Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Trong khi chờ đợi gôđô sự biểu hiện sinh động nghệ thuật kịch phi lí của xamuyen bêcket

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.02 KB, 46 trang )

Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 2
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 2
2. Giới hạn đề tài ............................................................................................ 5
3. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 7
4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 11
NỘI DUNG CHÍNH..................................................................................... 12
Chương 1: “TRONG KHI CHỜ ĐỢI GÔĐÔ” - SỰ BIỂU HIỆN SINH ĐỘNG
NGHỆ THUẬT KỊCH PHI LÍ CỦA XAMUYEN BÊCKET” ............................... 12
1.1. Khái niệm kịch phi lí ......................................................................... 12
1.1.1. Các quan niệm về “kịch phi lí” ................................................... 13
1.1.2. Nguồn gốc và đặc điểm của kịch phi lí ....................................... 14
1.2. Sự biểu hiện sinh động nghệ thuật kịch phi lí qua tác phẩm “Trong khi
chờ đợi Gôđô” .......................................................................................... 17
1.2.1. Sự phá huỷ thời gian, không gian................................................ 17
1.2.2. Nhân vật ..................................................................................... 18
1.2.2.1. Sự xuất hiện đặc biệt ................................................................ 19
1.2.2.2. Hành động của nhân vật ........................................................... 20
1.2.2.3. Ngôn ngữ nhân vật ................................................................... 23
1.2.2.4. Ý nghĩa những cái tên .............................................................. 29
1.2.3. Sự phá huỷ cốt truyện ................................................................. 31
1.2.4. Chú thích trong tác phẩm ............................................................ 31
Chương 2 ..................................................................................................... 34
“TRONG KHI CHỜ ĐỘI GÔĐÔ”- SỰ ĐỘC ĐÁO CỦA NGHỆ THẬT KỊCH PHI
LÍ XAMUYEN BÊCKET VÀ Ý NGHĨA MỞ ĐƯỜNG CỦA TÁC PHẨM” ........... 34

2.1 Sự độc đáo trong dòng kịch phi lí ....................................................... 34
2.2. Ý nghĩa mở đường đối với nghệ thuật kịch phi lí của Xamuyen Bêcket


................................................................................................................. 39
KẾT LUẬN.................................................................................................... 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 46

1


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Thế kỷ XX nền văn học thế giới đã sản sinh ra một dòng văn học hết
sức độc đáo: Nó đi ngược lại dòng văn học truyền thống – dòng văn học phi
lí. Văn học phi lí trở thành chủ đề mà giới phê bình văn học và những người
yêu văn chương hết sức quan tâm.Văn học phi lí xuất hiện vào đầu những
năm năm mươi trước tiên ở Pháp, rồi lan rộng toàn châu Âu, vào thời điểm
mà Chiến tranh thế giới lần thứ 2 vừa kết thúc và để lại hậu quả hết sức khắc
nghiệt. Hàng chục triệu sinh linh bị huỷ diệt bằng vũ khí hiện đại, bằng những
chính sách man rợ của phát xít Hitle, cảm giác về sự phi lí của cuộc sống con
người mới phát triển đến đỉnh cao tột cùng của nó. Đây chính là mảnh đất tốt,
là điều kiện để văn học phi lí sinh sôi nảy nở.
Khi mới xuất hiện, không chỉ ở nước ta mà ở nhiều nước trên thế giới
văn học phi lí chưa được đón nhận và có cách nhìn đúng đắn. Nhưng cho đến
nay, trải qua khoảng thời gian thể nghiệm giá trị mà văn học phi lí đem lại đã
được đánh giá rất cao, được dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới. Hơn thế
nữa, văn học phi lí sở dĩ được đón nhận và hoan nghênh như ngày nay còn bởi
những đóng góp mà mà nó mang lại cho nền văn học nhân loại với hàng loạt

những tác phẩm nổi tiếng của những tác giả mà danh tiếng của họ còn ghi dấu
mãi đến ngày nay.
Văn học phi lí tồn tại, phát triển với nhiều thể loại : Truyện ngắn, tiểu
thuyết,… Nhưng nổi bật và thành công hơn cả là thể loại kịch - một loại kịch
mới – kịch phi lí, với những nhà viết kịch nổi tiếng như: Ơ.Iônexcô,
Xamuyen Bêcket, A.Ađamôp,… Trong đó, Xamuyen Bêcket là tác giả khá
nổi tiếng và đạt được nhiều thành công. Cùng với Ơ.Iônexcô, X.Bêcket là
người đi tiên phong đặt nền móng cho dòng kịch này.

2


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

Kịch phi lí xuất hiện khác hẳn với loại kịch truyền thống vốn có, nó phá
vỡ mọi nguyên tắc mà kịch truyền thống đã xây dựng trước đó. Kịch phi lí
xuất hiện, đem lại cho người đọc, người xem một luồng gió mới mà ai đã đón
nhận nó, thưởng thức nó đều cảm thấy ngỡ ngàng, ngạc nhiên và thú vị. Kịch
phi lí – trong đó nhân vật không còn là những con người mà họ chỉ là những
con rối tầm thường không có tính cách, họ đại diện cho sự ngu dốt, ngớ ngẩn,
tuyệt vọng mòn mỏi của con người. Kịch phi lí của Bêcket diễn tả cái phi lí,
cái bi đát, cái vô nghĩa của thân phận con người và cười nhạo con người.
X.Bêcket khởi đầu sự nghiệp văn chương của mình bằng tiểu luận, thơ,
tiểu thuyết và truyện ngắn viết bằng tiếng Anh chứ không phải kịch viết bằng
tiếng Pháp. Trước và sau Bêcket có rất nhiều nhà văn, nhà viết kịch có tên
tuổi ở Châu Âu, nhưng nhà văn người Pháp gốc Ailen này đã xuất hiện và nổi
tiếng giữa lúc kịch Pháp có sự đổi mới đáng kể. X.Bêcket, với tài năng và
nghị lực của một người đam mê nghệ thuật đã vượt qua những tên tuổi khá

nổi tiếng từng gắn bó với kịch truyền thống để sáng tạo ra một loại kịch mới kịch phi lí. Bêcket viết nhiều thể loại nhưng thành công hơn cả là trên lĩnh
vực kịch. X.Bêcket viết khá nhiều vở như Trong khi chờ đợi Gôđô, Tàn
cuộc, Động tác không lời, Ôi! Những ngày tươi đẹp, Hài kịch,… Và sau này
còn nhiều vở khác nữa, song vở kịch có tính chất mở đường cho sự nghiệp
viết kịch phi lí và mang lại thành công hơn cả đó là Trong khi chờ đợi Gôđô.
Viết trong khoảng thời gian từ 1947–1949, có thể nói Trong khi chờ đợi
Gôđô là vở kịch đầu tiên của dòng kịch phi lí, nó ra đời trước cả Nữ ca sĩ hói
đầu của Ơ.Iônexcô nhưng phải đến ba năm sau khi ra đời nó mới được trình
chiếu với sự giúp đỡ của đạo diễn nổi tiếng Rôgiê Blin. Để có được sự đón
nhận của công chúng mến mộ, vở kịch phải trải qua quá trình, con đường đến
với sân khấu rất gian nan. Vở kịch trải qua thời gian dài mới được trình chiếu.
Trong khi tập, có diễn viên bỏ không đóng vai Pôzô vì “không hiểu gì cả”, có

