Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Nghiên cứu thành phần sâu hại đậu tương và ký sinh của chúng khu vực bình xuyên, vĩnh phúc và phụ cận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.91 KB, 34 trang )

Khãa luËn tèt nghiÖp

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Cây đậu tương (Glycine max) là một trong những loại cây nông nghiệp
truyền thống, có lịch sử lâu đời. Hiện nay, chúng được trồng rộng rãi không
chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. Cây đậu tương
được trồng phổ biến như vậy vì không những nó có giá trị dinh dưỡng lớn, mà
còn đem lại hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt là khả năng cố định Nitơ tự do
trong đất làm tăng độ phì nhiêu của đất, có tác dụng cải tạo đất. Các sản phẩm
từ hạt đậu tương có thể được sử dụng làm thức ăn cho người, cho gia súc,
nông sản xuất khẩu… Đây là nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng phục vụ cho
những món ăn chay. Ngoài ra đậu tương còn là cây lấy dầu quan trọng bậc
nhất hiện nay do hạt của nó rất giàu Lipit. Việc sử dụng dầu ăn chiết xuất từ
thực vật nói chung và hạt đậu tương nói riêng có vai trò quan trọng trong việc
phòng ngừa các bệnh liên quan đến tim mạch.
Tuy nhiên, với điều kiện khí hậu nhiệt đới như ở nước ta thì đậu tương
hiện đang bị nhiều loài sâu hại tấn công. Điều này đã làm ảnh hưởng đáng kể
đến năng xuất và chất lượng sản phẩm. Hiện nay, biện pháp phòng trừ phổ
biến được sử dụng để hạn chế và tiêu diệt sâu hại là sử dụng thuốc trừ sâu hóa
học vì dễ sử dụng, tác dụng nhanh và thuận lợi. Biện pháp này đã và đang làm
giảm chất lượng sản phẩm, gây ô nhiễm môi trường, tiêu diệt nhiều loại côn
trùng có ích, tác động xấu đến sức khỏe con người và vật nuôi. Vì thế, trong
những năm gần đây, con người đã quan tâm đến những biện pháp mới trong
đó có việc nghiên cứu sử dụng côn trùng có ích nói chung và côn trùng kí sinh
nói riêng nhằm hạn chế số lượng sâu hại.
Việc sử dụng côn trùng có ích được biết đến từ lâu và được gọi là biện
pháp sinh học. Đây là biện pháp hiệu quả và có tính an toàn cao, biện pháp
này vừa bảo năng suất cây trồng, không gây ô nhiễm cho môi trường tự nhiên,

Lª ThÞ Th¶o



1

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp
bảo vệ sức khỏe con người và vật nuôi. Biện pháp này còn góp phần phát
triển một nền nông nghiệp bền vững trong tương lai, vì vậy việc tìm hiểu
thành phần và vai trò của côn trùng ký sinh không chỉ có ý nghĩa khoa học mà
còn có ý nghĩa thực tiễn cao. Trên cơ sở những hiểu biết về các loài côn
trùng có ích có thể đề xuất được các biện pháp phòng trừ sâu hại, duy trì và
bảo vệ côn trùng có ích.
Từ những lý do nêu trên, để góp phần vào việc giải quyết vấn đề phòng
trừ tổng hợp sâu hại trên đậu tương, chúng tôi thực hiện đề tài : “Nghiên cứu
thành phần sâu hại đậu tương và côn trùng ký sinh của chúng khu vực
Bình Xuyên, Vĩnh Phúc và phụ cận”.
2. Mục đích
-

Tiếp cận và làm quen với công tác nghiện cứu khoa học.

- Tìm hiểu thành phần sâu hại và côn trùng kí sinh của chúng trên cây
đậu tương .
- Theo dõi sự xuất hiện và vai trò của các loại kí sinh trong việc hạn
chế số lượng sâu hại trên cây đậu tương ở khu vực nghiên cứu.
3. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: đề tài góp phần bổ sung dẫn liệu về thành phần
sâu hại đậu tương và côn trùng kí sinh của chúng
- Ý nghĩa thực tiễn: đề tài góp phần giúp các nhà nông học có thể đề

xuất được các biện pháp phòng trừ tổng hợp nhằm đem lại hiệu quả kinh tế
cao mà không gây ô nhiễm môi trường.

Lª ThÞ Th¶o

2

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lược về tình hình nghiên cứu sâu hại đậu tương trên thế giới
Đậu tương là cây trồng đã được nghiên cứu từ lâu ở nước ta và nhiều
nước khác trên thế giới. Trong các vấn đề nghiên cứu trên đậu tương thì thành
phần sâu hại là một trong những vấn đề quan trọng và là mối quan tâm hàng
đầu. Lý do đơn giản là con người luôn phải tìm kiếm các biện pháp để ngăn
cản và giảm bớt sự gây hại của chúng
Ở Mỹ, theo Lowell (1976) đã ghi nhận được 950 loài chân đốt trên đậu
tương, trong đó chỉ có 19 loài gây hại chính chiếm khoảng 5% bao gồm: 2
loài sâu đục quả, 14 loài sâu hại lá, 3 loài hại thân, rễ, hạt. Những loài gây hại
nghiêm trọng đến năng xuất đậu tương là: sâu xanh, sâu đo, sâu đục quả và bọ
xít xanh… [14].
Ở Châu Á, theo Talekar và Lin (1993) đã ghi nhận có các loài sâu đục
quả chính là: Legumininova glycinivorella Matsumura, Matsumuraeses
phaseoli Matsumura, Etiella zinckenella Treitschke và Etiella hobson Butler.
Hai loài đục quả L. glycinivorella và M. phaseoli chỉ tìm thấy ở các vùng có
khí hậu ôn hòa như Nhật Bản và Triều Tiên, còn loài Eiella zinckenella
Treitschke đục quả đậu Lima là loài phổ biến hơn ở các nước nhiệt đới, cận

nhiệt đới và gậy hại nặng nhất ở các nước Châu Á nhiệt đới [16].
Ở Thái Lan, theo Napompeth (1997) đã xác định các loài gây hại phổ
biến nhất trên cây đậu tương là sâu khoang Spodoptera litura Fabricius, và
sâu keo Spodoptera littoralis Boisduvat, sâu keo da láng Spodotera exigua
Hubner và sâu cuốn lá đầu nâu Lamprosema indicata Fabricius trong đó sâu
cuốn lá là loại sâu phổ biến nhất. Ngoài ra còn có các loại sâu ăn lá khác như
sâu cuốn lá Archips micacea (Walker), sâu non bộ Cánh màng Aproaesema
modicella Deventer gây hại [15].
1.2. Sơ lược về tình hình nghiên cứu sâu hại đậu tương ở Việt Nam

