Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Cảm hứng đăng cao trong một số bài thơ tiêu biểu của ba nhà thơ lý bạch đỗ phủ bạch cư dị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.84 KB, 44 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
Mục lục
Trang
A: Phần mở đầu ....................................................................................... 2
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 2
2. Lịch sử vấn đề......................................................................................... 5
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu. ........................................................................ 9
B: PHầN NộI DUNG ................................................................................. 10
Chương 1: Cơ sở tâm lý của việc hình thành cảm hứng
"Đăng cao" trong thơ Lý Bạch - Đỗ Phủ - Bạch Cư Dị.......... 10
1. 1. Cơ sở tâm lý chung của việc hình thành cảm hứng "Đăng cao"trong
thơ trung đại ............................................................................................. 10
1. 1. 1. Một số đặc điểm chung về cảm thụ không gian
trong thơ trung đại ................................................................................ 10
1. 1. 2. Cơ sở tâm lý của việc hình thành cảm hứng "Đăng cao"
trong văn học trung đại. ........................................................................ 11
1. 2. Cơ sở tâm lí của việc hình thành cảm hứng Đăng cao
trong thơ Lý Bạch - Đỗ Phủ - Bạch Cư Dị. ................................................ 16
1. 2. 1. Cơ sở tâm lí của việc hình thành cảm hứng Đăng cao
trong thơ Lý Bạch. ................................................................................ 16
1. 2. 2 Cơ sở tâm lí của việc hình thành cảm hứng Đăng cao
trong thơ Đỗ Phủ. ................................................................................. 20
1. 2. 3. Cơ sở tâm lí của việc hình thành cảm hứng Đăng cao
trong thơ Bạch Cư Dị ............................................................................ 22
1. 2. 4. Tiểu kết ..................................................................................... 22
Chương 2: Cảm hứng "Đăng cao" trong một số bài thơ
tiêu biểu của ba nhà thơ Lý Bạch- Đỗ Phủ-Bạch Cư Dị....... 24
2.1. Thống kê, phân loại những bài thơ được viết bởi
cảm hứng "Đăng cao". .............................................................................. 24


2. 1. 1. Tiêu chí phân loại...................................................................... 24
2. 1. 2 Phân loại .................................................................................... 26
2. 2. Điểm nhìn nghệ thuật từ không gian trên cao. ................................... 27
2. 2. 1. Đăng cao viễn vọng- bức tranh ngoại giới nhìn từ
không gian trên cao. ............................................................................. 27
2. 2. 2. "Đăng cao" từ hướng ngoại đến hướng nội (Không gian "Đăng
cao" với thế giới tâm trạng người nghệ sĩ) ............................................. 37
C: KếT LUậN ............................................................................................. 42
Tài liệu tham khảo ............................................................................ 44

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
1


Khóa luận tốt nghiệp

A: Phần mở đầu

1. Lí do chọn đề tài
1. 1. Lí do khoa học
Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh, văn hóa nhân loại.
Lịch sử Trung Quốc là lịch sử của những triều đại phong kiến tồn tại liên tiếp
hàng ngàn năm. Trên lãnh địa rộng lớn trải dài từ Tây Vực với dãy Hymalaya
hùng vĩ ra biển đông đầy sóng và gió, tâm hồn người Trung Hoa tự cổ xưa đã
được bồi đắp bởi cái hiện thực của lịch sử xã hội với những thăng trầm biến
đổi và cái lãng mạn của tự nhiên tươi đẹp. Có lẽ đó là một phần lí do vì sao
Trung Quốc cũng là cái nôi của thi và họa. Người Trung Quốc vẫn luôn tự hào
về đất nước của họ làthi ca chi bang. Quả vậy, từKinh thiđến văn học hiện