3


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

diễn viên đóng vai Extơragông lại không chịu tụt hẳn quần xuống tận mắt cá
chân…Tuy vậy, khi được đưa ra công chiếu thì vở kịch lại thu được những
thành công vang dội mặc dù vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau bàn luận về
vở kịch này. Thành công được chứng minh bằng thực tế : Trong khi chờ đợi
Gôđô được lưu diễn từ rạp hát này sang rạp hát khác, mới đầu chỉ là những
rạp nhỏ không có tên tuổi, sau là các rạp diễn lớn với số lượng khán giả đông
dần lên và được lưu diễn rộng khắp ở nước Pháp. Hơn thế nữa, vở kịch còn
được dịch ra hơn 20 thứ tiếng trên thế giới và được lưu hành trên 30 quốc gia.
Trong khi chờ đợi Gôđô không những đóng góp giá trị cho dòng văn học phi
lí mà còn mang lại vinh quang lớn lao cho Bêcket. Năm 1969, khi 63 tuổi,

ông được nhận Giải thưởng Nobel về Văn học.
Với giá trị to lớn mà kịch phi lí đem lại, nó đã được các dịch giả dịch
sang tiếng Việt và đã có các công trình nghiên cứu về kịch phi lí. Kịch phi lí
là một nội dung được đưa vào chương trình giảng dạy ở các trường Đại học
Sư phạm trong giáo trình Văn học phương Tây. Trong quá trình học và tìm
tòi, tôi đã lựa chọn Xamuyen Bêcket như một tác giả tiêu biểu đại diện cho
dòng kịch phi lí để tìm hiểu rõ hơn về những sáng tác kịch của ông mà tác
phẩm nổi trội hơn cả là vở kịch Trong khi chờ đợi Gôđô làm đối tượng
nghiên cứu của khoá luận với đề tài: Trong khi chờ đợi Gôđô - Sự biểu hiện
sinh động nghệ thuật kịch phi lí của Xamuyen Bêcket. Qua đề tài này,
chúng tôi mong muốn được hiểu sâu, hiểu rõ hơn về dòng kịch phi lí, nội
dung và nghệ thuật biểu hiện. Đồng thời cũng thấy được nét đặc sắc của
phong cách Xamuyen Bêcket qua vở kịch Trong khi chờ đợi Gôđô.
Mặt khác, là sinh viên khoa Ngữ văn của một trường Sư phạm, sau này
ra giảng dạy bộ môn ngữ văn ở trường phổ thông; để giảng dạy tốt về một tác
gia kịch và những tác phẩm văn học nước ngoài thì người giáo viên phải có
những kiến thức bổ trợ giúp cho bài giảng thêm phong phú, giúp học sinh

4


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

hiểu sâu rộng và có hứng thú với bài học, giúp giờ dạy đạt hiệu quả cao.
Muốn vậy, không chỉ cần hiểu biết những tác gia, tác phẩm có mặt trong
chương trình Sách giáo khoa mà nên tìm hiểu thêm về các tác gia khác nhất là
những tác gia nổi tiếng của nền văn học phương Tây. Cho nên, dù Trong khi
chờ đợi Gôđô của Xamuyen Bêcket không phải là tác phẩm được đưa vào

giảng dạy trong chương trình phổ thông nhưng với tư cách là một loại kiến
thức bổ trợ góp phần hiểu rõ hơn về thể loại kịch nói chung và kịch phi lí nói
riêng, về sự phong phú của Văn học phương Tây.
Từ những lý do trên, người viết đã chọn đề tài Trong khi chờ đợi Gôđô Sự biểu hiện sinh động nghệ thuật kịch phi lí của Xamuyen Bêcket để góp
phần hiểu thêm về vở kịch Trong khi chờ đợi Gôđô, đồng thời cũng là tích
luỹ thêm kiến thức để phục vụ cho thực tế giảng dạy sau này.

2. Giới hạn đề tài
Kịch phi lí ra đời ở Pháp vào năm 1950 và đỉnh cao của nó đạt được
trong khoảng mười năm sau đó. Song, dù tồn tại trong khoảng thời gian
không dài nhưng thành tựu và giá trị mà kịch phi lí đem lại là không nhỏ. Với
sự xuất hiện của hàng loạt các tác giả trong đó Ơ.Iônexcô với tư cách là
người mở đường xuất sắc, kế tiếp đó phải kể đến Xamuyen Bêcket,
A.Ađamôp với nhiều tác phẩm gây xôn xao làng kịch thế giới. Để bàn về trào
lưu này cần phải đề cập đến những vấn đề khác nhau cũng như để xem xét tác
giả Xamuyen Bêcket thì không chỉ dừng lại ở tác phẩm Trong khi chờ đợi
Gôđô bởi sự nghiệp sáng tác của Bêcket không chỉ có tác phẩm này mà ông
còn nhiều sáng tác khác không kém phần xuất sắc.
Để đi tìm hiểu một tác phẩm văn học có rất nhiều hướng đi khác nhau
mà mỗi người, theo cách cảm thụ của riêng mình sẽ tự chọn một hướng đi để

5


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

đến được cái đích chung nhất đó là nội dung, tư tưởng mà tác giả gửi gắm vào
trong tác phẩm – đứa con tinh thần của mình. Trong khi chờ đợi Gôđô của

X.Bêcket là tác phẩm đầu tay và rất nổi tiếng. Từ khi ra đời đến nay, đã có rất
nhiều ý kiến phê bình, tranh luận về Trong khi chờ đợi Gôđô. Ở đây, người
viết chỉ xin bàn đến một khía cạnh của tác phẩm: Sự biểu hiện sinh động nghệ
thuật kịch phi lí thông qua tác phẩm Trong khi chờ đợi Gôđô. Sự biểu hiện
sinh động ấy thể hiện qua cả nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Từ nghệ
thuật sẽ toát lên nội dung mà tác gỉa muốn phản ánh, vì thế đi xem xét khía
cạnh nghệ thuật là một bước quan trọng để tìm hiểu nội dung tác phẩm. Qua
sự khám phá này, ta hiểu thêm về tài năng, phong cách cũng như những đóng
góp quan trọng của X.Bêcket cho dòng kịch phi lí. Bởi dù X.Bêcket có viết
nhiều thể loại nhưng ông vẫn thành công nhất trên lĩnh vực kịch phi lí. Và vở
kịch Trong khi chờ đợi Gôđô có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự nghiệp của
Bêcket.
Do vậy, trong phạm vi một khoá luận tốt nghiệp, người viết không thể
trình bày hết được những biểu hiện sinh động của kịch phi lí trong tác phẩm
của X.Bêcket mà chỉ có thể tập trung vào tác phẩm Trong khi chờ đợi Gôđô.
Đây coi như tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật kịch phi lí của Bêcket, làm
nên phong cách riêng để phân biệt X.Bêcket với những tác gia khác của dòng
kịch phi lí. Các tác phẩm khác được đề cập đến trong phần “nội dung chính”
chỉ được sử dụng như những tài liệu tham khảo phụ giúp thêm cho việc tìm
hiểu vấn đề được sáng rõ hơn.

