Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

BÀI KIỂM TRA TRIẾT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.06 KB, 20 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
BÀI KIỂM TRA TRIẾT HỌC
Câu 1: . Phân tích và chứng minh đặc điểm cơ bản nhất của triết học
Trung Hoa cổ trung đại
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên
kỷ III tr. CN kéo dài tới tận thế kỷ III tr. CN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất
Trung Hoa mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Trong hơn 2000 năm lịch sử ấy, lịch sử
Trung Hoa được phân chia làm 2 thời kỳ lớn: Thời kỳ từ thế kỷ IX tr. CN trở về
trước và thời kỳ từ thế kỷ VIII tr. CN đến cuối thế kỷ III tr. CN.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ , trung đại
Thứ nhất, triết học Trung Hoa cổ, trung đại luôn nhấn mạnh tinh thần nhân văn,
chú trong đến các tư tưởng triết học liên quan đến con người, còn triết học tự nhiên
có phần mờ nhạt.
Thứ hai, triết học Trung Hoa cổ, trung đại chú trọng đến lĩnh vực chính trị -đạo
đức của xã hội, coi việc thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của
một đời người. Có thể nói, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển
về nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng của Trung Hoa
Thứ ba, triết học Trung Hoa cổ, trung đại nhấn mạnh sự thống nhất hài hòa giữa tự
nhiên và xã hội, phản đối sự "thái quá" hay"bất cập".
Thứ tư, Triết học Trung Hoa cổ, trung đại là nhận thức trực giác, coi trọng tác
dụng của cái "Tâm", coi đó là gốc rễ của nhận thức.
Đặc điểm cơ bản nhất của triết học Trung Hoa cổ, trung đại chính là đặc điểm
thứ tư đó là nhận thức trực giác, coi trọng tác dụng của cái “Tâm”, coi đó là gốc rễ
của nhận thức.Điều đó được thể hiện ở một số học thuyết tiêu biểu của triết học
Trung hoa cổ trung đại
Thuyết Âm- Dương, Ngũ hành
Ở Trung Hoa, những quan niệm triết lý về "âm - dương", "ngũ hành" đã được
lưu truyền từ rất sớm. Tới thời Xuân thu - Chiến quốc, những tư tưởng về Âm dương
- Ngũ hành đã đạt tới mức là một hệ thống các quan niệm về bản nguyên và tính biến


dịch của thế giới.
- Tư tưởng triết học về Âm- Dương
Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và
phổ biến của vạn vật; đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau là Âm và
Dương."Âm" là một phạm trù rất rộng, phản ánh khái quát những thuộc tính phổ biến
của vạn vật như: nhu, thuận, tối, ẩm, phía dưới, phía phải, số chẵn (2,4,6...). "Dương"
là phạm trù đối lập với "Âm", phản ánh khái quát những tính chất phổ biến của vạn
vật như: cương, cường, sáng, khô, phía trên, phía trái, số lẻ (1,3,5...). Nhưng hai thế
lực Âm - Dương không tồn tại biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau
theo ba nguyên lý căn bản.
+ Âm - Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi là nguyên lý của
sự thống nhất của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý này nói lên tính toàn
vẹn, chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự
thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng
biến đổi Âm - Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
Hai nguyên lý này thường được các học giả phái Âm - Dương khái quát bằng vòng
tròn khép kín (tượng trưng cho Thái cực, trong đó được chia thành hai nửa (đen
trắng) và trong nửa này đã bao hàm nhân tố của nửa kia (trong phần đen có nhân tố
của phần trắng và ngược lại), biểu hiện cho nguyên lý trong Dương có Âm và trong
Âm có Dương.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý: Dương
tiến đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại; đồng thời "Âm thịnh thì Dương khởi",
"Dương cực thì Âm sinh".
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng, phong phú
của vạn vật, phái Âm - Dương đã đưa ra lôgíc tất định: Thái cực sinh Lưỡng nghi
(Âm - Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương - Thiếu Âm - Thiếu Dương -
Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái ( Càn - Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn -

Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô cùng vô tận).
Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh
trong tác phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là một động thái,
một thời của vạn vật và nhân sinh, xã hội như: Kiền, Khôn, Bĩ, Thái, Truân...; Sự chú
giải Kinh Dịch là của nhiều bậc trí thức ở nhiều thời đại khác nhau với những xu
hướng khác nhau. Điều đó tạo ra một "tập đại thành" của sự chú giải, bao hàm những
tư tưởng triết học hết sức phong phú và sâu sắc.
- Tư tưởng Ngũ hành
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của vạn
vật và quy nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau, những
tương tác (tương sinh, tương khắc) với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim - Mộc - Thủy
- Hỏa - Thổ. Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khô, cay, phía Tây, v.v.; Thủy
tượng trưng cho tính chất đen, mặn, phía Bắc, v.v.; Mộc tượng trưng cho tính chất
xanh, chua, phía Đông, .v.v.; Hỏa tượng trưng cho tính chất đỏ, đắng, phía Nam,.v.v.;
Thổ tượng trưng cho tính chất vàng, ngọt, ở giữa,.v.v.
Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng
sinh - khắc với nhau theo hai nguyên tắc:
+ Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh
Mộc; Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ.v.v.
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc
Kim; Kim khắc Mộc và Mộc khắc Thổ.v.v.
Sự hợp nhất giữa tư tưởng triết học Âm - Dương và Ngũ hành đã làm cho mỗi
thuyết có sự bổ túc, hoàn thiện hơn, thể hiện điển hình ở chỗ: các quẻ đơn (Càn -
Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài) đều được quy về Ngũ hành để biện
giải và ngược lại, Ngũ hành cũng mang tính cách Âm - Dương. Chẳng hạn: Kiền -
Đoài thuộc hành Kim; chấn - Tốn thuộc hành Mộc v.v. và Kim cũng có Kim Âm và
Kim Dương; Mộc cũng có Mộc Âm và Mộc Dương.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nho gia (thường gọi là Nho giáo)

Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI tr. CN dưới thời Xuân Thu, người sáng
lập là Khổng Tử (551 - 479 tr. CN). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh
Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau: duy vật và duy
tâm, trong đó dòng Nho gia Khổng - Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong
lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận.
Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học, Trung Dung,
Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu). Các kinh sách này hầu
hết đều viết về xã hội, về kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa. Điều này cho thấy rõ xu
hướng biện luận về xã hội, về chính trị - đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho
gia. Những quan niệm đó được thể hiện ở những tư tưởng chủ yếu sau:
Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền tảng
của xã hội, trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ (gọi là
Tam cương). Nếu xếp theo tôn ty trật tự, trên dưới thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu
xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều này
phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia.
Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội
đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh nên lý tưởng của Nho gia là xây dựng
một "xã hội đại đồng". Đó là một xã hội có trật tự trên - dưới, có vua sáng - tôi hiền,
cha từ - con thảo, trong ấm - ngoài êm trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành
viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc
cũ cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến đang lên.
Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng
"đại đồng". Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội nên nền giáo dục
của Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong bảng giá trị
đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là "Nhân". Những chuẩn mực khác như Lễ,
Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.v .v. đều là những biểu hiện cụ thể của Nhân.
Thứ tư, Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người. Việc giải quyết những vấn
đề chính trị -xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học thuyết khác của Trung Hoa
thời cổ phải đặt ra và giải quyết vấn đề bản tính con người. Trong học thuyết Nho gia
không có sự thống nhất quan điểm về vấn đề này, nhưng nổi bật là quan điểm của