Lª ThÞ Th¶o

3

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp
Ở Việt Nam, theo kết quả điều tra cơ bản côn trùng (1967-1968) của
Viện Bảo vệ Thực vật công bố đậu tương có 88 loài sâu hại, 43 loài thường
xuyên xuất hiện, 10 loài sâu hại chính chiếm 12,5 % [12].
Theo Nguyễn Văn Cảm và Hà Minh Trung (1979) cho biết trên ruộng
đậu tương ở các tỉnh phía Nam có 195 loài côn trùng, gây hại là 85 loài, trong
đó hại gốc rễ có 3 loài, đục thân, đục quả có 4 loài, ăn lá có 54 loài và chính
hút có 24 loài [1].
Theo Đặng Thị Dung (1999) cho biết thành phần sâu hại đậu tương
trong những năm gần đây có chiều hướng tăng lên. Trong số 68 loài sâu hại
thu được, có 63 loài xác định được tên khoa học. Các loài có mức độ phổ biến
cao là ruồi đục thân, sâu cuốn lá, sâu khoang và bọ xít xanh vai bạc [6].
Theo Quách Thị Ngọ và ctv (2006) ở vùng ngoại thành Hà Nội năm

2001 trên đậu tương đã thu thập và định tên được 55 loài sâu hại thuộc 8 bộ
Côn trùng và Nhện đỏ, trong đó số côn trùng thu được tập trung ở bộ Cánh
vảy Lepidoptera: 18 loài, sau đó đến các bộ Cánh nửa Hemiptera: 17 loài, bộ
Cánh cứng Coleoptera: 9 loài, bộ Cánh đều Homoptera: 10 loài, còn các bộ
khác thu được ít hơn chỉ có từ 1- 4 loài [11].
Theo Đỗ Thị Phương Lan (2007) cho biết thành phần sâu hại thu được
trên đậu tương vùng Gia Lâm- Hà Nội ở vụ xuân 2007 có số loài cũng như số
họ nhiều hơn vụ đông 2006. Ở vụ xuân thu được 36 loài thuộc 16 họ và 6 bộ,
trong đó bộ Cánh nửa có số lượng loài lớn nhất là 9 loài, tiếp theo là bộ Cánh
cứng và bộ Cánh vảy có 8 loài, bộ Cánh thẳng có 6 loài, bộ Cánh đều có 3
loài, bộ Hai cánh có 2 loài [10].
1.3. Sơ lược về tình hình nghiên cứu thiên địch của sâu hại đậu tương
trên thế giới
Cũng như thành phần sâu hại thì thành phần thiên địch của chúng trên
cây đậu tương rất phong phú và đa dạng. Mỗi loài sâu hại có tập đoàn thiên

Lª ThÞ Th¶o

4

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp
địch tương ứng bao gồm: các loài ăn thịt, các loài kí sinh, và các sinh vật gây
bệnh cho sâu hại. Chúng có vai trò quan trọng trong sự điều hòa mật độ sâu
hại, kiểm soát sự phát sinh thành dịch của chúng. Vì vậy, việc nghiên cứu
thiên địch sâu hại của đậu tương đã và đang được quan tâm nghiên cứu ở
nước ta và nhiều nước trên thế giới.
Trên thế giới từ những năm 40 của thế kỉ XX đã có nhiều công trình

nghiên cứu về kẻ thù tự nhiên của sâu hại đậu tương trong đó có kí sinh sâu
cuốn lá đậu tương Hedylepta indicata Fabricius có hai loài là Elasmus indicus
Rohw (Elasmidae) tìm thấy ở Ấn Độ và Grotimusomyia nigricans How
(Eulophidae) tìm thấy ở Cuba.
Côn trùng ký sinh sâu xanh Helicoverpa armigera và Helicoverpa
obsoleta có số loài phong phú nhất: 89 loài trong số đó bộ Hai cánh có 32 loài
và bộ Cánh màng có 57 loài. Trong 32 loài thuộc bộ Hai cánh thì họ
Tachnidae nhiều loài nhất có 28 loài, sau đó là Muscidae có 1 loài và họ
Sarcophagidae có 3 loài. Bộ Cánh màng có 57 loài thuộc 7 họ, trong đó họ
Braconidae chiếm nhiều loài nhất có 20 loài, sau đó đến Ichneumonidae có 17
loài, Chalcidiae và Trichogrammatidae mỗi họ có 6 loài, họ Scelionidae có 5
loài, họ Eulophidae có 2 loài và họ Aphelinidae có 1 loài.
Nghiên cứu của Lowell (1976) chỉ ra rằng mỗi loài sâu hại quả chính
hoặc hại lá chính, ít nhất bị một loài ký sinh khống chế số lượng. Toàn bộ
các loài sâu hại chính trên đậu tương bị 23 loài côn trùng ký sinh khống chế
số lượng, trong đó sâu hại quả bị 6 loài ký sinh, sâu ăn lá, sâu khoang, sâu
róm, sâu đo và bọ cánh cứng bị 16 loài ký sinh, sâu hại rễ bị 1 loài ký sinh.
Riêng đối với sâu xanh bị 10 loài ký sinh [14].
Grazzoni và cộng sự (1994) cho biết trên đậu tương ở vùng nhiệt đới có
tới 52 loài ký sinh thuộc bộ Cánh màng (tập trung chủ yếu ở 3 họ:

