đồ, nhà gác, nước vác,
lợn thui, ngày lui tháng tới” [1]. Nghĩa là “cơm đồ” ở đây là cơm nếp được đồ
bằng một khúc cây gỗ được khoét ở giữa dùng để đồ xôi; “nhà gác” là nhà
sàn, là một nét văn hoá kiến trúc đặc sắc của người Mường; “nước vác” chính
là dụng cụ mà người Mường dùng để đi lấy nước từ các khe suối, dụng cụ này
được làm từ cây bương dài khoảng 2m, các đốt bương được thông với nhau,
riêng đốt cuối thì để nguyên và được vác trên vai nên mới gọi là nước vác.
Nói đến ẩm thực thì người Mường cũng là một trong những dân tộc có nét
khá độc đáo về ẩm thực. Khi nói đến “lợn thui” hay nói đến cơm lam và rượu
cần là nói đến một trong những đặc sản của người Mường; còn “ngày lui
tháng tới” thì đây là một cách tính lịch của người Mường: đó là một cách tính

lịch rất khác bịêt so với lịch người Kinh hoặc các dân tộc khác, người Mường
tính lịch âm luôn lùi sau một ngày so với lịch âm của người Kinh (nếu lịch âm
của người Kinh là ngay mồng 05 thì người Mường là ngày mồng 04), nhưng
tháng của người Mường thì lại nhanh hơn tháng âm của người Kinh một
tháng trong lịch âm.
2.3. Nghiên cứu về các phong tục tập quán người Mường huyện Kim Bôi,
tỉnh Hoà Bình
Người Mường có nhiều ngày lễ hội hằng năm: Hội xuống đồng
(Khuông mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa (tháng 7, 8 âm lịch), lễ
cơm mới...[3].
Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mường khá phong phú, có các
thể loại: thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ. Người Mường
còn có hát ru em, đồng dao, hát đập hoa, hát đố, hát trẻ con chơi... Cồng là

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

nhạc cụ đặc sắc của đồng bào Mường, ngoài ra còn nhị, sáo, trống, khèn lù.
Người Mường còn dùng ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà, tạo thành
những âm thanh để thưởng thức gọi là ''đâm đuống''.
Ngoài các lễ hội chính ra thì nét văn hoá đặc sắc ẩn sâu trong nếp ăn,ở
của người Mường đã được đúc kết sau bao đời quần cư, đó chính là những nét
văn hoá trong cưới xin, ma chay, giỗ chạp nhìn bề ngoài ta tưởng chừng như
rất bình thường nhưng đều ẩn chứa bên trong là cả một kho tàng về văn hóa

truyền thống của một dân tộc. Trong phạm vi công trình cho phép nên đề tài
chỉ có thể được thực hiện nghiên cứu phong tục tập quán cưới xin của người
Mường huyện Kim Bôi tỉnh Hoà Bình.

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
CHƯƠNG 3.

SƠ LƯỢC ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN –VĂN HÓA XÃ HỘI HUYỆN KIM
BÔI TỈNH HÒA BÌNH

3.1. Sơ lược vị trí địa lý
Huyện Kim Bôi nằm ở phần phía đông tỉnh Hoà Bình, có vị trí toạ độ là:
20032’ đến 20049’ vĩ độ Bắc, 105022’ đến 105043’ kinh độ Đông.
Ngày trước, giao thông chưa phát triển, Kim Bôi là vùng sâu ít người
sinh sống, khai khẩn. Người Mường có câu: "Yêu nhau cho thịt cho xôi, Ghét
nhau đưa đến Kim Bôi, Hạ Bì" với hàm ý Kim Bôi là vùng đất khó sinh sống.
Ngày nay, hệ thống giao thông đường bộ phát triển nối Kim Bôi với bên
ngoài.
Quốc lộ 21A chạy gần rìa ranh giới với huyện Mỹ Đức (Hà Tây), gần như
theo hướng Bắc Nam, từ huyện Lương Sơn sang tới huyện Lạc Thủy.
Đường quốc lộ nối đường 21A với đường 6, cắt ngang địa bàn huyện, theo
hướng Tây Bắc Đông Nam, nối đường 21A, tại thị trấn Thanh Hà (xã Thanh
Nông) với đường 6 tại địa điểm gần dốc Cun (huyện Cao Phong) [4].

Đường Hồ Chí Minh mới (đoạn Hòa Lạc - Cúc Phương) chạy qua.
3.1.1. Lịch sử hình thành
Dưới triều Lê, vùng đất Kim Bôi thuộc phủ Gia Hưng, trấn Hưng Hoá.
Đến năm Tự Đức thứ 5 (1851) Kim Bôi là một tổng của huyện Mỹ Lương,
phủ Quốc Oai.
Ngày 22-6-1886, khi tỉnh Mường được thành lập, Kim Bôi là một tổng
của phủ Lương Sơn. Đến năm 1890 phủ Lương sơn được sát nhập về Mỹ
Đức, đến ngày 18-3-1891, sát nhập trở lại tỉnh Hoà Bình và được đổi tên
thành châu Lương Sơn.