Mạnh Tử. Theo ông, "bản tính con người vốn là thiện" (Nhân chi sơ, tính bản thiện).
Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh ra như:
Nhân, Nghĩa, Lễ .v.v.
Mạnh Tử đã thần bí hóa những giá trị chính trị - đạo đức đến mức coi chúng là
tiên thiên, bẩm sinh. Do quan niệm tính thiện nên Nho gia (dòng Khổng - Mạnh) đề
cao sự giáo dục con người để con người trở về đường thiện với những chuẩn mực
đạo đức có sẵn.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là Thiện, Tuân Tử lại coi bản tính con
người vốn là ác (Nhân chi sơ, tính bản ác). Mặc dù vậy, nhưng có thể giáo hóa trở
thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí....). Xuất phát từ quan niệm đó về tính người, Tuân
Tử chủ trương đường lối trị nước kết hợp giữa Nho gia và Pháp gia.
Người sáng lập ra Nho gia là Khổng Tử (551 - 479 tr.CN)
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử luôn có những mâu thuẫn.
Một mặt, khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương thời, ông thừa nhận sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn tự vận động,biến hóa không phụ thuộc vào mệnh
lệnh của Trời. “ Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vận hành, vạn vật sinh hóa mãi mãi”
(Luận ngữ, Dương Hóa, 18); hay “ cũng như dòng nước chảy, mọi vật đều trôi đi,
ngày đêm không ngừng, không nghỉ” (Luận ngữ, Tử Hãn, 16). Đó là yếu tố duy vật
chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát của ông. Mặt khác, ông lại cho rằng Trời có
ý chí và có thể chi phối vận mệnh của con người (Thiên mệnh). Đó là yếu tố duy tâm
khách qua trong quan điểm của ông. Ông nói: “Đạo của ta thi hành ra được cũng do
mệnh Trời, mà bị bỏ phế cũng là do mệnh Trời” (Luận ngữ, Hiến vấn, 38); “làm sao
có thể cải được mệnh Trời”. Hiểu biết mệnh Trời là một điều kiện tất yếu để trở
thành con người hoàn thiện là người quân tử. Cũng như thế, một mặt Khổng Tử
tuyên truyền sức mạnh của quỷ thần; nhưng mặt khác ông lại nhấn mạnh vai trò quan
trọng của hoạt động con người trong đời sống.
Quan niệm về nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát triển, không đặt
ra vấn đề chân lý mà chỉ dừng lại ở vấn đề “tri thức luận” (tri thức do đâu mà có).

Theo ông, tri thức có hai loại là “thượng trí” (không học cũng biết) và “hạ ngu”(học
cũng không biết). Nghĩa là ông đã thừa nhận có tri thức tiên thiên, có trước sự nhận
thức của con người. Đối tượng để dạy dỗ, giáo hóa nằm giữa “trí” và “ngu”, nếu chịu
khó học tập có thể vươn tới thượng trí. Còn không học thì rơi xuống hạ ngu. Ưu
điểm của ông là chủ trương “hữu giáo vô loại” (học thì không phân loại). Khổng Tử
cũng nêu ra một số phương pháp học tập có ý nghĩa như: học phải đi đôi với luyện
tập; học phải kết hợp với suy nghĩ; phải ôn cũ để biết mới; học phải nắm được cái cốt
yếu”Tuy nhiên, hạn chế của Khổng Tử là ở quan niệm học theo lối “hoài cổ”, coi
thường tri thức về sản xuất, lao động chân tay.
Tư tưởng về luân lý, đạo đức, chính trị - xã hội là một trong những vấn đề cốt lõi
trong học thuyết Khổng Tử. Những nguyên lý đạo đức cơ bản nhất trong học thuyết
đạo đức của Khổng Tử là : Nhân, lễ, trí, dũng...cùng với một hệ thống quan niệm về
chính trị - xã hội như “nhân trị”, “chính danh”, “thượng hiền”, “quân tử”, “tiểu
nhân”...
Khổng Tử lấy chữ “Nhân” làm nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học của mình.
Nhân có ý nghĩa rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống con người, có lúc trừu
tượng, có lúc cụ thể, tuỳ theo trình độ, hoàn cảnh mà ông giảng giải về nhân với nội
dung khác nhau. “Sửa mình theo lẽ là nhân”, “ Điều gì mình không muốn, đừng đem
nó làm cho người khác là nhân”, “yêu thương người là nhân”...Tư tưởng bao trùm
của Nhân là yêu thương con người, là đạo làm người.
Để điều nhân có thể thực hiện được thì phải bằng “lễ”. Lễ ở Khổng Tử là những
phong tục, tập quán, những quy tắc, quy định trật tự xã hội và cả thể chế pháp luật
Nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn tế lễ, triều sính, luật lệ, hình pháp...Lễ được coi là
hình thức biểu hiện của nhân. Mặc dù kiên trì bảo vệ lễ của nhà Chu , nhưng Khổng
Tử cũng đưa thêm những nội dung mới và phát triển nó lên, biến lễ thành một phạm
trù có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mục đích của Khổng Tử là xây dựng một xã hội có tôn ty trật tự, kỷ cương. Để
làm đươc điều đó cần phải có “lễ” và “chính danh”. “Chính danh là làm mọi việc cho