6


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

3. Lịch sử vấn đề
Trong khi chờ đợi Gôđô được X.Bêcket sáng tác mở đầu cho hàng loạt

những tác phẩm nổi tiếng sau này của ông: Tàn cuộc, Ôi! Những ngày tươi
đẹp, Ván bài cuối cùng, Động tác không lời (I và II )… Và Trong khi chờ
đợi Gôđô xứng đáng là vở kịch mở đường cho sự nghiệp sáng tác của
X.Bêcket, nó được giới nghiên cứu đánh giá khá cao.
Cũng như vở kịch Nữ ca sĩ hói đầu, Trong khi chờ đợi Gôđô được
nhiều nhà nghiên cứu, phê bình lấy làm đối tượng xem xét. Nhiều bài phê
bình, nghiên cứu được đưa ra hàng loạt không chỉ ở Pháp mà còn ở nhiều
quốc gia trên thế giới, bàn về trào lưu kịch phi lí nói chung và tác phẩm
Trong khi chờ đợi Gôđô nói riêng.
Bất cứ một sự vật hiện tượng nào ra đời cũng phải có cái bắt đầu cũng
như dòng nước phải có nguồn rồi mới đổ về trăm ngả. Tác phẩm Trong khi
chờ đợi Gôđô cũng vậy, là một tác phẩm mang tính chất tiên phong và tiêu
biểu nhất của dòng kịch phi lí, để có được giá trị to lớn, đạt đỉnh cao của kịch
phi lí thì vở kịch cũng là sự nối tiếp, kế thừa truyền thống, nguồn gốc của văn
học phi lí.
Xuất hiện trong những năm đầu của thế kỷ XX, văn học phi lí đem lại
một sinh khí mới cho nền văn học truyền thống mà trước đó nhân loại đã khá
quen thuộc. Giai đoạn đầu, tuy chưa được đông đảo công chúng đón nhận,
chưa được giới phê bình quan tâm, nhưng đến giữa thế kỷ này thì giá trị của
văn học phi lí nói chung và kịch phi lí nói riêng đã được khẳng định và đạt
đến đỉnh cao.
Từ khi xuất hiện đến nay, trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu về văn học và kịch phi lí. Vấn đề về cái phi lí đã được manh nha từ thế

7


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang


kỷ XIX bởi Dostôievski thể hiện trong Anh em nhà Karamazôp để nói về cái
phi lí trong thế giới “thế giới được dựa trên những điều phi lí và không biết
chuyện gì sẽ xảy ra nếu không có những điều phi lí ấy”. Các công trình
nghiên cứu về các tác giả thuộc dòng văn học phi lí: Kafka (Clôt Prêvô – đi
tìm Kafka, tạp chí Europe, tháng 11 – 12 , năm 1971), X.Bêcket (Pie Mêlêzơ
– X.Bêcket, Seghrs, 1966), (Jăng Jắc Mayu – X. Bêcket và thế giới nhại
lại…).
Ở Việt Nam, văn học phi lí cũng đã du nhập vào khá sớm. Nhưng phải
đến đầu những năm sáu mươi của thế kỷ XX thì văn học phi lí mới được
nghiên cứu nhưng cũng chỉ là với tư cách một bộ phận trong một đề tài của
công trình nghiên cứu chứ chưa phải là đối tượng của một công trình chuyên
luận riêng biệt. Nó được đề cập đến trong những công trình nghiên cứu về văn
học phương Tây hiện đại, văn học hiện sinh hay những bài báo viết về tác giả
văn học phi lí: Kafka với cuộc chiến chống phi lí của Nguyễn Văn Dân đăng
trên Tạp chí Văn học nước ngoài số 4.1996; Bài Thế giới nghệ thuật của
Franz Kafka của tác giả Trương Đăng Dung đăng trên Tạp chí Văn học
nước ngoài số 1.1998. Đến gần cuối thế kỷ XX các tác phẩm kịch phi lí mới
được dịch sang tiếng Việt và các độc giả mới có dịp tiếp xúc với chúng.
Tác phẩm của X.Bêcket sau đó đã được dịch ra 20 thứ tiếng trên thế
giới. Ở nước ta, tác phẩm của ông cũng đã đến được tay độc giả nhưng chưa
nhiều. Chính vì vậy, việc tìm hiểu về X.Bêcket cũng chưa có nhiều công trình
nghiên cứu. Cho nên việc hiểu về X.Bêcket cũng như những tác phẩm của
ông cũng gây khó khăn lớn cho người viết khi thực hiện đề tài này. Vì vậy,
người viết chỉ có thể tham khảo được một số tài liệu sau.
Cuốn sách mà chúng tôi được tiếp xúc nhiều và gần gũi nhất là cuốn giáo
trình Văn học phương Tây do GS. Đặng Anh Đào, Hoàng Nhân, Lương
Duy Trung…viết. Trong đó có phần viết về X.Bêcket, về cuộc đời và sự

8



Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

nghiệp văn chương của ông, về tác phẩm Trong khi chờ đợi Gôđô. Trong
cuốn giáo trình này, có riêng một chuyên mục giới thiệu về kịch phi lí của
Xamuyen Bêcket với các tác phẩm tiêu biểu cho phong cách kịch X.Bêcket;
Có chuyên mục đi vào phân tích những nét tiêu biểu của vở kịch Trong khi
chờ đợi Gôđô. Cũng trong phần này, tác giả nêu ngắn gọn, đầy đủ nghệ thuật
kịch X.Bêcket “là sự từ chối hiệu quả kịch thông thường” (7-191) không
gian, thời gian trong vở kịch lặp lại một cách đơn điệu, nhân vật nói năng,
hành động ngớ ngẩn, dường như họ không có một chút gì gọi là “tư duy”. Tác
giả khẳng định Trong khi chờ đợi Gôđô mới là bước đầu của sự huỷ diệt kịch
tính (theo ý nghĩa truyền thống) so với các vở kịch sau này. Trong khi chờ
đợi Gôđô được coi như là một sự bùng nổ vì nó là vở đầu tiên, để rồi khi đã
quen dần với công chúng, sân khấu sẽ tiếp nhận những hiện tượng táo bạo
hơn nữa của kịch Bêcket. Và với ý nghĩa này, đã một lần nữa khẳng định vai
trò tiên phong, mở đường của Trong khi chờ đợi Gôđô trong sự nghiệp sáng
tác của Bêcket.
Trong cuốn Văn học Pháp tập II (Thế kỷ XIX – XX) do GS. Hoàng
Nhân chủ biên, cuốn sách được chia làm hai phần: Văn học Pháp thế kỷ XIX
và Văn học Pháp thế kỷ XX. Trong đó, đáng chú ý là phần hai: Văn học Pháp
thế kỷ XX. Ở phần này, tác giả đã trình bày những vấn đề: khái quát về tình
hình các nước phương Tây nói chung và nước Pháp nói riêng lúc bấy giờ về
kinh tế, chính trị, văn hoá – xã hội.
Sự phát triển của các thể loại văn học, trong đó có kịch phi lí, về sự ra
đời, nguồn gốc, sự phát triển và đặc điểm của thể loại này. Trong cuốn sách
này, tác giả cũng có chuyên mục giới thiệu về X.Bêcket, về tác phẩm Trong

khi chờ đợi Gôđô nhưng chỉ nêu qua một vài đặc trưng của kịch Bêcket.
Trong cuốn Văn học phi lí của Nguyễn Văn Dân, NXB Văn hoá thông
tin – Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2002. Cuốn sách chia