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

Trước năm 1959 huyện Kim Bôi vẫn được gọi là châu Lương Sơn, sau
ngày 17-04-1959 huyện Lương Sơn được tách thành 2 huyện Lương Sơn Và
Kim Bôi, gồm có 22 xã rồi tăng lên 27 xã. Năm 1971 lấy thêm 7 xã của huyện
Lương Sơn nằm ở phía đông huyện và từ đó Kim bôi giáp với tỉnh Hà Tây
(nay là TP Hà Nội) đến thời điểm năm 2008 thì Kim Bôi có 35 xã và 2 thị
trấn, [2] sau đó chính phủ ra nghị quyết 31/NQ - CP điều chỉnh ngày 14 tháng
7 năm 2009 điều chỉnh địa giới hành chính của huyện chuyển thị trấn Thanh
Hà và một số xã sang các huyện khác [5].
3.1.2. Đặc điểm tự nhiên
Kim Bôi có tổng diện tích tự nhiên là 551.03 km2 [5]. Phía bắc giáp
huyện Lương Sơn, phía tây giáp huyện Lạc Sơn, Tân Lạc, Kỳ Sơn và thị xã

Hoà Bình, phía nam giáp huyện Lạc Thuỷ, phía đông giáp với Mĩ Đức của
tỉnh Hà Tây (cũ) nay thuộc về Hà Nội.
Địa hình huyện Kim Bôi khá phức tạp bị chia cắt bởi các hệ thống khe
suối, gồm 2/3 diện tích huyện là đồi núi với độ cao trung bình so với mặt
nước biển là 310m [4].
3.1.3. Dân cư
Theo thống kê dân số - gia đình thì dân số toàn huyện đến ngày 01
tháng 04 năm 2009 là 114.015 người. Trong đó dân tộc Mường chiếm khoảng
73%, dân tộc Kinh chiếm 10%, còn lại là dân tộc khác như Dao, Thái,
Tày…[5].
3.1.4. Đặc điểm kinh tế văn hoá – xã hội
Kinh tế toàn huyện chiếm vị trí chủ đạo là ngành nông lâm nghiệp vì từ
xa xưa người dân đã biết dựa vào đồng ruộng và rừng là chính. Cùng với nghề
trồng lúa (lúa nương và lúa nước), người dân còn tăng gia sản xuất với những
hoạt động kinh tế phụ gia đình, từ chăn nuôi, làm vườn, dệt vải, đan lát.. đến
săn bắn và hái lượm. Cần phải nói rằng mặc dù những hoạt động này không

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

phải là lao động sản xuất chính nhằm đảm bảo cuộc sống của người dân
trong huyện nhưng những nghề phụ này lại đóng vai trò tương đối quan trọng
trong việc cung cấp nhu yếu phẩm trong đời sống hàng ngày của họ.
Ngoài những đặc điểm kinh tế trọng điểm về nghề chính của đồng bào

dân tộc thì huyện được phát triển thế mạnh về ngành kinh tế không khói đó là
ngành du lịch, đến với Kim Bôi bạn sẽ được thưởng thức cơm lam, rượu cần
và được hoà mình trong suối nước nóng; ngoài ra còn có khu du lịch sinh thái,
khu du lịch thác bạc long cung và rất nhiều điểm du lịch khác nữa.

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình
CHƯƠNG 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. Các quan niệm, quy tắc và các tiêu chí chọn vợ của người Mường ở
vùng Kim Bôi tỉnh Hoà Bình
4.2. Quan niệm về cưới xin dân tộc Mường
Quan niệm về cưới xin của người Mường ở vùng này là con cái lớn lên
đến tuổi lấy vợ, lấy chồng thì phải dựng vợ gả chồng để bố mẹ khi về già có
người trông cậy. Nam nữ người Mường thường kết hôn ở độ tuổi 16 – 17 vì
họ cho rằng đây là lứa tuổi thích hợp nhất, khi đó ông bà có sức khoẻ chăm
sóc con cháu, người già sẽ có cháu đỡ đần nối dõi và thờ cúng hương hoa tổ
tiên, gia đình nào có con, cháu đông đúc là gia đình đó có phúc lớn. Đây là
quan niệm quan trọng nhất trong cưới xin của họ.
Người Mường chủ yếu sống thuần nông lâu đời nên mỗi gia đình cần
nhiều nhân lực để sản xuất, vì vậy họ có quan niệm lấy vợ sớm cho con, cháu
để tăng thêm nhân lực lao động trong gia đình. Do vậy họ thường lấy vợ lấy

chồng rất sớm.
Tuy vậy người Mường Kim Bôi cũng như người Mường ở các vùng
khác cũng có quan niệm về con cháu nối dõi, chỗ dựa khi về già. Bởi vậy việc
duy trì nòi giống là yếu tố quan trọng để tồn tại thế giới con người. Ở đây ta
xét một góc độ dòng họ thì việc sinh con cháu nối dõi tông đường là một tất
yếu. Đặc biệt hơn, họ còn ảnh hưởng bởi lối sống phong kiến nên sinh cháu
trai là một yêu cầu hàng đầu đối với mỗi cặp vợ chồng trẻ, mà nhất là cặp vợ
chồng mà chồng là con trưởng. Vì đây cũng là quan niệm ở hầu hết các dân
tộc, chứ không riêng dân tộc Mường.

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

4.3. Một số quy tắc cơ bản trong cưới xin
Đối với người Mường huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình thì nguyên tắc
chung thuỷ là hàng đầu, bởi lẽ trong tư tưởng người Mường thì họ không
chấp nhận chuyện vợ cả, vợ lẽ, nếu vậy sẽ bị hàng xóm chê bai, kinh miệt và
họ chỉ “một vợ, một chồng”. Tuy vậy trong thời kỳ “nhà Lang”, Lang được
lấy đa thê, nhiều thiếp. Bởi quyền lực tập trung trong tay nhà Lang.
Người Mường có quan niệm giống với người Việt là “xuất giá tòng
phu” nghĩa là lấy chồng phải theo chồng. Hơn nữa trong chế độ phụ quyền
con trai được cho là trụ cột trong gia đình, nên trường hợp đi ở rể là rất ít, dù
khó khăn nhưng họ vẫn cố gắng để không phải đi ở rể. Đây là quy tắc chung
của người Mường.