Lª ThÞ Th¶o

5

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp
Braconidae, Ichneumonidae và Chakidiae) và bộ Hai cánh (tập trung chủ

yếu ở họ Tachinidae) [13].
1.4. Sơ lược về tình hình nghiên cứu sâu hại đậu tương ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu về kẻ thù tự nhiên của sâu hại đậu tương đã
được nhiều tác giả quan tâm và công bố trong những năm gần đây.
Kết quả điều tra cơ bản thành phần côn trùng năm 1967-1968 của Viện
Bảo vệ Thực vật và nhóm điều tra côn trùng Viện Sinh học từ năm 1960-1970
(Viện Bảo vệ thực vật 1976), Mai Phú Quý (1981) thì số lượng các loài thiên
địch rất đa dạng, phong phú. Kết quả ghi nhận có 75 loài bọ xít ăn sâu thuộc
họ Reduvidae, 67 loài thuộc họ Chân chạy Carabidae, 20 loài thuộc họ Hổ
trùng Cicinllidae, 10 loài ong ký sinh thuộc họ Braconidae [12].
Theo Vũ Quang Côn và cộng sự (1990) đã ghi nhận trên cây đậu tương
có 22 loài côn trùng bắt mồi của hai loại sâu hại chính là rệp và sâu cuốn lá.
Bộ có số loài lớn nhất là bộ Cánh cứng có 16 loài thuộc họ Bọ rùa và Chân
chạy, trong đó có họ Bọ rùa Coccinellidae có 11 loài. Bộ Hai Cánh có 3 loài
thuộc họ Ruồi ăn rệp Syrphidae [2].
Theo Đặng Thị Dung (1999), thành phần côn trùng ký sinh ở vùng Hà
Nội và phụ cận có 51 loài chủ yếu tập trung ở bộ Cánh màng (46 loài), bộ Hai
cánh (5 loài). Trong đó bộ Cánh màng thì ong đen kén nhỏ Braconidae có số
lượng loài thu đươc nhiều nhất (20 loài), sau đó là họ Scelionidae (8 loài), họ
Ichneumonidae (7 loài), họ Chalcididae (4 loài), các họ còn lại mỗi họ 1- 2
loài. Các loài côn trùng ký sinh thuộc bộ Hai cánh (Diptera) tập trung chủ
nhiều ở họ Tachinidae (3 loài), họ Braulidae và Phoridae mỗi họ một loài.
Các loài côn trùng ký sinh thu thập được hầu hết có đặc tính ký sinh pha sâu
non của nhiều loại sâu hại đậu tương thuộc bộ Cánh vảy Lepidoptera (29/51
loài). Một số loài ký sinh từ pha sâu non, hoàn thành các giai đoạn tiếp theo
và pha nhộng, phổ biến là các loài ký sinh thuộc bộ Hai cánh Diptera (4 loài)
và bộ Cánh thẳng (1 loài)). Ký sinh pha nhộng thu được 5 loài [6].

Lª ThÞ Th¶o


6

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp
Kết quả nghiên cứu của Vũ Quang Côn và cộng sự (1996) điều tra tại
một số tỉnh phía Bắc Việt Nam đã xác định được 42 loài ký sinh, trong đó chủ
yếu là ký sinh thuộc bộ Cánh màng Hymenoptera (39 loài), bộ Hai cánh
Diptera (3 loài). Họ Braconidae có số lượng nhiều nhất (14 loài), sau đó đến
Ichneumonidae (8 loài), Eulophidae (4 loài), Scelionidae (5 loài). Trong đó
tập hợp ký sinh chung trên đậu tương, một số loài có vai trò quan trọng và rõ
rệt trong việc kìm hãm sâu cuốn lá đậu Lamprosema indicata (4 loài), sâu
khoang Spodoptera litura (2 loài) [3].
Theo Khuất Đăng Long và ctv (2005) đã xác định được 19 loài ký sinh
trong đó có 7 loài thu được từ nuôi sinh học, 12 thu được thêm bằng phương
pháp vợt. Trong tập hợp ký sinh sâu non, hai loài thường xuyên xuất hiện là
Trathala flavo-orbitalis ký sinh sâu cuốn lá Lamprosema indicata chiếm tỷ lệ
94,5% và Microplitis manilae ký sinh sâu khoang Spodoptera litura chiếm tỷ
lệ 60,73%, đồng thời sâu cuốn lá đậu tương L. indicata bị 3 loài ký sinh tấn
công, 2 loài ở giai đoạn nhộng và 1 loài ký sinh ở giai đoạn sâu non. Sâu
khoang S. litura bị bốn loài tấn công đều ở giai đoạn sâu non [9].

Lª ThÞ Th¶o

7

K32D Sinh - KTNN



Khãa luËn tèt nghiÖp

CHƯƠNG 2. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƯỢNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.Thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Thời gian nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành điều tra trên hai vụ: vụ thu đông tháng 8-10 năm
2009 và vụ đông xuân tháng 2-4 năm 2010.
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
- Địa điểm điều tra cố định: xã Phú Xuân, huyện Bình Xuyên, tỉnh
Vĩnh Phúc
- Địa điểm điều tra bổ sung: chúng tôi tiến hành điều tra bổ sung ở các
địa điểm: phường Xuân Hòa, thị xã Phúc Yên, Vĩnh Phúc và xã Minh Trí,
huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
- Các loài sâu hại chính trên cây đậu tương
- Các loài côn trùng ký sinh trên sâu hại đậu tương
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp điều tra thành phần sâu hại và côn trùng ký sinh của
chúng
Để điều tra, thu thập thành phần sâu hại đậu tương và côn trùng của
chúng, chúng tôi tiến hành các phương pháp điều tra côn trùng của Viện Bảo
vệ Thực vật. Đây là phương pháp có độ tin cậy cao, hiện đang được nhiều
người sử dụng để điều tra côn trùng trên nhiều cây trồng khác nhau. Đặc điểm
của phương pháp là điều tra không cố định địa điểm theo định kỳ mỗi tuần 12 lần vào các buổi sáng sớm và chiều mát.
Mỗi lần điều tra, tiến hành các thu tất cả các pha phát triển của sâu hại
đậu tương (trứng sâu non, nhộng, trưởng thành), kén và trưởng thành của các
loài ký sinh trên đậu tương.

Lª ThÞ Th¶o


8

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp
Trong phòng thí nghiệm các mẫu trưởng thành được các cán bộ khoa
học có chuyên môn định tên khoa học. Sâu non của các loại sâu thu thập được
ngoài tự nhiên được phân loại sơ bộ theo loài và độ tuổi, sau đó được nuôi và
theo dõi riêng trong các hộp nhựa để theo dõi đặc điểm sinh học và tỷ lệ
nhiễm ký sinh tự nhiên với thức ăn là lá đậu tương tươi được kiểm tra và thay
hàng ngày.
Các kén ký sinh và nhộng xuất hiện trong phòng thí nghiệm, cũng như
thu được trên đồng ruộng đều được nuôi cá thể trong các ống nghiệm sạch để
nghiên cứu một số đặc điểm sinh học như: thời gian phát triển, tỷ lệ giới tính,
khả năng sinh sống của con trưởng thành và xác định tên khoa học của loài
thu được. Thí nghiệm để theo dõi khả năng sống sót của con trưởng thành
được thực hiện theo hai công thức.
Công thức 1: nuôi bằng nước lã
Công thức 2: nuôi bằng mật ong
2.3.2. Phương pháp xử lý mẫu vật
Mẫu vật được xử lý theo hai phương pháp: mẫu ngâm cồn và mẫu khô.
Mẫu ngâm: áp dụng đối với sâu chết, côn trùng quá nhỏ mình mềm
không cắm được ghim. Mẫu được định hình và bảo quản trong cồn 600-700.
Các hộp, lọ đựng mẫu phải có nút chặt để đảm bảo nồng độ cồn không thay
đổi. Bên trong các mẫu ngâm đều được ghi nhãn bao gồm các thông tin: địa
điểm điều tra, cây trồng, ngày tháng và người thu nhập. Bút dùng để ghi nhãn
là bút chì mềm hoặc bút chuyên dùng không phai trong cồn.
Mẫu khô: Tất cả các mẫu trưởng thành sâu hại, sau khi giết chết trong