9


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

làm hai phần, trong đó đáng chú ý là phần một: Khảo luận. Trong phần này,
Nguyễn Văn Dân nêu và phân tích đặc điểm của cái phi lí qua các thời đại,
những đóng góp của văn học phi lí và sự phát triển của nó qua các thời kỳ. Ở
mỗi phần, tác giả đều có những dẫn chứng cụ thể, chính xác để minh hoạ cho
từng luận điểm. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra những dẫn
chứng minh hoạ mà chưa đi vào phân tích cụ thể.
Trong cuốn Từ điển văn học, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983
có giới thiệu một cách khái quát nhất về X.Bêcket và các tác phẩm của ông.
Tác giả cũng chỉ dừng lại ở mức khái quát khi giới thiệu về tác phẩm Trong
khi chờ đợi Gôđô mà chưa thực sự đi sâu vào phân tích, tìm hiểu.
Trong cuốn Tác gia – Tác phẩm văn học nước ngoài do Lưu Đức
Trung chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nội 1999, tác giả Nguyễn Ngọc Thi đã
có phần viết về tác gia tác phẩm X.Bêcket. Tác giả đi sâu vào phân tích, tìm
hiểu một số đặc sắc nghệ thuật cũng như giá trị mà tác phẩm X.Bêcket
mang lại, những đóng góp về nội dung cũng như nghệ thuật cho dòng Văn
học phi lí. Nhưng ở đây, tác giả không đi sâu vào việc phân tích tác phẩm
Trong khi chờ đợi Gôđô của X.Bêcket.
Cũng tác giả Nguyễn Ngọc Thi với bài viết Trong khi chờ đợi Gôđô
của X.Bêcket in trong Thông báo khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội 2, số

1.2001. Bài viết nhấn mạnh Trong khi chờ đợi Gôđô là một trong những tác
phẩm mở đầu của trào lưu kịch phi lí ở phương Tây – vai trò của tác phẩm đối
với dòng kịch phi lí. Bài viết đã nêu nội dung, tư tưởng của tác giả gửi gắm
thông qua tác phẩm: những nhân vật trong tác phẩm đại diện cho thế giới con
người – là những kẻ tật nguyền, thảm hại, sống vạt vờ tạm bợ, những con
người yếu đuối cùng quẫn trong bế tắc. Bài viết đi sâu phân tích những đặc
trưng của kịch phi lí về không gian, thời gian, nhân vật với sự xuất hiện lạ
lùng và ngôn ngữ, hành động kỳ quặc, sự chú thích trong tác phẩm cũng hết

10


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

sức độc đáo. Tác giả một lần nữa khẳng định vai trò của X.Bêcket là một
trong những người đi tiên phong trong dòng kịch phi lí, những đóng góp mà
ông mang lại cho văn học phi lí, cho kịch phi lí và cho nền văn học nhân loại
qua tác phẩm Trong khi chờ đợi Gôđô.
Những công trình nghiên cứu trên đã tạo cho chúng tôi hứng thú và cơ sở
cũng như hướng đi đến tìm hiểu vấn đề: Sự biểu hiện sinh động kịch phi lí
qua vở kịch Trong khi chờ đợi Gôđô của nhà viết kịch nổi tiếng X.Bêcket.
Sự biểu hiện sinh động ấy được biểu hiên qua hai phần: nội dung và nghệ
thuật trong, trong đó phần nghệ thuật được chú trọng hơn cả, đi từ nghệ thuật
sẽ làm nổi bật nội dung tác phẩm.
Qua đề tài này, chúng tôi mong muốn góp phần nhỏ vào việc khẳng định
một lần nữa tài năng nghệ thuật kịch phi lí của X.Bêcket, những đóng góp
quan trọng của ông làm giàu thêm kho tàng văn học thế giới.


4. Phương pháp nghiên cứu
Trong khi thực hiện đề tài này, người viết sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
- Tiếp cận tác phẩm.
- Tra cứu
- Thống kê
- So sánh đối chiếu
- Tổng hợp

11


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1
“TRONG KHI CHỜ ĐỢI GÔĐÔ” - SỰ BIỂU HIỆN SINH ĐỘNG
NGHỆ THUẬT KỊCH PHI LÍ CỦA XAMUYEN BÊCKET”
1.1. Khái niệm kịch phi lí
Để tìm hiểu về kịch phi lí trước hết chúng ta cùng tìm hiểu thế nào là
văn học phi lí.
Văn học phi lí xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX và đến những
năm năm mươi thì văn học phi lí phát triển đến đỉnh cao. Đến những năm sáu
mươi của thế kỷ này nó có dấu hiệu của sự suy tàn. Tuy chỉ tồn tại trong
khoảng thời gian không lâu nhưng dòng văn học phi lí để lại nhiều tác gia với
những tác phẩm nổi tiếng và đã có những đóng góp không nhỏ cho nền văn
học nhân loại.
Khái niệm “phi lí” trong văn học được dùng để chỉ loại hình văn học phi

lí có nhiệm vụ nhận thức và mô tả cái hiện thực vô nghĩa, phi lôgic, phi lí
tính, trái với năng lực nhận thức của con người.
Như vậy, ta thấy rằng cái phi lí trong văn học không phải là cái không
có thật, không thực tế mà nó bắt nguồn từ thực trạng xã hội mà cụ thể là xã
hội phương Tây lúc bấy giờ.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng văn học phi lí có nguồn gốc từ những
sáng tác dân gian có sử dụng thủ pháp trào phúng, hài hước, nói ngược và
ngoa dụ. Văn học phi lí được biết đến với Anh em nhà Karamazôp của
Dostôievski, sau đó là các sáng tác của Franz Kafka.
Văn học phi lí có những đóng góp to lớn cho dòng văn học thế giới, đó
là điều không thể phủ nhận được với các tác phẩm nổi tiếng thuộc nhiều thể
loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, và nổi tiếng hơn cả là kịch phi lí mà người đi

12


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

tiên phong là nhà viết kịch Ơ.Iônexcô với vở Nữ ca sĩ hói đầu xuất hiện năm
1950, sau đó là hàng loạt các vở kịch nổi tiếng khác của các nhà soạn kịch nổi
tiếng đương thời mà tiêu biểu là X.Bêcket, A.Ađamôp.
Như trên đã nói, văn học phi lí ra đời, phát triển và tạo nên sự kiện lớn
làm chấn động lịch sử văn học thế giới, trong đó trào lưu kịch phi lí là đáng
chú ý hơn cả. Nó được coi là “cơn kịch phát” của văn học phi lí. Mới đầu,
kịch phi lí chỉ xuất hiện một cách âm thầm, lúc đầu chỉ được một vài đạo diễn
dàn dựng nhằm mục đích thử nghiệm tại một số rạp hát nhỏ nằm bên bờ sông
Xen cạnh thủ đô Pari. Thoạt đầu là vở Nữ ca sĩ hói đầu của Iônexcô được
dàn dựng năm 1950, tiếp đó là vở Xâm lược của Ađamôp, rồi sau đó là vở