Không chỉ người Mường huyện Kim Bôi mà người Mường ở nơi khác
cũng vậy họ rất tôn trọng và phải tuân theo nguyên tắc ngoại hôn rất nghiêm
ngặt. Cụ thể là: những người trong cùng dòng họ không được lấy nhau, mặc
dù đã xa đến mấy đời cũng không được lấy nhau. Nguyên tắc này rất ít người
vi phạm vì họ được bố mẹ, họ hàng truyền dạy. Họ cho rằng người cùng họ
lấy nhau thì con cái không được lành lặn và phạm tội loạn luân lý, bị đuổi ra
khỏi dòng tộc. Trong chế độ phong kiến, chế độ nhà Lang, chỉ những người
trong họ lớn: Đinh, Quách, Bạch, Hoàng mới được lấy nhau; còn họ không có
quyền lực, họ bé thì không được lấy người những họ này. Quy tắc này cho ta
thấy sự phân biệt đẳng cấp rõ rệt. Tuy nhiên với một số tộc người thì họ chỉ
quy định sau ba đời thì sẽ chấp nhận: như Tày, Nùng…
4.4. Tiêu chí chọn vợ, chọn chồng
Trong thời kỳ phong kiến còn tồn tại sâu sắc tư tưởng “bố mẹ đặt đâu
con ngồi đấy” đó là tư tưởng cứng nhắc của bố mẹ. Như vậy con cái không có
quyền lựa chọn bạn đời mà nhất nhất phải theo sự sắp đặt toàn quyền của bố
mẹ.

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

Trong xã hội người Mường kinh tế là yếu tố quan trọng nhất trong tiêu
chí chọn vợ, chọn chồng. Những gia đình phong kiến thường chọn những gia
đình khá giả, môn đăng hộ đối. Vì thế những gia đình nghèo rất khó lấy vợ,
lấy chồng cho con cái mình. Không chỉ vậy, đối với họ, một người con rể tốt,

lý tưởng là người có sức khoẻ, biết làm ruộng, làm vườn, thành thạo công
việc: cày, bừa, đan lát …. Nhưng yếu tố quan trọng nhất là gốc gác của người
con rể. Họ thường có câu “lấy chồng xem họ”, như vậy việc xem xét về họ
hàng gốc gác là mang ý nghĩa quyết định trong hôn nhân. Do vậy, những
dòng họ đoàn kết khá giả, hoà nhã với mọi người trong xóm, tốt bụng, không
có bệnh di truyền thì rất dễ lấy vợ gả chồng cho con cháu.
Trong khi đó tiêu chí chọn một cô con dâu lại kĩ càng hơn: một người
con dâu được cho là lý tưởng phải là một người ngoan ngoãn, chăm chỉ, hiền
lành, luôn lễ phép với mọi người, biết cấy hái, “nữ công gia chánh”, có họ
hàng đoàn kết, đông đúc. Ngoài ra, để chọn một người con dâu trưởng, yêu
cầu họ phải là người am hiểu các tục lệ, lễ nghi, nhanh nhẹn, giao tiếp tốt.
Như vậy người Mường đề cao cái “nết” ở người phụ nữ chứ không tôn vinh
vẻ đẹp bên ngoài, đó là cách nhìn nhận đúng. Tiêu chí chọn vợ chọn chồng
của người Mường xuất phát từ mong muốn của bố mẹ về cuộc sống hạnh
phúc ấm no và giữ được tình đoàn kết họ hàng cho con cái mình. Đó là nét
đẹp trong nếp sống của người Mường. Họ rất coi trọng cuộc sống gia đình,
tình đoàn kết giữa mọi người. Tất cả những tiêu chí đó cho ta thấy cách nhìn
và quan niệm về cái đẹp của họ không phải đơn thuần mà là tổng thể từ nhiều
yếu tố. Đó cũng là những tiêu chí làm cho người con gái của bản Mường ngày
một hoàn thiện về mình hơn. Vậy nên những người con gái được nhà trai
chọn phải luôn là niềm tự hào của bố mẹ họ hàng.

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình


4.5 Các bước chính trong lễ cưới của người Mường Kim Bôi – Hoà Bình
4.5.1. Tục lệ trước khi cưới
Khi gia đình nhà trai đã để ý chọn được người ưng ý thì họ chọn một
người có uy tín, khéo léo ăn nói, được kính trọng trong làng, gia đình hạnh
phúc và đầy đủ vợ chồng, con trai, con gái làm ông mối. Vai trò của ông mối
được đề cao vì ông mối là người quan trọng trong các lễ, từ lễ đầu tiên là
chạm ngõ đến kết thúc lễ cưới đều cần thiết phải có sự hiện diện của ông mối.
4.5.2. Lễ ướm hỏi
Ngay sau khi đã tìm được bạn ưng ý, chàng trai về báo cáo với cha mẹ
để tìm người làm mối đến nhà cô gái thưa chuyện. Người làm mối sau khi
hiểu sơ qua về cô gái, gia cảnh của cô, ông mối đến nhà để dạm tiếng. Người
làm mối thưa chuyện với gia đình nhà gái cho chàng trai được đi lại kết thân.
Lần đi đầu tiên này người làm mối không mang theo lễ vật gì, nhà gái cũng
chỉ nói lời cảm ơn với nhà trai đã có lời và hẹn sẽ có câu trả lời sau để chờ ý
kiến của con gái.
Cách vài ngày sau ông bà mối đến nhà gái nhắc lại chuyện hôm trước.
nếu cô gái gia đình ưng thuận, chủ nhà sẽ hẹn với nhà trai một ngày lành có
ấm chè, chai rượu để bàn bạc. Người làm mối có nhiệm vụ thưa chuyện với
gia đình nhà trai.
4.5.3. Lễ dạm ngõ
Trong ngày dạm ngõ, ông mối đem theo lễ vật sang nhà gái. Lễ gồm:
bốn chai rượu trắng, bốn chai rượu đỏ (ý nghĩa của bốn chai rượu trắng là
biểu hiện cho người con trai, rượu đỏ là biểu hiện cho người con gái), mười
hai bánh trưng không nhân (bánh trưng không có nhân ở trong là biểu hiện
cho sự trinh tiết của người con gái, được biểu hiện con gái trong trắng như
bánh trưng), hai gói chè, hai gói bánh, hai mươi quả cau, hai mươi lá trầu, đôi
gà một trống một mái mang sang nhà gái để thưa chuyện.