ngay thẳng”(Luận ngữ, Nhan Uyên,1); “Chính danh thì người nào có địa vị, bổn
phận chính đángcủa người ấy, trên dưới, vua tôi, cha con trật tự phân minh, vua lấy
lễ mà khiến tôi, tôi lấy trung mà thờ vua”(Luận ngữ, Bát Dật, 19)...Theo Khổng Tử,
muốn trị nước trước tiên phải sửa mình cho chính danh, vì “danh không chính thì lời
nói không thuận; lời nói không thuận thì sự việc không thành công; sự việc không
thành công thì lễ nhạc không hưng thịnh; lễ nhạc không hưng thịnh thì hình phạt
không đúng; hình phạt không đúng thì dân không biết theo ai?” (Luận ngữ, Tử Lộ,
3). Xuất phát từ tình hình loạn lạc của xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu, Khổng Tử
đã nêu lên thuyết “chính danh”, nhưng trên thực tế, học thuyết này mang tính bảo
thủ, bảo vệ cho lợi ích của quý tộc nhà Chu.
Để thực hiện mục đích của mình, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo
huyết thống và chủ trương “thượng hiền”, dùng người không phân biệt đẳng cấp xuất
thân của họ. Trong việc chính trị, vua phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán
và rộng lượng với những kẻ cộng sự” (Luận ngữ, Tử Lộ, 2). Việc ông mở trường dạy
học chính là nhằm mục đích đào tạo ra những người có tài, đức tham gia vào công
cuộc cai trị.
Toàn bộ học thuyết về nhân, lễ, chính danh... của Khổng Tử là nhằm phục vụ
mục đích chính trị là “Đức trị”. Ông phản đối việc dùng hình phạt để trị dân vì làm
như vậy, dân sợ mà phải theo chứ không phục. Theo ông, làm chính trị mà dùng đức
cảm hóa người thì giống như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà các sao khác đều chầu đến.
So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và mang tính hệ
thống hơn cả; hơn thế nữa, nó còn là hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị
Trung Hoa suốt hơn hai ngàn năm của xã hội phong kiến. Để trở thành hệ tư tưởng
chính thống, Nho gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử
trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại
nhà Hán và nhà Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng Trọng
Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời Tống).
Quá trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến hành theo hai xu
hướng cơ bản:
Một là, hệ thống hóa kinh điển và chuẩn mực hóa các quan điểm triết học của

Nho gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích thống trị của
giai cấp phong kiến; vì thế Đổng Trọng Thư đã làm nghèo nàn đi nhiều giá trị nhân
bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần bí của Nho gia trong các
quan điểm về xã hội cũng được đề cao. Tính khắc nghiệt một chiều trong các quan hệ
Tam cương, Ngũ thường thường được nhấn mạnh.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên cơ sở bổ
sung bằng các quan điểm triết học của thuyết Âm Dương - Ngũ hành, những quan
niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về pháp trị của Pháp gia v.v. Vì vậy, có thể
nói: Nho gia thời trung đại là tập đại thành của tư tưởng Trung Hoa. Nho gia còn có
sự kết hợp với cả tư tưởng triết học ngoại lai là Phật giáo. Sự kết hợp các tư tưởng
triết học của Nho gia với những tư tưởng triết học ngoài Nho gia đã có ngay từ thời
Hán và ít nhiều có cội nguồn từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp đạt tới mức nhuần
nhuyễn và sâu sắc chỉ có dưới thời nhà Tống (960 - 1279)
Đạo gia (hay học thuyết về đạo)
Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI tr. CN). Học thuyết của
ông được Dương Chu và Trang Chu thời Chiến quốc hoàn thiện và phát triển theo hai
hướng ít nhiều khác nhau. Những tư tưởng triết học của Đạo gia được khảo cứu chủ
yếu qua Đạo đức kinh và Nam hoa kinh.
Tư tưởng cốt lõi của Đạo gia là học thuyết về "Đạo" với những tư tưởng biện
chứng, cùng với học thuyết "Vô vi" về lĩnh vực chính trị - xã hội.
Về bản thể luận, tư tưởng về Đạo là nội dung cốt lõi trong bản thể luận của Đạo
gia. Phạm trù Đạo bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- "Đạo" là bản nguyên của vạn vật. Tất cả từ Đạo mà sinh ra và trở về với cội
nguồn của Đạo.
- "Đạo" là cái vô hình, hiện hữu là cái "có"; song Đạo và hiện hữu không thể
tách rời nhau. Trái lại, Đạo là cái bản chất, hiện hữu là cái biểu hiện của Đạo. Bởi
vậy, có thể nói: Đạo là nguyên lý thống nhất của mọi tồn tại.
- "Đạo" là nguyên lý vận hành của mọi hiện hữu. Nguyên lý ấy là "đạo pháp tự