Trong khi chờ đợi Gôđô của X.Bêcket. Ba vở kịch này đã gây xôn xao dư
luận, có những ý kiến đánh giá trái ngược nhau trong giới báo chí và phê bình
sân khấu bởi những vở kịch này hoàn toàn khác những tiết mục sân khấu
trước đây. “Kịch phi lí” dùng để chỉ loại “kịch phản kịch” của các nhà cách
tân sân khấu và dòng kịch này có sức thu hút rất khó lí giải.
Đã có rất nhiều quan niệm về kịch phi lí như quan niệm của F.Kafka,
quan niệm của Camuy “nghệ thuật vừa là sự khước từ vừa là sự chấp nhận,
khước từ vì cuộc đời là phi lí nhưng để chống lại nó phải bằng sự phi lí của
chính mình nghĩ là một sự “chấp nhận” từ bên trong (6-583). Từ những quan
niệm này dẫn đến việc các nghệ sĩ sáng tạo để hình thành riêng cho mình một
dòng kịch mới – dòng kịch phi lí. Đây phải là dòng kịch bứt phá ngoạn mục
nhưng lại là quá trình tìm tòi khó khăn của người nghệ sĩ, từ chỗ nhận thức
tiếp thu người ta đã khái quát lên đặc trưng của kịch phi lí.
1.1.1. Các quan niệm về “kịch phi lí”
Quan niệm “phi lí” được hình thành từ thời xa xưa, khi xuất hiện loại
hình Văn học dân gian thì đã có cái phi lí. “Cái phi lí” được các nhà triết học
cổ đại quan tâm, đề cập đến để nói về những tồn tại, những biểu hiện trái với

13


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

lôgic, với lí trí thông thường. Khái niệm triết học về cái phi lí còn phát triển
trong giai đoạn chủ nghĩa hiện sinh. Tuy nhiên, cái phi lí chưa được trình bày
một cách rõ ràng và cụ thể.
Các nhà nghiên cứu xem xét quan niệm kịch phi lí, xem nó như một
sinh thể văn học nghệ thuật. Kịch phi lí viết ra những điều dường như ít có

trong thực tế nhưng thực ra nó lại phản ánh thực tế đang diễn ra: sự phi lí
trong cuộc sống con người, tâm trạng mòn mỏi, tuyệt vọng, sự ngu ngơ, ngớ
ngẩn đến kỳ lạ.
Trước khi có thuật ngữ “kịch phi lí” xuất hiện do nhà phê bình người
Anh Martin Esslin sử dụng thì “kịch phi lí” còn có những cái tên khác như
“kịch phản kháng”, “kịch hề bi thảm”, “kịch hề hiện đại”, “kịch hề siêu hình”.
Những cái tên này nó về cái phi lí, cái không bình thường sẽ được thể hiện
trong tác phẩm.
Ở Việt Nam, Nguyễn Văn Dân đưa ra quan niệm về kịch phi lí
nghiêng về nghệ thuật biểu hiện.
Thực tế, các nhà viết kịch qua tác phẩm của mình cũng đưa ra quan
niệm của họ về kịch phi lí “phá vỡ những yếu tố của sân khấu thông thường”.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng chủ đề của kịch phi lí chủ yếu mô tả
sự tha hoá của con người trong thế giới phi lí đã bị vật thể hoá (Tê giác), đồ
vật hoá (Những chiếc ghế).
Từ những quan niệm trên, ta đã phần nào hiểu rõ hơn về kịch phi lí –
một loại hình nghệ thuật hết sức độc đáo mà đến nay nó vẫn còn nguyên giá
trị và chúng ta vần còn đang nghiên cứu.
1.1.2. Nguồn gốc và đặc điểm của kịch phi lí
Như chúng ta đã biết, văn học là tấm gương phản ánh đời sống xã hội.
chính vì nhu cầu phản ánh xã hội nên văn học xuất hiện và phát triển từ rất
sớm, xuất hiện sớm nhất là loại hình văn học dân gian. Văn học phi lí cũng

14


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang


vậy, nó manh nha rất sớm, từ thời cổ xưa và cũng phản ánh hết sức trung
thực xã hội thời đó. Các nhà viết kịch muốn tìm lại những gì đã mất từ thời
xưa quan sân khấu kịch. Kịch phi lí bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa siêu thực năm
1920 nhưng phải đến năm 1950 kịch phi lí mới bùng phát mạnh mẽ và phát
triển thành đỉnh cao, tạo thành trào lưu mà tác động của nó sâu rộng, kéo dài
đến tận hôm nay và có lẽ còn rất lâu sau này nữa.
Văn học phi lí nói chung và kịch phi lí nói riêng trong những năm 1950
đến 1960 của thế kỷ XX đã phản ánh hết sức trung thực đời sống xã hội Pháp
và châu Âu sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. Chiến tranh đi qua để lại hậu
quả vô cùng nặng nề, cả xã hội rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng trên
mọi phương diện: kinh tế, chính trị, văn hoá. Và văn học phi lí phản ánh đầy
đủ, chân thực không bỏ qua sự kiện, chi tiết nào. Việc này đồng nghĩa văn học
phi lí đã phủ định cái cũ, cái xấu. Đó chính là sự cách tân trong văn học.
Kịch phi lí xuất hiện trên sân khấu Pháp và sân khấu châu Âu, là một tất
yếu của quá trình vận động của văn học. Kịch phi lí phủ định kịch truyền
thống, phủ định những cái cũ bằng phong cách riêng của mình: cái phi lí. “Cái
phi lí” xuất hiện trong văn học phi lí nói chung và trong kịch phi lí nói riêng
đã là đề tài mà các nhà nghiên cứu, phê bình văn học quan tâm. Và theo quan
điểm chủ quan, mỗi người lại có cách đánh giá, kết luận riêng, nhưng tựu
chung lại vẫn là “kịch phi lí phá vỡ những yếu tố của sân khấu thông thường”.
Các nhà nghệ sĩ, các nhà viết kịch, muốn cho đứa con tinh thần của mình ra
đời, trưởng thành khoẻ mạnh và được công chúng dang tay đón nhận đã phải
trải qua thời kỳ “thai nghén” vô cùng khó khăn và gian nan. Họ phải một mặt
vượt qua các nghệ sĩ khác, mặt khác phải vượt qua chính mình, phải “phá
cách” để hơn hẳn cái cũ, cái truyền thống đã có trước đó. Nhân vật trong kịch
truyền thống có tâm hồn, có tính cách, có suy nghĩ, họ là những con người có
tư duy. Ngược lại, nhân vật trong kịch phi lí thì họ dường như không có nét

15



Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

tính cách nào đặc biệt, không có tư duy và suy nghĩ, có chăng cũng là tư duy
nghèo nàn, hết sức thô sơ, hành động thì rất ngờ nghệch, thô kệch. Ngôn ngữ
đối với họ không còn là công cụ để giao tiếp với nhau mà nó chỉ là những tín
hiệu âm thanh phát ra hết sức vô nghĩa. Các nhân vật không còn là những con
người nữa mà họ chỉ là những đồ vật, những con rối tầm thường.
Từ những ý kiến trên, chúng ta có thể khái quát hoá những đặc điểm
chung nhất cho dòng kịch phi lí. Điều đáng chú ý hơn cả, vì kịch phi lí là loại
“kịch phản kịch”, nó phá bỏ những gì thuộc về kịch truyền thống, chính vì thế
ta thấy chúng có những đặc điểm sau:
- Không có cốt truyện
- Phá bỏ thời gian, không gian
- Nhân vật không có tính cách, hành động
- Phá bỏ ngôn ngữ
- Thủ pháp chủ yếu là nghịch dị vì thủ pháp này bộc lộ được bản chất
của thực tại, bản chất phi logic và phi thực tế của thực tại.
Kịch phi lí ra đời, nhanh chóng tìm được chỗ đứng cho mình trong làng
kịch thế giới và dần khẳng định vị trì của mình với sự ủng hộ của khán giả
nhiều quốc gia trên thế giới. Từ Nữ ca sĩ hói đầu của Iônexcô đánh dấu bước
đi tiên phong và đặt nền móng cho kịch phi lí đến những tác phẩm thực sự nổi
tiếng sau này của X.Bêcket, A.Ađamôp đã đưa kịch phi lí lên đến đỉnh cao
của sự thành công vang dội. Kịch phi lí thực sự để lại dấu ấn rõ nét trong lòng
độc giả say mê văn học nói chung và say mê kịch nói riêng, và đã tạo cho
mình một chỗ đứng trong lịchsử văn học nhân loại.