Bùi Thanh Phúc


K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

Nhà gái nhận lễ vật đặt lên bàn thờ tổ tiên và sau 3 ngày nhà gái không
trả lại lễ vật của nhà trai thì khi đó hai gia đình trở thành thông gia. Sở dĩ để
ba ngày sau vì họ muốn tham khảo ý kiến gia đình, họ hàng, làng xóm về
người con trai xem có đủ tiêu chuẩn hay không. nếu trong ba ngày mà không
có ý kiến gì khác thì lễ vật được đem xuống mời họ hàng, và từ đó cho phép
con cái được đi lại thăm hỏi nhau. Sau ba ngày ông mối có nhiệm vụ đến nhà
gái để bàn bạc chọn ngày một lành để tổ chức làm lễ hỏi. Việc lễ hỏi được tổ
chức sớm hay muộn thì còn tuỳ thuộc theo điều kiện của từng gia đình.
4.5.4. Lễ ăn hỏi
Lễ vật nhà trai mang đến nhà gái gồm có: một con lợn khoảng 40kg,
một thúng gạo tẻ 40kg, và mười hai bánh trưng không nhân, rượu trắng bốn
chai, rượu màu bốn chai, và kèm theo khoảng 20lít rượu, trầu một trăm lá, cau
một buồng, chè bốn gói và hai kg đường trắng, bánh bốn gói, và tiền mặt
khoảng hai trăm nghìn đồng (tuỳ thuộc vào thời điểm thì khoản tiền cho lễ hỏi
này mới có sự thay đổi). Ý nghĩa của khoản tiền này là tiền đưa đánh tiếng để
đặt tên gọi mới cho đôi bạn trẻ. Tên được đặt tuỳ thuộc vào thứ bậc con cái
trong gia đình để họ nhà trai và họ nhà gái xưng hô cho đúng trong gia đình.
Khi ông mối đưa lễ vật đến, ông mối cùng đoàn đưa lễ dùng bữa cơm
thân mật với gia đình nhà gái, cùng bàn ngày cưới cho đôi bạn trẻ và bàn lễ
vật thách cưới. Đại diện họ nhà gái (thường là bác hoặc chị em gái ruột của
bố) sẽ đứng ra bàn bạc cụ thể việc thách cưới đó với ông mối. Lễ vật thách
cưới nhà gái thường thách 40 tức là cái gì cũng 40.

4.5.5. Lễ cưới
Người Mường thường chọn ngày cưới bằng cách xem tuổi của đôi trai
gái, họ thường tránh cưới năm tuổi, vào tháng mưa ngâu (tháng bảy âm lịch),
và không chọn vào ngày cuối tháng (vì họ cho rằng sẽ không cưới vào ngày
cùng tháng tận). Việc chọn ngày, giờ tốt là do nhà trai xem tuổi của con trai

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

mình để quyết định. Vì họ quan niệm con người có số mệnh, có giờ tốt đẹp.
thường họ lấy giờ và ngày cưới bằng cách xem sách những người trong làng
hoặc đến những thầy bói nổi tiếng trong vùng để chọn được một ngày lành
tháng tốt tổ chức đám cưới cho con, cháu mình.
Trước ngày lễ cưới chính thức người Mường có tục lệ có một ngày là
ngày nhà trai mang đồ lễ (lợn, rượu) sang nhà gái gọi là ngày “triển cáo rạo”.
Đến ngày cưới chính thức thì mới mang trầu cau, đồ lễ sang gồm có tiền mặt
và những lễ vật còn lại. Tối hôm nhà trai mang lễ sang nhà gái thì người
Mường ở Kim Bôi thường có một nét độc đáo khác với một số tộc người khác
là thanh niên nhà trai nhà gái giao lưu với nhau. Đây là dịp tốt để hát giao
duyên, đối đáp, hát ví, hát mời trầu, rằng thường, “pôộ mẹng”: các khúc hát
mời trầu rằng thường được các nam thanh nữ tú thể hiện mình và đó cũng là
dịp để các thanh niên có cơ hội tìm hiểu và tìm cho mình một ý chung nhân
tương lai cho đời mình. Nhạc cụ thường được dùng trong đám cưới chủ yếu là
sáo, nhị; tất cả đều vang lên sôi nổi như những cuộc sinh hoạt văn nghệ truyền