lọ độc khoảng 15-20 phút được chuyển từ trong hộp đựng côn trùng đệm
bông đưa về phòng tiến hành làm mẫu. Những mẫu chưa làm kịp có thể bảo
quản tạm thời trong tủ lạnh 50C. Mẫu khô được làm theo các bước sau:

Lª ThÞ Th¶o

9

K32D Sinh - KTNN


Khóa luận tốt nghiệp
Bc 1: cm ghim cụn trựng: cụn trựng c cm bng cỏc loi kim t
s 1 n s 3. i vi nhng cụn trựng ln cú th cm ghim trc tip
vo cụn trựng thỡ dựng kim s 1 v s 2. Trng hp cụn trựng nh
hn, khụng th cm trc tip vo cụn trựng thỡ s dng gúc giy nhn
v dựng kim s 2 v s 3. Kim phi cm thng vi trc c th cụn
trựng. Sau khi cm kim thỡ 1/3 chiu di kim s nm trờn, 2/3 chiu
di kim s nm di c th cụn trựng nhm m bo cụn trựng nm
mt cao nht nh so vi kim.
Bc 2: cỏc nhón ghi mu khụ cng ging nh i vi mu ngõm
cn. Tuy nhiờn, i vi nhón ca mu khụ thỡ c cm qua kim ó cú
mu. Cỏc mu sõu hi v ký sinh thu c, c xỏc nh tờn khoa hc
v phõn loi bi cỏn b phũng Sinh thỏi Cụn trựng, Vin Sinh thỏi v
Ti nguyờn sinh vt.
2.3.3. Phng phỏp x lý s liu
S liu c x lý theo phng phỏp thng kờ sinh hc, kt hp vi
chng trỡnh x lý Excel.
Cỏc s liu v ch s c tớnh toỏn theo cụng thc sau:
Tng s (Trng, sõu non, nhng) sõu hi b cỏc loi KS

X100

T l ký sinh chung(%) =
Tng s (trng, sõu non, nhng ) sõu hi theo dừi

T l ký sinh tng loi (%) =

Tng s (trng, sõu non, nhng) sõu hi b KS cho tng loi

X100

Tng s (trng, sõu non, nhng) sõu hi theo dừi

Thi gian sng ca ong ký sinh trng thnh:
Thi gian sng ca ong kyựsinh (ngaứ
y) =
Trong ú

ni.i
N

ni: l s cỏ th sng n ngy th i

Lê Thị Thảo

10

K32D Sinh - KTNN



Khóa luận tốt nghiệp
N: l s cỏ th theo dừi
Tyỷ leọbaột gaởp (%) =

Vi Xi:

Xi
X i

l s cỏ th thu c t mt loi vt ch

Xi: l tng s cỏ th cỏc loi ong ký sinh t mt loi vt ch

Tn xut bt gp (%) =

S ln bt gp s cỏ th ca loi
S ln thu mu

X100%

2.3.4. Dng c thớ nghim
1. Ghim cụn trựng cú cỏc s khỏc nhau (s 1, 2, 3)
2. Vt cụn trựng, ng hỳt
3. Hp nha nuụi sõu v ng mu iu tra
4. a petri ng kớnh 10cm v ng tuýp cỏc c
5. S ghi chộp ngoi ng rung, trong phũng v bỳt chỡ
6. Kớnh lỳp hai mt, mỏy nh
7. Panh mm v kộo nh, bng kớnh
8. Cỏc húa cht cn dựng : cn etanol 600-700, ấte
9. Mt ong nguyờn cht, nc sch


Lê Thị Thảo

11

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần và sự phong phú của sâu hại đậu tương khu vực Bình
Xuyên, Vĩnh Phúc và phụ cận
Kết quả điều tra trên cây đậu tương vụ xuân hè 2010 tại khu vực Bình
Xuyên, Vĩnh Phúc và phụ cận cho thấy các loại sâu hại khá phong phú, chúng
thuộc nhiều bộ, họ khác nhau. Ở đây, chúng tôi thu thập được tổng số 25 loài
thuộc 6 bộ, 15 họ khác nhau (bảng 1).
Bảng 1. Thành phần sâu hại đậu tương vụ xuân hè 2010 tại Bình Xuyên,
Vĩnh Phúc
STT
I
1
2
3
4
5
6
7
8
9

II
10
11

Tên Việt Nam

Tên khoa học

Bộ, họ

BỘ CÁNH VẢY LEPIDOPTERA
Sâu khoang
Spodoptera litura
Noctuidae
Fabricius
Sâu xanh
Helicoverpa
Noctuidae
armigera Hubner
Sâu đo xanh
Plusiaerosoma
Noctuidae
Daubleday
Sâu cuốn lá đầu Lamprosema
Pyralidae
nâu
indicata Fabricus
Sâu đục quả đậu Maruca vitrara
Crambidae
Fabricus

Sâu cuốn lá đầu Archipsasiaticus
Tortricidae
đen
Walsingham
Sâu gập lá
Chưa xác định
Sâu róm nâu đen Amsacta sp.
Arctiidae
Sâu róm 4 gù Orgyia postica
Lymantridae
vàng
(Walker)
BỘ CÁNH CỨNG COLEOPTERA
Sâu cấu xanh nhỏ Platymycterus
Curculionidae
sieveri Reuter
Sâu cấu xanh lớn Hypomees
Curculionidae
squamosus Fabricus