16



Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

1.2. Sự biểu hiện sinh động nghệ thuật kịch phi lí qua tác phẩm “Trong
khi chờ đợi Gôđô”
1.2.1. Sự phá huỷ thời gian, không gian
Trong khi chờ đợi Gôđô là vở kịch phi lí gồm hai hồi. Ở đây,
X.Bêcket đã sử dụng nghệ thuật diễn tả không gian, thời gian khá đặc biệt mà
không hề giống các vở kịch phi lí khác; thời gian, đó là buổi chiều muộn và
không gian trên con đường ở nông thôn, trên con đường có một cái cây.
Extơragông xuất hiện trong tư thế ngồi trên một phiến đá, cố cởi chiếc giầy.
Rồi Vlađimia đi tới. Hai người cùng chờ một người tên là Gôđô. Trong khi
chờ đợi, cả hai cùng nói chuyện. Không bao lâu, cả hai chứng kiến cảnh Pôzô
đi tới và điều khiển Lucky bằng một sợi dây buộc vào cổ và người Lucky
mang đầy đồ đạc cùng chiếc vali nặng chịch. Trước khi màn đêm buông
xuống, trăng lên, có cậu thiếu niên xuất hiện và báo tin chiều nay Gôđô không
đến nhưng chắc chắn ngày mai sẽ đến. Sau khi nghe tin, Extơragông và
Vlađimia trò chuyện một lúc rồi rủ nhau đi nhưng cả hai không nhúc nhích
(kết thúc hồi 1). Hôm sau cũng vào giờ đó, cũng địa điểm đó, sự việc cũng
diễn ra tương tự như hôm trước chỉ khác một điều là Pôzô thì đã bị mù còn
Lucky thị bị điếc nặng, Extơragông ăn củ cải thay cho cà rốt đã hết.
Câu chuyện diễn ra ở một địa điểm không tên, thời gian lặp đi lặp lại,
ngày này qua ngày khác mọi việc vẫn diễn ra như thế, vẫn với những con
người ấy. Tất cả tạo sự nhàm chán, đơn điệu đến tẻ nhạt. Thời gian, không
gian ở đây được diễn tả như một sự phi lí nhưng thực ra nó lại rất có lí khi đối
chiếu vào thực tế cuộc sống con người khi ấy – thời gian, không gian như
ngưng đọng, chết lặng.

Trong vở Tàn cuộc, thời gian dường như cũng ngưng đọng, lặp đi lặp
lại đơn điệu. Bà Nell, từ trong thùng rác, cũng thò đầu ra gắng sức vươn cổ
sang thùng rác bên cạnh hôn ông chồng mình rồi tự hỏi “Sao cứ diễn mãi cái

17


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

trò này, ngày nọ qua ngày kia ?”, còn Hamm thì phải thốt lên “Sự kết thúc đã
nằm trong cái khởi đầu, ấy vậy mà người ta vẫn cứ tiếp tục”. Thời gian đối
với họ chỉ như một vòng tròn, điểm đầu và điểm kết thúc là trùng nhau, thời
gian trôi đi cũng chỉ là vô nghĩa vì ở bất cứ thời điểm nào thì con người ta vẫn
thế, cuộc sống không hề thay đổi, không có bất kỳ sự kiện gì đáng để họ phải
bận tâm, cuộc sống như một dòng sông nhỏ thầm lặng mà không hề có gợn
sóng nhỏ cũng như chẳng có con thuyền nào đi qua. Còn không gian thì sao ?
Không gian đóng kín cuộc đời Hamm trong chiếc ghế có bánh xe, đóng kín
cuộc đời Clao với Hamm, đóng kín cuộc đời cha mẹ Hamm trong hai thùng
rác – chỗ không phải dành cho con người.
Cuộc sống của Extơragông và Vlađimia cũng vậy, họ bị bó trong không
gian chật hẹp, chỉ quanh quẩn trên con đường nhỏ hẹp ở nông thôn và hàng
ngày lặp đi lặp lại công việc của ngày hôm trước. Đó là cuộc sống nhàm chán,
vô nghĩa. Thời gian diễn ra theo quy luật bình thường: sáng, chiều, tối nhưng
lại có sự phi lí. Phải chăng cuộc đời con người chỉ là những chuỗi chờ đợi
mòn mỏi vô ích, không có gì mới lạ hơn, “không có cái gì trôi qua, không ai
tới, không ai ra đi” và Extơragông phải thốt lên “thật khủng khiếp!”.
Cuộc sống con người luôn diễn ra theo chu kỳ như vậy thì cuộc sống
này sẽ không có sự vận động, không có sự sống, thế giới bị đóng kín trong

một không gian chật hẹp, thời gian ngưng trệ. Tất cả sẽ tạo thành một thế giới
chết và con người như đang tự đào hố chôn mình khi mãi sống trong cảnh đó.
1.2.2. Nhân vật
Nhân vật là yếu tố quan trọng không thể tách rời trong toàn bộ vở kịch.
Nếu như trong kịch truyền thống, nhân vật hiện ra đúng nghĩa là những con
người có tâm hồn, có tính cách, có nguồn gốc thì nhân vật trong kịch phi lí lại
mang những nét đặc trưng cho loại hình nghệ thuật này: từ sự xuất hiện, ngôn
ngư, hànhđộng đến tên gọi đều mang tính phi lí.

18


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

1.2.2.1. Sự xuất hiện đặc biệt
Sự xuất hiện của các nhân vật ở đây cũng hết sức đặc biệt. Trong vở
Kết thúc ván bài Hamm xuất hiện trên chiếc xe lăn, mù và độc ác nhưng bên
cạnh hắn còn có cha mẹ, nghĩa là còn biết được lai lịch và nguồn gốc của
hắn. Nhưng Trong khi chờ đợi Gôđô, nhân vật xuất hiện không lai lịch,
không nguồn gốc, không ai biết họ đến từ đâu và xuât thân như thế nào.
Mở đầu hồi 1 là cảnh Extơragông xuất hiện với tư thế đang ngồi cố cởi
chiếc giầy với cả hai tay và dùng hết sức nhưng không được, rồi gã lại nghỉ,
lại kéo, cứ như thế chẳng ai biết hắn từ đâu đến và ở đó để làm gì. Một lát
sau Vlađimia đi tới, cũng chẳng ai biết anh ta từ đâu tới và xuất thân ra sao.
Rồi hai người cùng tán gẫu để giết thời gian trong khi chờ đợi một người mà
họ chỉ biết tên chứ chưa hề biết mặt – Gôđô. Rồi Lucky và Pôzô xuất hiện
một cách bất ngờ và cũng trong tư thế hết sức lạ đời, Lucky như một con rối
bị điều khiển dưới sợi dây của Pôzô.