thống Họ vui đến tầm 22h00, 22h30 thì nghỉ để chuẩn bị cho ngày mai ngày
cưới chính.
Ngày cưới chính thức người Mường tự làm mâm cỗ để mời họ hàng
bạn, bè thân thích. Khoảng 4h00 sáng thì người được gia đình chọn là người
phụ trách cơm, nước đã phải dậy sớm để làm công việc của mình. Con trai thì
thịt lợn, mổ gà, con gái thì nấu nướng đồ xôi và gói xôi…. Mâm cỗ của người
Mường đều được bày đặt lên mâm bằng lá chuối và nguời con trai là nguời có
nhiệm vụ bày đặt mâm cỗ. Tất cả các công việc được phân công từ tối hôm
trước nên các công việc đều được diễn ra như đã định. 9 giờ sáng, đó là lúc
khách đến mừng hạnh phúc cho đôi bạn trẻ. Đứng hai bên cổng của đám cưới
là hai ông bà có uy tín và một đôi bạn thanh niên trẻ để đón khách. Bố, mẹ cô
dâu, chú rể ngồi trong bàn nước để tiếp khách. Đến 11h30 khi khách đã dùng

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

cơm xong thì dọn hết mâm cỗ để bày bàn nước, bánh kẹo, thuốc lá trầu cau ra
chuẩn bị cho đoàn nhà trai về đón dâu. Đoàn nhà gái đưa dâu đến, dùng kẹo
bánh, trầu để các cụ có dịp hàn huyên, thanh niên hai họ có dịp hát giao duyên
trong những chén chè tự sao và những miếng trầu được têm khéo léo. Một
nghi lễ quan trọng khi đến nhà trai là con dâu phải đi rót nước trước tiên là
mời ông bà cao tuổi nhất trong họ nhà trai, sau đó rót nước mời trầu bố mẹ
chồng và lần lượt từ người cao tuổi nhất đến các cô các dì trong họ có trong
hồi hôn hôm đó.

Ngày đón dâu thì nhà trai sẽ chọn giờ để đi đến đón dâu. Người Mường
thường đi đón dâu vào đầu giờ chiều vì lúc đó chú rể, cô dâu cũng đã tiếp
khách xong và có thời gian để trang điểm cho cô dâu, chú rể. Thường là người
Mường đi đón dâu vào lúc 2 giờ chiều (vì người Mường quan niệm là đi vào
giờ chẵn là giờ đẹp nên chọn giờ đó bắt đầu đi đón dâu). Khi đó chú rể được
ông mối dẫn đầu. Trước khi đi sẽ làm lễ với tổ tiên xin phép tổ tiên được đi
đón một thành viên mới trong gia đình, trong họ hàng. Đoàn đi đón dâu gồm
có đại diện họ nhà trai: anh trai, chị gái bố của chú rể đại diện làm “ông, bà
đón dâu” của họ nhà trai đến để đón con dâu; ngoài ra còn có bạn bè, họ hàng
cùng đi. Người Mường quan niệm đoàn nhà trai đi đón dâu phải là con số
chẵn không được phép lẻ nên họ sắp xếp người cho phù hợp không được phép
lẻ, vì người Mường rất kiêng con số lẻ. Nhà trai khi đi đón dâu mang theo lễ
vật gồm có mười hai chiếc bánh trưng (mâm bánh này tượng trưng cho mười
hai tháng trong năm), một buồng cau và một trăm lá trầu. Lễ vật được đặt lên
bàn thờ tổ tiên nhà gái để báo với tổ tiên là gia đình có con rể. Ngoài ra còn
phải có chè bốn lạng và bánh mua chợ bốn gói. Tất cả đều được nam, nữ
thanh niên bê và những thanh niên đó cũng sẽ có nhiệm vụ sau khi đón được
cô dâu ra khỏi nhà trai thì sẽ khênh đồ dùng, của hồi môn của cô dâu. Khi gần
đến cổng nhà cô dâu mà vẫn chưa đến thời gian vào rước dâu thì đoàn nhà trai

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

vẫn phải đợi đến giờ đẹp mới được vào cổng. Khi đoàn nhà trai đến cổng thì

nhà gái có hai ông bà được cử làm công việc đưa dâu sẽ ra đón đoàn nhà trai,
mời đoàn nhà trai vào lễ hồi hôn. Ông mối sẽ đưa chú rể vào trong buồng cô
dâu để đón cô dâu ra bàn thờ tổ tiên tiên vái lạy tổ tiên để xin dâu về nhà trai.
Đôi bạn trẻ phải lạy hết những người lớn tuổi hơn bố mẹ vợ trong họ hàng và
nhận được những lời chúc cùng tiền mừng của các ông các bà. Nghi thức đó
như là lời giới thiệu chú rể với họ hàng. Sau khi đã làm lễ xong với tổ tiên chú
rể được họ hàng nhà gái coi như con cái trong nhà. Sự quan tâm đó chính là
một lời nhắn nhủ với chú rể rằng phải biết quan tâm, chăm sóc tới họ hàng
nhà vợ để tỏ lòng biết ơn của mình. Khi làm lễ xong cô dâu mặc trang phục
đẹp nhất, chiếc váy bằng vải lanh màu đen hoặc vải lụa dài tới mắt cá chân,
lưng thắt khăn lụa màu xanh lá cây để lộ cạp váy, áo cánh thân dài để đầu gối
xẻ giữa không cúc, bên trong mặc yếm trắng, đầu đội khăn bằng vải trắng.
Nhìn chung trang phục của cô dâu rất giản dị, điều dáng chú ý nhất là nơi cạp
váy nổi lên những hoạ tiết độc đáo, đó là những hoạ tiết về rồng, rùa, chim,
ngựa, cá… Để có những hoa văn đó, người con gái Mường phải thật tỉ mỉ,
chăm chỉ, khéo léo. Do vậy, cạp váy của cô dâu nó tượng trưng cho tài hoa
của cô dâu trong thêu dệt cũng như trong việc khác. Như vậy, bộ váy của cô
dâu cũng là bộ váy truyền thống của dân tộc Mường nó không chỉ mang giá
trị sử dụng mà còn chứa đựng những giá trị thẩm mỹ đáng quý.
Khi đã đến giờ đẹp (giờ đón dâu) thì cô dâu mới được bước ra khỏi cửa
và không được phép ngoảnh mặt lại nhìn nhà mình (Họ quan niệm rằng con
gái đi lấy chồng nếu nhìn lại nhà mẹ đẻ sẽ không tốt). Khi sắp rời khỏi nhà thì
một người bác gái có tuổi trong họ sẽ cầm một cái nón đội lên đầu cho cô dâu,
đưa cho cô dâu một con dao và dặn dò về nhà chồng phải biết cư xử. Đi cùng
cô dâu là phù dâu. Phù dâu cũng được đội nón như cô dâu. Chiếc nón được