Lª ThÞ Th¶o

12

Mức Độ
phổ
biến
++++
+++
+

+++
+++
++
++
++
+

++++
++

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp

12
13
III
14
IV
15
16
17
18

V
19
20
VI
21

22
23
24
25

Monolepta
Chrysomelidae
signataoliver
Phyllotreta striolata Chrysomelidae
Fabricus
BỘ HAI CÁNH DIPTERA
Ruồi đục lá
Chromatonuyia
Afromyzidae
horticola Goureau
BỘ CÁNH NỬA HEMIPTERA
Bọ xít xanh
Nezara
viridrula Pentatomidae
Linnaeus
Bọ xít nâu 2 Eysarcoris ventralis Pentatomidae
chấm trắng
(Walker)
Bọ xít gai dài
Cletus trigonus
Coreidae
Thumberg
Bọ xít xanh vai Piezodorus
Pentatomidae
đỏ

rubrofasciatus
Fabricus
BỘ CÁNH ĐỀU HOMOPTERA
Rệp đậu
Aphis glycines
Aphididae
Matsumura
Rầy xanh lá mạ
Empoasca flavscens
Cicadellidae
Fabricus
BỘ CÁNH THẲNG ORTHOPTERA
Châu chấu lúa
Oxya velox Fabricus
Acridiidae
Châu chấu nâu
Trilophidia sp.
Acridiidae
Cào cào nhỏ
Actractomorpha
Acridiidae
chinensis Bolivar
Dế mèn lớn
Brachytrupes
Gryllidae
portentosus Licht
Dế dũi
Gryllotalpa
Gryllotalpidae
orientalis

Burmeister
Bọ ăn lá nâu 4
chân trắng
Bọ nhảy sọc
cong

Ghi chú :

+:

rất ít (< 20% số lần bắt gặp)

++ :

ít (21 - 41 % số lần bắt gặp)

+++ :

trung bình (41 – 60% số lần bắt gặp)

++++ :

nhiều (>61% số lần bắt gặp)

Lª ThÞ Th¶o

13

++
+


+

+
+
+

++

+

+
++

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp
Số liệu bảng 1 cho thấy so với kết quả điều tra sâu hại trên đậu tương
năm 2006- 2007 tại khu vực Gia Lâm, Hà Nội của Đỗ Thị Phương Lan (2007)
thì số lượng loài sâu hại mà chúng tôi đã điều tra được kém phong phú hơn
[8]. Chúng tôi chỉ thu thập được tổng số 25 loài sâu hại thuộc 6 bộ là: bộ
Cánh vảy (Lepidoptera), bộ Cánh cứng (Coleoptera), bộ Hai cánh (Diptera),
bộ Cánh nửa (Hemiptera), bộ Cánh thẳng (Orthoptera) và bộ Cánh ều
(Homoptera). Trong đó bộ Cánh vảy (Lepidoptera) có số lượng loài nhiều
nhất: 9 loài, sau đó đến bộ Cánh thẳng (Orthoptera): 5 loài, tiếp theo là bộ
Cánh cứng (Coleoptera) và bộ Cánh nửa (Hemiptera) mỗi bộ 4 loài, bộ Cánh
đều (Homoptera) có 2 loài, cuối cùng là bộ Hai cánh (Diptera) có 1 loài Trong
khi đó Đỗ Thị Phương Lan (2007) đã thu thập được tổng số 36 loài thuộc 6
bộ. Mức độ phổ biến của các loài có mặt trong 2 kết quả ngang nhau. Điều

này cho thấy mức độ phổ biên sâu hại trên cây đậu tương ở miền Bắc ít có sự
thay đổi giữa các vùng khác nhau.
Trong thời gian điều tra sâu hại chúng tôi nhận thấy sâu hại đậu tương
thường xuyên có mặt trên cánh đồng đậu tương từ lúc đậu tương có hai lá đến
khi cây thu hoạch được. Nhưng tùy thuộc giai đoạn sinh trưởng và phát triển,
tình hình thời tiết, mùa vụ và tùy thuộc vào biện pháp phòng trừ hóa học của
con người mà số lượng và thành phần của chúng có sự thay đổi.
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy sâu cuốn lá đậu L. indicata và sâu
khoang S. litura thuộc bộ Cánh vảy (Lepidoptera) là những loài có mức độ
phổ biến lớn, thường xuyên bắt gặp trên cánh đồng đậu tương. Đặc biệt là sâu
cuốn lá đầu nâu mức độ phổ biến của chúng có thể lên tới 80%. Sâu cuốn lá
đậu và sâu khoang là hai loài sâu hại chính trên cây đậu tương. Kết quả này
hoàn toàn phù hợp với nhiều công trình nghiên cứu trước đây của Vũ Quang Côn
(1996), Quách Thị Ngọ (2006), Đỗ Thị Phương Lan (2007)… [3], [11], [10].

Lª ThÞ Th¶o

14

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp
Vì thế, có thể nhận định đây là những loài gây hại quan trọng đến năng suất

đậu tương trong những năm gần đây.
3.2. Thành phần và sự phong phú của ký sinh sâu hại thuộc bộ cánh vảy
trên đậu tương ở Bình Xuyên, Vĩnh Phúc và phụ cận
Trong vụ thu đông năm 2009 và xuân hè năm 2010 ở khu vực Bình
Xuyên, Vĩnh Phúc và phụ cận chúng tôi thu thập được 3 loài ký sinh sâu cuốn

lá, 5 loài ký sinh sâu khoang từ nuôi sinh học. Đồng thời, chúng tôi thu được
thêm một loài ký sinh nhờ phương pháp vợt đó là ong kén trăng chùm Cotesia
euficrus theo các loài tài liệu trước đây vật chủ của nó được xác định là sâu đo

xanh.

Lª ThÞ Th¶o

15

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp

Bảng 2. Thành phần ký sinh sâu cuốn lá Lamprosema indicata và ký sinh
sâu khoang Spodoptera litura hại đậu tương vụ thu đông 2009 và xuân hè
2010 taị Bình Xuyên, Vĩnh Phúc và phụ cận
Phương
pháp thu

ST
T

1

2
3

Tên ký sinh


Tên vật
chủ

Pha vật
chủ bị
ký sinh Vợt

Nuôi
sinh
học

BỘ CÁNH VẢY HYMENOPTERA
Họ Braconidae
Ong kén trắng
đơn Apanteles
L. indicata Sâu non
+
+
hanoii Tobias et
Long
Microplitis
S. litura
Sâu non
+
+
manilae Ashmead
Ong kén trắng
Sâu đo
chùm Cotesia

xanh
Sâu non
+
ruficrus
Plusia sp.