Các nhân vật đều có xuất thân giống nhau: là những kẻ lang thang, vô
gia cư, họ không có lai lịch cũng như nguồn gốc xuất thân rõ ràng, không
một lời giới thiệu về cuộc đời của họ. Họ dường như tồn tại bên ngoài cuộc
sống loài người và không có sự gắn bó nào với xã hội cả.
Hoàn cảnh xuất thân cũng là một yếu tố quan trọng tạo nên tính cách
con người, cụ thể trong vở kịch này là tính cách các nhân vật. Cả bốn nhân
vật này đều xuất hiện với lai lịch mịt mù, không rõ ràng chính vì thế ta cũng
thấy ở họ không có nét tính cách nào đặc trưng. Ai ai trong họ cũng như
những con người mộng du, chỉ sống theo hoàn cảnh trước mắt và những giấc
mơ tại chỗ mà không biết đến ngày mai ra sao, Extơragông và Vlađimia
mong gặp Gôđô để ông ta cho một bữa ăn và chỗ ngủ ấm.
Nhân vật như người mộng du, những việc họ đã làm trước đó lại không
hề nhớ, chỉ sau một ngày chờ đợi Extơragông không còn nhớ chuyện gì đã

19


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

xảy ra vào ngày hôm qua, mọi chuyện chỉ như giấc mơ vụt qua và nó như lỗ
hổng lớn trong trí óc mà thôi.
Qua ngòi bút Bêcket, nhân vật có xuất thân không rõ ràng, không
nguồn gốc và ở họ cũng không có tính cách gì cả nhưng điều đó không làm
giảm sức hấp dẫn của vở kịch. Trái lại, ta còn cảm thấy họ đáng thương chứ
không hề đáng khinh, đáng coi thường, các nhân vật khiến người xem phải
suy nghĩ, trăn trở. Như vậy là vở kịch đã thành công.
Sự xuất hiện của nhân vật còn đặc biệt ở chỗ: có nhân vật xuất hiện từ
đầu đến cuối vở như Extơragông, Vlađimia; có những nhân vật chỉ xuất hiện

ở thời điểm nào đó: Lucky và Pôzô; lại có nhân vật chỉ được nhắc tên nhiều
lần nhưng không hề xuất hiện: Gôđô; hay có nhân vật xuất hiện trong
khoảng thời gian rất ngắn nhưng không có tên: cậu thiếu niên đến báo tin.
Dù xuất hiện trong những khoảng thời gian khác nhau hay không xuất hiện
thì con người ở đây cũng chỉ là những con người nhỏ bé và đáng thương.
1.2.2.2. Hành động của nhân vật
Trong kịch truyền thống nhân vật kịch luôn có hành động và tính cách,
từ hành động toát lên tính cách nhân vật và hành động kịch là yếu tố then
chốt. Từ hành động kịch dẫn đến tình huống, cao trào, không có hành động
kịch thì không thể có tình huống và cao trào.
Nhưng trong kịch phi lí thì lại khác mà cụ thể ở đây là Trong khi chờ
đợi Gôđô của X.Bêcket, nhân vật không có hành động, có chăng cũng chỉ là
những cử động hết sức ngớ ngẩn, kệch cỡm.
Extơragông luôn tay tháo đôi giày ra mà không được; gặm thừa xương
gà một cách ngon lành; luôn miệng đòi bỏ đi nhưng lại không di chuyển;
tháo giây buộc quần định tự tử nhưng không tự tử mà để quần tụt xuống tận
chân…

20


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

Vlađimia thì nhặt giày đưa lên mũi ngửi; hát nghêu ngao những câu vô
nghĩa; mân mê chiếc mũ mãi mà không biết chán…
Có khi cả Extơragông và Vlađimia không biết làm gì, khi thì truyền tay
nhau đổi mũ, khi giả làm cây, lúc lại sắm vai Pôzô và Lucky, rồi bàn nhau tự
tử nhưng không tự tử, rủ nhau đi nhưng không di chuyển…

Rồi đến những nhân vật ít xuất hiện hơn: Lucky và Pôzô. Pôzô chỉ có
việc ăn và sai bảo Lucky, còn Lucky nghe lời y như một cái máy. Lucky chỉ
hành động khi nghe lời sai bảo của chủ.
“ Pôzô – Nhẩy múa đi, con lợn!
Lucky đặt vali và giỏ xuống, bước một chút về phía rìa sân khấu, quay
mặt về phía Pôzô…Lucky nhảy múa. Anh ta dừng lại.
Pôzô – Nhẩy nữa đi!
Lucky lặp lại đúng những động tác như trước rồi dừng lại. (8-39)
Nhân vật hành động một cách ngớ ngẩn, không ăn nhập, hành động
không vì mục đích nào cả. Họ hành động một cách vô thức không suy nghĩ,
hành động mà không biết mình hành động. Đúng như Iônexcô đã từng nhận
xét “Một chuỗi tiếp nối bất chợt, không tiền đề cũng không hậu quả’
Nhà phê bình Michel Corvin cũng nhận xét “Hành động kịch liên tiếp
bị phân tán, luôn chen vào những mẩu chuyện không ăn nhập, giống như
những khối u ác tính lọt vào cơ thể con người”. (8-11).
Trong khi chờ đợi Gôđô – thay cho hành động là sự chờ đợi không bao
giờ đạt tới của Vlađimia và Extơragông. Sự chờ đợi này chứa đựng một chất
“động” không cần có các tình tiết kịch cụ thể để tạo thành.
Xuất thân không rõ lai lịch nguồn gốc, hành động cũng không có theo
đúng nghĩa của nó, vì thế không có xung đột kịch và điều đó đồng nghĩa với
việc nhân vật của Bêcket không có tính cách. Ta thấy họ thật thảm hại và
đáng thương vô cùng, ở họ tất cả như mọi thứ đều rất phi lí. Song chính

21


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang


những cái tưởng chừng như phi lí ấy thực ra lại là những cái có lí mà tác giả
ngầm gửi gắm trong đó: thực trạng xã hội Pháp. Xã hội Pháp sau thế chiến
thứ II rơi vào khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt, nó như gạt bỏ những con
người vô danh nhỏ bé ra lề đường, họ không được lịch sử nhắc đến. Xã hội
biến họ thành những người thừa, những kẻ lập dị và mộng du giữa cuộc đời
thực. Họ là những con người kỳ cục và khác thường, đúng như Camuy đã
từng nói “con người bị bỏ rơi trước một vũ trụ bao la”. (6-582)
Nhưng dầu sao, so với nhiều tác phẩm khác của Bêcket Trong khi chờ
đợi Gôđô nhân vật vẫn hành động nhiều hơn mặc dù chỉ là những hành động
vô nghĩa.
Trong Tàn cuộc, Hamm và Clao còn đáng thương hơn vì là con người
mà lại không được hoạt động. Hamm bị liệt nên cả cuộc đời chỉ phụ thuộc
vào chiếc xe lăn và Clao; Clao thì phạm vi di chuyển cũng rất hạn chế “Tôi
xin vào bếp, ba mét trên ba mét trên ba mét, chờ ông ta thổi còi; còn bố và
mẹ Hamm: Nagg và Nell chỉ ở trong không gian bưng bít là thùng rác, chỉ có
hoạt động là bíu lấy mép thùng, đẩy nắp thùng chứ không ra khỏi thùng rác,
đầu thì thi thoảng nhô lên đòi ăn bột.
Hay trong Ôi! Những ngày tươi đẹp: Uyni – một người phụ nữ không
có hành động, chỉ nhô lên nhô xuống từ đụn cát, thi thoảng mở ví lôi son
ra... Đó chỉ là những cử động trong không gian bó hẹp. Một không gian đang
chết bởi đụn cát ngày càng lún xuống và nhấn chìm Uyni sâu hơn.
Nói những điều này để thấy rằng, dầu sao Extơragông và Vlađimia,
Pôzô và Lucky dẫu có những hành động ngẩn ngơ, kệch cỡm nhưng họ vẫn
hành động.