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

đội từ nhà cho đến nhà chồng và mẹ chồng sẽ là người cầm nón từ trên đầu
cho cô dâu.
Thứ tự đoàn đưa dâu là: ông mối đi trước đến ông bà đưa dâu và ông bà
đón dâu tiếp sau là cô dâu, chú rể cùng phù dâu, phù rể sau đó là khách của
đoàn nhà trai, gái, cuối cùng là đoàn thanh niên khiêng các đồ dùng mà cô dâu
mang về nhà chồng. Người Mường có tục lệ cô dâu về nhà chồng phải có một
cái “Trlặng” (cái nôi). Cái nôi này do bố của cô dâu đan tặng cháu của mình.
Đó là ý muốn con gái mình sau khi về nhà chồng làm tốt nhiệm vụ sinh nở
của mình. Ngoài ra cô dâu còn mang theo chăn màn tự làm gồm có một đôi
chăn biếu ông bà mối, một đôi chăn đệm và gối cho bố, mẹ chồng. Tất cả
chăn và gối đều phải tự tay cô dâu dệt và làm thì mới được chấp thuận, sau đó
là đến các bác, các cô, chú trong gia đình. Nếu bác, cô, chú đã có gia đình thì
sẽ biếu một đôi gối còn những cô, chú nào chưa có gia đình thì sẽ được biếu
một chăn một gối còn lại là chăn, màn của đôi vợ chồng trẻ dùng. Ngoài ra
còn có một chiếc tủ đứng và một chiếc hòm to dùng để đựng đồ dùng sinh
hoạt hằng ngày của hai vợ chồng và đồ dùng sinh hoạt của cô dâu.
Một điều đặc biệt của người Mường là khi chuẩn bị bước vào nhà
chồng thì gia đình nhà chồng phải mua lại một đôi mía tím do một bé trai và
một bé gái luôn được cầm đi đầu tiên. Nó mang ý nghĩa tránh tà, ma dòm ngó
đến đôi vợ chồng trẻ. Khi thủ tục này được làm xong thì đoàn đưa và đón dâu
mới được vào cổng. Đôi mía này còn mang ý nghĩa cho hai vợ chồng trẻ sống
mãi bên nhau và đây cũng là một nét đặc trưng độc đáo của Hoà Bình: “Hoà
Bình nếp cẩm măng khô, có cây mía tím, có cô gái Mường”. Khi cô dâu đã
vào trong nhà chồng thì ông mối đưa đôi vợ chồng trẻ vào làm lễ tổ tiên bên
nhà chồng. Lễ giống như lễ bên nhà gái nhưng đây là lễ đón dâu và họ nhà gái

sẽ được họ nhà trai mời đoàn đưa dâu vào dùng bánh, kẹo, trầu. Tiếp đó sẽ là
lễ ra mắt cô dâu, chú rể với họ nhà trai. Sau khi tất cả mọi việc hoàn tất thì

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

đoàn nhà gái có đại diện là ông, bà đưa dâu sẽ xin phép gửi con gái sang bên
nhà chồng để các ông, bà bên nhà chồng dạy bảo rồi xin phép cho đoàn nhà
gái ra về.
Và một điều nữa là khi cô dâu về nhà chồng không được đi tắt, nếu như
vậy họ cho rằng vợ chồng không được đường hoàng, không được chung thuỷ
về sau này. Còn những người khiêng đồ biếu của cô dâu không được dừng lại
hoặc đặt xuống, rẽ ngang; họ cho rằng nếu như vậy sẽ không tốt cho đôi vợ
chồng sau này.
4.6. Tục lệ sau khi cưới
Sau khi cưới ba đêm, sang ngày thứ tư, cô dâu chú rể và một đại diện họ
nhà trai đưa cô dâu về nhà gái. Lễ vật “lại nhà” mà cô dâu và chú rể mang sang
nhà gái gồm có hai chai rượu: một chai rượu đỏ, một chai rượu trắng biểu hiện
cho màu hạnh phúc. Đến ngày sau ông bà nội (bố, mẹ chú rể) sang gia đình nhà
gái tạo mối quan hệ khăng khít hơn giữa hai gia đình. Từ đó cứ đến mỗi lần
làm làm lễ cơm mới, lễ tết, giỗ chạp… vợ chồng đều phải mang lễ vật sang nhà
bố mẹ vợ với ý nghĩa trả công bố, mẹ vợ đã sinh thành con gái.
4.7. Các trường hợp hôn nhân ngoại lệ
Trong trường hợp đi ở rể, họ vẫn luôn tuân theo các tục lệ trong tập