Số
lượng
vũ hóa
từ nuôi
sinh
học

5

Tỷ lệ
bắt gặp
(%)

3,125%

62

91,18%

Họ Chalcididae
4

5
6


7

Brachymeria
lasus (Walker)
Mesochorus sp
Ong cự nâu
Trathala flavoorbitalis
(Cameron)
Trathala flavoorbitalis
(Cameron)

L. indicata Nhộng

+

1

0,625%

Họ Ichneumonidae
S. litura
Sâu non

+

1

1,47%


L. indicata Sâu non

+

136

85%

+

2

+

18

11,25%

+
+

3
2

4,41%
2,54%

Maruca
vitrata


+

Sâu non

Họ Eulophidae
8

Ong ký sinh bậc 2

9
Actia sp.
10 Ruồi nhộng đỏ

Lª ThÞ Th¶o

T. flavoNhộng
orbitalis
BỘ HAI CÁNH DIPTERA
Họ Tachinidae
S. litura
Sâu non
+
S. litura
Sâu non

16

K32D Sinh - KTNN



Khãa luËn tèt nghiÖp
Sâu khoang S. litura bị 4 loài ký sinh, chúng đều là những loài tấn công
ở giai đoạn sâu non. Trong tập hợp kí sinh trên sâu khoang thì loài
Mesochoruss sp. là một trong những loài mới được phát hiện trong những
năm gần đây (Khuất Đăng Long và ctv, 2005) [7]. Hiện nay, chỉ có một số ít
công trình khoa học công bố loại ong này, chúng là loài ký sinh ở giai đoạn
sâu non. Trước đây, tác giả Vũ Quang Côn (1992) đã ghi nhận một loài ong
thuộc giống này ký sinh trên sâu cuốn lá nhỏ Canapphalocrosis meninalis. Do
không có mẫu tiêu bản của loài ong ký sinh này nên có thể coi đây là loài
được phát hiện lần đầu tiên trên sâu khoang bởi Khuất Đăng Long và ctv
(2005).
Qua bảng số liệu trên cho thấy từ phương pháp nuôi sinh học đã thu
được kết quả như sau: sâu cuốn lá L. indicata bị 4 loài tấn công. Trong đó, 2
loài tấn công ở giai đoạn sâu non (Apanteles hanoii và T. flavo-orbitalis) và 1
loài ở giai đoạn nhộng (Brachymeria lasus) và 1 loài ký sinh bậc 2. Trong số
côn trùng ký sinh thu được thì ong cự T. flavor-orbilalis chiếm ưu thế tuyệt
đối (85%), sau đó đến ong ký sinh bậc 2

(11,25%), Apanteles

hanoii

(3,125%), cuối cùng là Brachymeria lasus (0,625%).
Khi thu thập sâu hại chúng tôi nhận thấy sâu non L. indicata thu ở độ
tuổi 2-3 và tuổi 3 bị nhiễm ký sinh nhiều nhất. Ở tuổi 4-5 thì tỷ lệ ký sinh ít
hơn. Đối với sâu tuổi 1 và tuổi 5 hầu như không thấy xuất hiện ký sinh. Như
vậy, loài ong cự T. flavor-orbilalis có tính lựa chọn độ tuổi để đẻ trứng vào
sâu non. Tuổi thích hợp của sâu non để ong ký sinh đẻ trứng là khoảng tuổi 23 và tuổi 3. Đây là giai đoạn thích hợp cho sự phát triển của ấu trùng ong
trong cơ thể vật chủ.
Trong quá trình nghiên cứu và nuôi sinh học, chúng tôi nhận thấy thời

gian phát triển của T. flavor-orbilalis từ pha kén sang pha trưởng thành
khoảng 10-12 ngày ở vụ xuân hè và 14-17 ngày vụ thu đông. Như vậy, nhiệt

Lª ThÞ Th¶o

17

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp
độ có ảnh hưởng lên thời gian phát triển của ong cự T. flavor-orbilalis. Đối
với nhiệt độ cao thì thời gian phát triển của chúng nhanh hơn so với nhiệt độ
thấp. Ngoài ra, chúng tôi còn thu được loài này trên sâu đục quả. Trong
trường hợp ký sinh trên sâu đục quả do vật chủ lớn hơn trên sâu cuốn lá nhỏ
nên kích thước của ong trưởng lớn hơn so với trường hợp ký sinh trên sâu
cuốn lá. Điều này cho thấy loài ong cự T. flavor-orbilalis có tính đa vật chủ
nên chúng có ý nghĩa lớn trong biện pháp sinh học phòng trừ sâu hại trên đậu
tương.
3.3 Diễn biến số lượng của các loài sâu hại quan trọng và ong ký sinh của
chúng
3.3.1. Sự xuất hiện và vai trò của các loài ký sinh trong việc hạn chế số
lượng sâu cuốn lá hại đậu tương
Trên cây đậu tương, sâu cuốn lá thường xuất hiện từ rất sớm, ngay từ
khi đậu tương có một lá kép. Tuy nhiên mật độ sâu cuốn lá có sự thay đổi
theo từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây. Trong thời gian nghiên
cứu, chúng tôi nhận thấy ở giai đoạn đậu tương chuẩn bị ra hoa (5-6 lá thật)
mật độ sâu cuốn lá đạt cao nhất, mật độ trung bình khoảng 2 con/cây. Cùng
với sự xuất hiện của sâu hại là sự xuất hiện của các loài ong ký sinh. Trong
tập hợp ong ký sinh của sâu cuốn lá thì loài ong cự T. flavor-orbitalis xuất

hiện sớm nhất, khi đậu tương có khoảng 2- 3 lá kép. Loài Apanteles hanoii thì
xuất hiện muộn hơn, lúc đậu tương có 4- 5 lá kép. Loài Brachymeria lasus và
ký sinh bậc 2 xuất hiện khi đậu tương đã vào quả.
Ngoài ra, giai đoạn mật độ sâu cuốn lá đạt đỉnh cao nhất cũng là lúc các
loài ong ký sinh hoạt động mạnh nhất. Lúc này, tỷ lệ ký sinh chung của tập
hợp ký sinh theo dõi trong phòng thí nghiệm ở giai đoạn này đạt rất cao, số
lượng cá thể thu được từ nuôi sinh học lớn. Kết quả điều tra cho thấy vào tất
cả các giai đoạn loài ong cự nâu T. flavor-orbitalis cũng chiếm ưu thế tuyệt