22


Khãa luËn tèt nghiÖp


Ng« ThÞ Thu Trang

1.2.2.3. Ngôn ngữ nhân vật
Trong khi chờ đợi Gôđô của Bêcket, có cả ngôn ngữ đối thoại và độc
thoại. Nhưng mang đúng phong cách, đặc trưng của kịch phi lí, ở đây ngôn
ngữ đã bị phá huỷ hoàn toàn.
Ngôn ngữ là công cụ, là phương tiện để con người giao tiếp, trao đổi
thông tin với nhau. Giao tiếp là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh
thần của con người. Chính vì thế, ngôn ngữ luôn phản ánh tư duy.
Trong kịch truyền thống, ngôn ngữ nhân vật luôn mang tính tư duy còn
trong kịch phi lí của X.Bêcket thì hoàn toàn ngược lại nếu như “phi lí” là
“không thể hiểu được” thì loại kịch này đúng là như vậy. Nó phá huỷ mọi
nền móng giao lưu giữa con người với nhau. Chính Bêcket cũng từng nói
“kịch của tôi là sự nối tiếp những âm thanh cơ bản được sử dụng để lấp đầy
thời gian, càng nhiều càng tốt”. Điều này được Bêcket sử dụng triệt để trong
Trong khi chờ đợi Gôđô .
Những lời đối thoại của nhân vật, nhất là của Vlađimia và Extơragông
thường ngắn ngủi, tản mạn, lạc lõng và không hề ăn nhập với câu chuyện mà
họ nói đến:
“Vlađimia (cúi xuống) – Ừ nhỉ (cài khuy). Chuyện vặt vãnh ấy thế mà
cũng không được tự do.
Extơragông – Nghe tao nhận xét về mày nhé, mày có thói quen bao giờ
cũn đợi đến phút cuối cùng.
Vlađimia (mơ màng) – Phút cuối cùng…(gã ngẫm nghĩ). Thế thì lâu
đấy, nhưng lại tốt. Ai nói câu ấy nhỉ?
Extơragông – Mày không muốn giúp tao à?
Vlađimia – Đã bao nhiêu lần tao tự nhủ rằng dù sao cái đó vẫn cứ đến
và tao thấy đúng là kỳ cục”.(8-15)

23



Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

Có những lúc, sau một hồi đối thoại, các nhân vật không biết phải nói
gì. Họ để thời gian ‘chết” và lời tác giả xen vào khi thể hiện thời gian chết ấy
bằng hai tiếng “im lặng’ .Ngôn ngữ lúc này trở nên nghèo nàn, tạo thành
khoảng im lặng, chết chóc:
“Vlađimia – Tao đi đây
Extơragông – Tao không làm sao hết
Vlađimia – Tao cũng thế
Im lặng. (8-79)
Extơragông – Tao ngủ có lâu không?
Vlađimia – Tao không biết
Im lặng”. (8-79)
Chỉ một đoạn đối thoại ngắn, năm câu mà tác giả sử dụng đến hai lượt
chú thích “Im lặng”.
Hay có những lúc, nhân vật không muốn im lặng bởi họ sợ một thứ sẽ
đến trong lúc họ im lặng đó là sự suy nghĩ:
“Vlađimia – Mày nói đúng, tao với mày nói hết ngày này sang ngày
khác, không bao giờ hết chuyện.
Extơragông - Cốt để không phải nghĩ ngợi”. (8-54)
Chính vì sợ phải nghĩ ngợi nên nhân vật lại nói liên tục, hầu hết lời nói
đều rất buồn cười và ngô nghê. Nó không có nghĩa bởi nó phát ra mà không
có sự suy nghĩ, sự động não và tư duy của nhân vật. Nhân vật ý thức được
mình đang nói nhưng không ý thức được mình đang nói gì và nói để làm gì.
Vlađimia đã nghêu ngao hát với lời bài hát vô nghĩa, buồn cười:
“Một con chó chui vào nhà bếp

Ngoạm một khúc dồi
Đầu bếp vớ cái muôi
Đập nó tan thành vụn

24


Khãa luËn tèt nghiÖp

Ng« ThÞ Thu Trang

Những chó khác thấy vậy
Vội đem nó chôn đi…” (8-50)
Lời hát vô nghĩa, ngớ ngẩn đến vậy được Vlađimia “ngẫm nghĩ” và lặp
đi lặp lại đến bốn lần. Ở đây, cái hài kịch được đẩy lên đến mức cao độ hơn,
người xem tạm quên đi cái bi kịch “tư duy” trong ngôn ngữ của nhân vật và
cảm thấy buồn cười như đang xem một vở hài kịch với sự diễn xuất của
những chú hề. Bêcket mượn ngôn ngữ như một phương tiện để biểu thị cái
hài, cái phi lí nhưng thực chất là thể hiện cái bi, cái có lí trong tâm hồn con
người.
Có một nhà triết học đã từng nói “Tôi tư duy tức là tôi tồn tại”. Như
vậy, chúng ta đã biết ngôn ngữ là công cụ để thể hiện tư duy. Ngôn ngữ
trong Trong khi chờ đợi Gôđô dường như đã mất hết tính tư duy. Qua ngôn
ngữ mà nhân vật phát ra và trao đổi với nhau, ta thấy ở họ một tư duy nghèo
nàn và thô sơ, họ không tư duy được, điều đó đồng nghĩa với tâm hồn họ
không còn tồn tại nữa, nó đã chết.
Nhân vật của Bêcket có lúc băn khoăn không biết nói gì tạo thành
khoảng thời gian chết: trống rỗng và im lặng một cách đáng sợ; có lúc nhân
vật lại nói quá nhiều mà chẳng hề tư duy, suy nghĩ, các câu nói không ăn
nhập vào câu chuyện họ đang đề cập; còn có những nhân vật, chỉ nói và sẽ

ngừng nói khi có sự ra lệnh của người khác, đó là Lucky. Lucky là người
“được quyền” nói ít nhất và lời nói của anh ta không phải để giao tiếp với
đồng loại mà đó chỉ là một chuỗi độc thoại nội tâm được phát ra thành tiếng,
đó chỉ là một tràng âm thanh dài dằng dặc với giọng đều đều:
“Nếu cho rằng tồn tại đúng như được trình bày trong những công trình
công bố mới đây của Poincon và Wattman do một Chúa trời hình dạng con
người quaquaquaqua chòm râu bạc trắng quaqua ngoài thời gian từ trên đỉnh

25


×