quán cưới xin nhưng có điểm khác là nhà gái không được thách cưới và người
con gái không phải chuẩn bị nhiều chăn, gối để biếu nhà trai. Thật ra hình
thức thách cưới của người Mường khi người con gái đi lấy chồng là sự trao
đổi, nên hôn nhân mang tính chất mua bán, vậy khi con gái không đi làm dâu
thì không được thách cưới. Đối với người Mường con trai chỉ đi ở rể khi hoàn
cảnh gia đình khó khăn. Những trường hợp ở rể rất ít. Người Mường mang
tính chất phụ quyền rõ rệt, người con trai luôn có quyền lực trong gia đình,
nên họ không có tư tưởng ở rể. Khi ở rể người con gái chỉ chuẩn bị một đôi
chăn phà và một đệm, gối để biếu bố mẹ chồng.

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

Trong trường hợp trai gái lỡ thì, thì tục lệ cưới xin cũng tương tự như
trường hợp bình thường. lễ vật thách cưới ít hơn, tổ chức cưới không linh đình.
Đối với trường hợp trai goá, vợ goá, lễ cưới tổ chức trong phạm vi hẹp
chỉ họ hàng. Các bước trong tục lệ giảm đi, họ chỉ ăn hỏi sau một vài tuần sau
đó là tổ chức lễ cưới nên người Mường không có tục lệ cưới xin riêng cho đôi
trai gái không được bố, mẹ cho phép. Bố, mẹ không đồng ý do rất nhiều
nguyên nhân: do hai bên gia đình quan hệ không tốt hoặc con trai, con gái hai
gia đình đều không thích. Tư tưởng của người Mường đôi lúc có quan niệm
“môn đăng hộ đối” rất quan trọng, đó cũng là nguyên nhân ép gả. Tính đẳng
cấp trong hôn nhân của họ cũng rõ rệt: những họ lớn (họ lang) mới được phép
lấy nhau hoặc con cô con cậu không được lấy nhau. Chính vì quy định

nghiêm ngặt đó nên tục lệ hôn nhân cướp vợ, hôn nhân anh em chồng, hôn
nhân chị em vợ, không xuất hiện trong tục lệ cưới xin của người Mường.
4.8. Những biến đổi trong tập quán cưới xin dân tộc Mường ở huyện Kim Bôi
Ngày nay trong các thôn, bản có nhiều biến đổi rõ rệt theo thời đại. Khi
chế độ phong kiến không còn thì “Lang” cũng mất quyền lực, sự phân biệt
đẳng cấp giảm đi rõ rệt, không còn sự phân biệt họ lớn, họ nhỏ. Tuy họ sống
dưới chế độ phụ quyền nhưng sự gia trưởng trong gia đình không còn quá
khắc nhiệt, nên việc chọn vợ, chọn chồng đã thuộc quyền của con cái. Trong
tiêu chí chọn vợ, chọn chồng ngày nay, là do con cái quyết định. Ngày xưa
chọn vợ là nhìn cạp váy, tức là họ đề cao sự chăm chỉ, khéo léo trong thêu dệt
và công việc gia đình ngày nay không chỉ vậy họ còn mong lấy được người
vợ thông minh, nhanh nhẹn trong mọi công việc và đối với người chồng cũng
vậy. Những bước cưới trong tục cưới ngày nay vẫn được người Mường tuân
theo nhưng xu hướng giảm bớt nghi thức mà họ cho là rườm rà không cần
thiết.

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

4.8.1. Những biến đổi theo hướng tích cực
Trước đây dân trí còn thấp, luật hôn nhân gia đình chưa được tuyên
truyền sâu rộng đối với đồng bào, nên tục tảo hôn vẫn còn tồn tại trong một số
gia đình. Rất nhiều cặp vợ chồng tổ chức lễ cưới mà không có chính quyền
xác nhận, không đăng ký kết hôn mặc dù đã được gia đình và làng xóm công

nhận là vợ chồng. Nhưng đối với chính quyền, luật pháp thì không có cơ sở
chứng nhận hôn thú của họ. Ngày nay thì đã khác, luật hôn nhân và gia đình
đã được phổ biến, đông đảo bà con trong thôn, bản đều hiểu và thực hiện rất
tốt. Hàng năm không còn tục tảo hôn. Trước khi tổ chức lễ cưới các đôi trai
gái đã đi đăng ký kết hôn, nhiều cặp vợ, chồng trước đây chưa đăng ký nay đã
hiểu được quyền lợi nên đã đi đăng ký kết hôn. Cũng nhờ có luật hôn nhân và
gia đình mà con trai, con gái trong các bản Mường không phải lấy vợ, lấy
chồng sớm nữa. Đó là một điểm đáng mừng và cần được phát huy trong lễ
cưới để duy trì văn hoá truyền thống của toàn huyện.
Một lễ cưới truyền thống của người Mường cũng rất tốn kém, nên với
một gia đình hoàn cảnh khó khăn mà muốn con lấy được vợ thì rất khó. Trải
qua thời gian, hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu của trai gái, chứ không còn
chế độ “bố mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, nhiều cặp vợ chồng trẻ bây giờ đã vượt
qua được quan niệm nghiêm ngặt trong lễ vật cưới xin, họ ý thức được rằng
cuộc sống vợ chồng hạnh phúc về sau mới là quan trọng. Chính vì vậy nhiều
đôi trai gái, chưa có điều kiện kinh tế nhưng đi đăng ký kết hôn vẫn được
công nhận là vợ chồng. có thể họ chỉ tổ chức một bữa cơm thân mật mời bạn
bè thân thiết và họ hàng gần. Như vậy vừa đỡ tốn kém mà vẫn đảm bảo được
hạnh phúc.
Hôn nhân có nhiều thay đổi với người Mường ở đây, xu hướng Việt
hoá ngày càng lớn, thách cưới cũng giảm đồng thời các thủ tục trong cưới xin
được coi là rườm rà nay đã được bỏ. Nhìn chung một lễ cưới ngày nay đã có