Lª ThÞ Th¶o

18

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp
đối so với các loài còn lại (bảng 3). Đồng thời, chúng tôi nhận thấy loài T.
flavor-orbilalis luôn xuất hiện song song với sự xuất hiện của sâu cuốn lá trên
đậu tương. Chúng xuất hiện trong suốt thời gian nghiên cứu ở cả vụ thu đông
năm 2009 và xuân hè năm 2010. Trong khi đó, chúng tôi chỉ thu được loài
ong kén trắng đơn Apanteles hanoii, Brachymeria lasus và ong ký sinh bậc 2
ở vụ xuân, hè mà không thấy xuất hiện ở vụ thu, đông. Điều này cho thấy
thành phần côn trùng ký sinh vụ xuân, hè có sự phong phú hơn so với vụ thuđông.
Bảng 3. Tỷ lệ bắt gặp của sâu cuốn lá đậu tương Lamprosema indicata và
tập hợp ong ký sinh vụ xuân hè năm 2010 tại Bình Xuyên, Vĩnh Phúc
Tỷ lệ bắt gặp
Thời
gian


Ong ký

T. flavo- Apanteles

B.

orbitalis

lasus

hanoii

Tập hợp Sâu cuốn

sinh bậc

ong

lá đậu

2

ký sinh

L. indicata

03 / III

0


0

0

0

0

3,71

07 / III

6,52

2,17

0

0

8,69

11,84

09 / III

5,43

0


0

0

5,43

9,13

14 / III

11,96

2,17

0

0

14,13

15,26

20 / III

9,78

0

0


0

9,78

15,13

27 / III

13,05

1,09

0

0

14,14

11,84

31 / III

9,78

0

0

0


9,78

13,55

3 / IV

10,87

0

0

0

10,87

11,13

10/ IV

6,52

0

1,09

19,57

27,18


8,41

Tổng

73,91%

5,43%

1.09%

19,57%

100 %

100 %

Lª ThÞ Th¶o

19

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp

30
Sâu cuốn lá đậu L. indicata
Ong ký sinh bậc 2
Tập hợp ong ký sinh
T. flavo-orbitalis

Apanteleshanoii
B. lasus

Tỷ lệ bắt gặp (%)

25
20
15
10
5
0
03 / III

07 / III

09 / III

14 / III

20 / III

27 / III

31 / III

3 / IV

10/ IV

Thời gian


Hình 1. Sự xuất hiện của sâu cuốn lá đậu tương Lamprosema indicata và
tập hợp ký sinh của chúng (vụ xuân hè 2010).
Qua bảng 3 và hình 1, ta thấy vai trò chủ đạo của loài ong cự T. flavororbitalis trong tập hợp ong ký sinh của sâu cuốn lá đậu tương vụ xuân hè năm
2010 tại Bình Xuyên, Vĩnh Phúc và phụ cận. Ở đây còn nhận thấy tỷ lệ bắt
gặp của ký sinh có sự thay đổi tương ứng với tỷ lệ bắt gặp của sâu cuốn lá đậu
tương L. indicata. Như vậy, nếu phun thuốc trừ sâu hóa học vào lúc mật độ
sâu hại cao nhất chắc chắn sẽ tiêu diệt một số lượng đáng kể các loài ong ký
sinh xuất hiện cùng lúc trên đồng ruộng.
Hình 1 còn cho thấy sự xuất hiện của loài ký sinh ưu thế T. flavororbitalis chỉ ra tần xuất bắt gặp của cả tập hợp ong ký sinh. Đồng thời, theo
những công trình nghiên cứu trước đây của Khuất Đăng Long và ctv (2004)
tại Hà Tây cũng cho thấy ong cự cũng là loài chiếm ưu thế trong tập hợp ký
sinh của sâu cuốn lá đậu [9]. Như vậy, ở đây ta có thể thấy được loài ong cự
nâu T .flavo-orbitalis là loài có vai trò quan trọng, được xem như yếu tố “chìa
khóa” trong việc hạn chế số lượng sâu cuốn lá đậu L. indicata.

Lª ThÞ Th¶o

20

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp
Ong ký sinh bậc 2 có tần suất bắt gặp thấp nhưng lại có tỷ lệ bắt gặp
cao. Chúng là ong ký sinh của ong ký sinh bậc 1 (ong ký sinh sâu hại). Sự
xuất hiện của chúng làm giảm số lượng ong ký sinh bậc 1. Vì vậy, đây là
những loài có hại đối với sản xuất nông nghiệp.
3.3.2 Sự xuất hiện và vai trò của các loài ký sinh trong việc hạn chế số
lượng sâu khoang Spodoptera litura hại đậu tương

Sâu khoang S. litura là một trong hai loài sâu hại chính trên cánh đồng
đậu tương và số lượng của chúng cũng bị nhiều loài ong ký sinh khống chế.
Trong số 4 loài ong ký sinh mà chúng tôi thu thập được trên sâu khoang thì
loài ong đen kén nâu M. manilae là loài thường xuất hiện và chiếm ưu thế về
số lượng so với 3 loài còn lại (bảng 4).
Bảng 4. Tỷ lệ bắt gặp của sâu khoang Spodoptera litura và tập hợp ong ký
sinh vụ xuân hè năm 2010 tại Bình Xuyên, Vĩnh Phúc
Thời

Tỷ lệ bắt gặp %
M.

Mesoch

Actia

Ruồi

manilae

orus

sp.

nhộng đỏ

ký sinh

S. litura


03 / III

18,18

0

0

0

18,18

16,05

07 / III

7,57

0

0

0

7,57

13,3

09 / III


4,54

1,52

0

0

6,06

7,8

14 / III

18,18

0

0

0

18,18

13,3

20 / III

10,60


0

1,52

0

12,12

10,09

27 / III

12,12

0

1,52

1,52

15,16

11,48

31/ III

6,06

0


0

0

6,06

8,71

03 /IV

6,06

0

0

0

6,06

7,34

10 /IV

7,57

0

1,52


1,52

10,61

11,93

Tổng

90,88%

1,52 %

4,56%

3,04%

100%

100 %

gian

Lª ThÞ Th¶o

21

Tập hợp Sâu khoang

K32D Sinh - KTNN



Khãa luËn tèt nghiÖp

Sâu k hoang S. litura
Ruồi nhộng đỏ
Tập hợp k ý sinh
M. manilae
Mesochorus
Actia sp.