nhiên".
Chính trong quan niệm về "Đạo" đã thể hiện một trình độ tư duy khái quát cao
về những vấn đề bản nguyên thế giới, nhìn nhận thế giới trong tính chỉnh thể thống
nhất của nó.
Quan niệm về tính biện chứng của thế giới không tách rời những quan niệm về
"Đạo", trong đó bao hàm những tư tưởng chủ yếu sau:
Mọi hiện hữu đều biến dịch theo nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" (cân
bằng và quay trở lại cái ban đầu).
Các mặt đối lập trong thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện tồn tại của
nhau, trong cái này đã có cái kia.
Do nhấn mạnh nguyên tắc "bình quân" và "phản phục" trong biến dịch nên Đạo
gia không nhấn mạnh tư tưởng đấu tranh với tư cách là phương thức giải quyết mâu
thuẫn nhằm thực hiện sự phát triển; trái lại, đã đề cao tư tưởng điều hòa mâu thuẫn,
coi đó là trạng thái lý tưởng. Bởi vậy triết học Đạo gia không bao hàm tư tưởng về sự
phát triển.
Học thuyết chính trị - xã hội với cốt lõi là luận điểm "Vô vi". Vô vi không phải
là cái thụ động, bất động hay không hành động mà có nghĩa là hành động theo bản
tính tự nhiên của "Đạo".
Ngoài ra còn có một số trường phái triết học khác như: Mặc gia, Pháp gia
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tóm lại: Nền triết học Trung Hoa cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ
chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng
đầu của các nhà tư tưởng Trung hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn
chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích
và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng của
họ đã có tác dụng rất lớn trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ
quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị -
đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung Hoa

thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự biến
dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm dương - Ngũ hành tuy còn có những hạn chế
nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật và biện chứng
của người Trung Hoa thời cổ, có ảnh hưởng lớn đến thế giới quan triết học sau này ở
Trung Hoa và một số nước khác trong khu vực.
Câu 2 : Học thuyết hình thái KTXH và vấn đề lựa chọn con đường phát
triển ở VN hiện nay
1.Quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết hình thái KTXH
Trước khi có chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa duy tâm đã giữ vị trí thống trị trong việc
giải thích lịch sử. Không những các nhà triết học duy tâm mà ngay cả những nhà tư
tưởng tiên tiến trước Mác cũng đứng trên lập trường duy tâm để giải thích các hiện
tượng lịch sử xã hội.
Người ta xuất phát từ một sự thật là trong giới tự nhiên, thì lực lượng tự nhiên
hoạt động tự động, không có ý thức; còn trong xã hội, nhân tế hoạt động là con người
có lý tính, có ý thức và ý trí. Căn cứ vào sự thật ấy người ta đi đến kết luận sai lầm
rằng: Trong giới tự nhiên, thì tính quy luật, tính tất nhiên thống trị. Sự thay đổi của
ngày đêm, sự thay đổi của bốn mùa, sự biến hóa của khí hậu và những hiện tượng
không phụ thuộc vào ý chí và ý thức của người ta, còn những sự kiện lịch sử thì do
hoạt động tự giác và ý chí của người ta, trước hết là của những nhân vật lịch sử,
những lãnh tụ, anh hung quyết định ; ý chí của người ta có thể thay đổi tiến trình lịch
sử.Chính vì vậy, đáng lẽ phải lấy sự phát triển của các điều kiện vật chất của xã hội
để giải thích lịch sự, động lực lịch sử, bản chất của con người; giải thích tự nhiên xã
hội, quân điểm chính trị, chế độ chính trị... người ta lại đi từ ý thức con người, từ
những tư tưởng lý luận về chính trị, về triết học, pháp luật... để giải thích toàn bộ lịch
sử xã hội. Nguyên nhân giải thích của sự duy tâm về lịch sử chính là ở chỗ các nhà
triết học trước kia đã coi ý thức xã hội để ra và quyết dịnh tồn tại xã hội.
Quan điểm này có những thiếu sót căn bản như sau:
Không vạch ra được bản chất của các hiện tượng xã hội, nguyên nhân vật chất
của những hiện tường ấy.
Không tìm ra những quy luật phổ biến chi phối sự vận động và phát triển của xã

hội.
Không thấy vai trò quyết định của quân chúng nhân dân trong lịch sử.
8

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×