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp


GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

nhiều thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp nhưng bên cạnh đó không phải không
còn những tập tục cổ hủ, đặc biệt là những nét đẹp trong mọt lễ cưới cũng
đang nguy cơ bị mai một.
4.8.2. Những biến đổi tiêu cực
Khi đã đi sâu vào nghiên cứu một lễ cưới cổ truyền của người Mường
ta mới thấy được nét độc đáo và riêng biệt của một nền văn hoá. Chúng ta bắt
gặp những bài hát giao duyên, mời trầu. “pọô mẹng”, được vận dụng trong
các hình thức nghi lễ của một lễ cưới.
Nhưng thật tiếc thay, ngày nay đến dự một đám cưới của người Mường
ở đây, muốn được thưởng thức một làn điệu mời trầu, những lời “rằng
thường” thật là hiếm có. Bởi rất nhiều nguyên nhân mà những bài mời trầu,
“rằng thường” mừng lễ cưới bị mai một đi, ngày nay chỉ còn được coi là di
sản văn hoá dân gian mà thôi.
Từ lâu quan niệm của người Mường về vấn đề gả con gái như ăn sâu
vào ý thức mà không thoát khỏi yếu tố mua bán, nên thách cưới cao và việc
mặc cả về lễ vật thách cưới trong lễ cưới, lễ ăn hỏi vẫn còn tồn tại. Điều này
chứng minh rằng cưới xin của người Mường cũng có ảnh hưởng của hiện
tượng thương mại hoá. Tục lệ ăn uống linh đình, mà mỗi người đến dự tiệc
phải tự thấy trách nhiệm mừng tiền cho đôi bạn trẻ. Tục lệ này ngày càng trở
nên phổ biến trong các lễ cưới của người Mường với tư tưởng: anh mừng tôi
trước, tôi sẽ mừng anh sau. Nên nhiều lễ cưới họ coi trọng khách mời và
phong bì mang lại, cũng chính vì vậy bắt buộc người ta phải quan tâm đến
yếu tố vật chất đồng thời làm cho lễ cưới mất đi sự trang trọng và linh thiêng
của một lễ cưới cổ truyền ngày trước.
Không chỉ có vậy mà còn những tập tục rất cổ hủ còn ít nhiều tồn tại
trong lễ cưới của người Mường. Tục so tuổi, tức là xem số mệnh cho đôi trai
gái, nên nhiều khi họ yêu nhau nhưng lại không dám lấy nhau vì mê tín rằng


Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Hoàng Nguyễn Bình

họ không hợp tuổi. Mặc dù thấy vậy nhưng chúng ta không thể một sớm, một
chiều mà khắc phục được, nên vấn đề đặt ra là cần một giải pháp giúp dần dần
xoá bỏ những tục lệ cổ hủ đó.
4.9. Phương hướng giữ gìn và phát huy nét đẹp trong phong tục cưới xin
của người Mường Huyện Kim Bôi tỉnh Hoà Bình
Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy biến động và thay đổi đang
diễn ra từng phút, từng giờ. Bước vào thế kỷ mới với những gì đã và đang xảy
ra chúng ta chưa thể biết điều gì sẽ xảy ra tiếp đó. Nhưng có lẽ đây là giai
đoạn đua tranh mạnh mẽ giữa các nền văn hoá sẽ đi vào tàn lụi, bị lãng quên
hay nở rộ, phát triển theo chiều hướng tích cực, tiến bộ, điều đó còn phụ thuộc
vào nhận thức và hành động của mỗi dân tộc trong việc giữ gìn, khai thác và
phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc mình. Chính vì vậy mà Đại
hội Đảng lần thứ VIII đã nêu ra nhiệm vụ: “tiếp tục xây dựng và phát triển sự
nghiệp văn hoá Việt Nam bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp
của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại”.
Như vậy, muốn giữ gìn được nét đẹp trong tục lệ cưới xin của người
Mường huyện Kim Bôi tỉnh Hoà Bình thì ta phải chọn lọc những cái hay, cái
dẹp để thừa kế, tiếp thu cái tiến bộ thì mới xây dựng được một lễ cưới tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, vừa vui, vừa tiết kiệm mà vẫn trang trọng văn
minh.
Đám cưới của người Mường theo thời gian có nhiều biến đổi theo xu

hướng hiện đại. Chúng ta phải có giải pháp cụ thể để bảo tồn và phát huy
những bản sắc ấy. Đối tượng chính cần tác động là những thành viên trong tộc
người ấy. Đầu tiên phải nâng cao dân trí, đào tạo cán bộ văn hoá dân tộc trực
tiếp của từng vùng về tuyên truyền khôi phục lại những nét văn hoá của vùng,
đồng thời cũng vận động đồng bào bỏ những thủ tục gây hoang phí trong đám
cưới theo chính sách đường lối của Đảng đề ra.

Bùi Thanh Phúc

K32C- SP Sinh


×