Tỷ lệ bắt gặp (%)
20
18
16
14
12
10
8
6
4
2
0

Thời gian
03 / III 07 / III 09 / III 14 / III 20 / III 27 / III

31/ III 03 /IV

10 /IV


Hình 2. Sự xuất hiện của sâu khoang Spodoptera litura hại đậu tương và
tập hợp ký sinh của chúng (vụ xuân hè 2010)
Số liệu ở bảng 4 và hình 2 trên cho thấy, trong tập hợp ký sinh sâu
khoang vụ xuân hè 2010 tại Bình Xuyên, Vĩnh Phúc thì loài ong đen kén nâu
M. manilae là loài có tỷ lệ bắt gặp cao nhất. Đây là loài ký sinh có vai trò
quan trọng nhất và được xem như yếu tố chính trong việc hạn chế số lượng
sâu khoang S. litura . Tuy nhiên, trong kết quả nghiên cứu của Vũ Quang Côn
và ctv (1996) lại cho thấy trong tập hợp ký sinh sâu khoang thì Mesochorus
lại đóng vai trò chủ đạo trong việc hạn chế số lượng sâu khoang [3]. Kết quả
chúng tôi thu được cũng phù hợp với kết quả mà Khuất Đăng Long và ctv
(2005) thu được tại Hà Tây [9]. Trong khi đó, các công trình nghiên cứu trước
đây cho rằng trong tập hợp ký sinh trên sâu khoang thường phải kể đến các
loài ong đen khác như : M. manilae, M. tuberculifer và M. pallidipes. Vì vậy,
có thể khẳng định rằng trong nhiều năm trở lại đây loài M. manilae đóng vai
trò quan trọng trong việc kìm hãm số lượng sâu khoang. Chúng xuất hiện từ

Lª ThÞ Th¶o

22

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp
rất sớm, ngay từ khi đậu tương có 2 lá thật. Tỷ lệ bắt gặp của loài này so với
tập hợp ký sinh sâu khoang đạt 90,88%.
Các loài ong ký sinh còn lại có tỷ lệ bắt gặp ít hơn dưới 10%. Vì vậy,
so với loài ong ký sinh M. manilae thì chúng có vai trò ít quan trọng hơn.
Phân tích số liệu điều tra nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy phần lớn sâu
khoang bị nhiễm ký sinh khi chúng ở tuổi 1-2 và 2. Ở giai đoạn này vừa đảm

bảo sâu non có đủ chất dinh dưỡng để nuôi ấu trùng ký sinh phát triển đến
giai đoạn vào kén, vừa đảm bảo sâu hại chưa vào nhộng. Vì thế loài ong ký
sinh này thường chọn sâu non vật chủ ở tuổi này để đẻ trứng.
3.4. Đặc điểm sinh học của hai loài ong trưởng thành ký sinh trên sâu hại
đậu tương Lamprosema indicata.
3.4.1. Đặc điểm sinh học của ong trưởng thành Trathala flavo-orbitalis
ký sinh trên sâu cuốn lá hại đậu tương
3.4.1.1. Giới tính của ong cự nâu ký sinh Trathala flavo-orbitalis
Ong cự nâu Trathala flavo-orbitalis có tỷ lệ bắt gặp cao. Loài ong này
có kích thước trung bình. Chúng có cơ thể thuôn dài, cánh lớn, phần bụng và
phần ngực màu vàng sẫm. Con cái có máng đẻ trứng dài. Con đực có kích
thước nhỏ hơn con cái và không có máng đẻ trứng. Kết quả từ nuôi sinh học
cho thấy tỷ lệ ♂ / ♀  1: 1 (bảng 5).

Lª ThÞ Th¶o

23

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp

Bảng 5. Tỷ lệ giới tính của trưởng thành loài ong cự nâu Trathala flavororbitalis trong điều kiện phòng thí nghiệm
Thời gian Tỷ lệ cá thể đực (%) Tỷ lệ cá thể cái (%)

Tổng (%)

03 / III


0%

0%

0%

07 / III

5,88%

2,94%

8,82%

09 / III

2,94%

4,41%

7,35%

14 / III

5,88%

10,30%

16,18%


20 / III

4,41%

8,83%

13,24%

27 / III

10,30%

7,35%

17,65%

31 / III

7,35%

5,88%

13,23%

3 / IV

8,83%

5,88%


14,71%

10/ IV

2,94%

5,88%

8,82%

Tổng

48,53%

51,47%

100%

Bảng 5 cho thấy mặc dù tỷ lệ ♂ / ♀ có sự khác nhau tùy thuộc vào thời gian
điều tra. Tuy nhiên, khi xét chung cả đợt điều tra thì tỷ lệ ♂ / ♀  1: 1. Điều
này chứng tỏ khả năng giao phối giữa ong đực và ong cái của loài ong cự nâu
T. flavo-orbitalis là rất tốt. Do đó chúng có khả năng duy trì và phát triển số
lượng cá thể trong quần thể ở các thế hệ tiếp theo. Vì vậy, vai trò chủ đạo của
chúng trong tập hợp ký sinh sâu cuôn lá đậu L. indicata được giữ vững.
3.4.1.2. Thời gian sống của ong trưởng thành loài ong cự nâu Trathala
flavo-orbitalis trong điều kiện phòng thí nghiệm.
Để theo dõi thời gian sống của loài ong cự trưởng thành trong điều kiện
phòng thí nghiệm chúng tôi tiến hành nuôi chúng theo 2 công thức: cho ăn
mật ong nguyên chất và cho ăn nước lã. Số lượng ong trưởng thành được sử
dụng mỗi công thức là 35 con với tỷ lệ ♂ / ♀  1: 1. Kết quả mà chúng tôi


Lª ThÞ Th¶o

24

K32D Sinh - KTNN


Khãa luËn tèt nghiÖp
thu được là có sự khác nhau về thời gian sống của T. flavo-orbitalis ở hai
công thức cho ăn (bảng 6, hình 3).
Bảng 6. Thời gian sống của ong trưởng thành T. flavo-orbitalis
Thời gian
sống

Cho ăn mật ong (cá thể )

Không cho ăn (cá thể)





Tổng số ong





Tổng số ong


1

2

1

3

3

4

7

2

1

1

2

5

4

9

3


1

1

4

9

8

17

4

1

2

3

1

1

2

5

2


0

2

6

0

1

1

7

1

1

2

8

2

2

4

9


2

1

3

10

1

2

3

11

3

2

5

12

0

2

2


13

2

1

3

Tổng

18

17

35

18

17

35

TB (ngày)

7,28

7,70

7,57


2,44

2,35

2,4

(ngày)

Lª ThÞ Th¶o

25

K32D Sinh - KTNN


×