đại, thơ ca Trung Quốc có lịch sử 2500 năm, ở mỗi thời kì đều có những thành
tựu nhất định, trong đó Thơ Đường được xem là một đỉnh cao chói lọi của văn
học Trung Quốc nói riêng cũng như của văn học nhân loại nói chung.
Trung Quốc đời Đường (618-907) là một quốc gia tiên tiến và văn minh
trên thế giới đương thời. Với gần 300 năm phong kiến nhà Đường, đất nước
Trung Hoa đã sáng tạo nên một nền thơ ca vĩ đại hiếm có với số lượng đồ sộ:
gần 48 000 bài thơ của hơn 2300 nhà thơ. Nhưng cái làm nên giá trị và sức
sống của Đường thi chính là nội dung ý nghĩa và vẻ đẹp tự thân của nó. Thơ
Đường phản ánh một cách toàn diện xã hội đời Đường, thể hiện quan niệm,
nhận thức, tâm tưcủa con người đời Đường một cách sâu sắc. Nội dung
phong phú ấy được thể hiện bằng hình thức hoàn mĩ, thành tựu trên các
phương diện của thơ Đường đều đạt đến đỉnh cao.
Hơn 10 thế kỉ đã trôi qua, thơ Đường vẫn tồn tại đường bệ và uy nghi như
một tòa lâu đài mĩ lệ và đầy bí ẩn, luôn thách thức sự tìm kiếm và khám phá
của người đọc. Có lẽ, đến muôn đời Đường thi vẫn luôn là mới mẻ đối với độc

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
2


Khóa luận tốt nghiệp
giả. Bước vào thế giới Đường thi, chúng ta bước vào một vườn hoa sắc sỡ, đầy
màu sắc với tên tuổi nổi bật của ba tác giả tiêu biểu: Lý Bạch - Đỗ Phủ - Bạch
Cư Dị. Một thi tiênLý Bạch cuồng phóng, bay bổng và lãng man; một thi
thánh Đỗ Phủ hiện thực đến xót xa, u uất mà ôm nặng mối ân tình với cuộc
đời; và một Bạch Cư Dị sắc sảo, tinh tế trong phát hiện nhưng cũng rất đa cảm
và tài hoa trong cách thể hiện. Bên cạnh đó, ở mỗi thời kì châu tuần quanh
mỗi nhà thơ lớn là những nhà thơ khác, mỗi người một giọng điệu, một dáng

vẻ riêng, độc đáo như Vương Duy với phái điền viên sơn thủy, Vương
Xương Linh với trường thơ biên tái hay, Thôi Hộ, Thôi Hiệu được Nàng thơ
ưu ái dâng tặng cho một bài thơ bất tử. Tất cả những gương mặt đó làm nên
diện mạo phong phú của thơ Đường
1. 2. Lí do sư phạm
Một trong những đặc điểm của sự phát triển văn học là tính giao thoa và
sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Không có nền văn học nào tồn tại cô độc và
khép kín. Là sự kết tinh mẫu mực thơ ca cổ điển Trung Quốc hơn mười thế kỉ,
Thơ Đường có ảnh hưởng sâu rộng tới thơ ca Trung Quốc cũng như thơ ca
Việt Nam sau này. Thơ Đường và thơ Việt Nam đã có mối bang giao từ rất lâu
đời, và cho đến hôm nay hồn thơ Đường vẫn bàng bạc trong mỗi hồn thơ Việt
Nam. Trong Thơ Đường ở nhà trường phổ thông, Trần Thanh Đạm có viết:
Có thể nói không một nhà thơ lớn Việt Nam nào lại không mang một món nợ
tâm hồn ít nhiều sâu nặng với thơ Đường.
Như đã nói, Thơ Đường phản ánh quan niệm, tư tưởng, tình cảm và nhận
thức của con người đời Đường. Đề tài của Thơ Đường rất đa dạng và phong
phú, sự phong phú ấy bắt nguồn từ chính bản thân đời sống. Các nhà thơ
Đường thường tìm cách khai thác những đề tài và nguồn cảm xúc khá quen
thuộc, trong đó đăng cao được xem là một nguồn cảm hứng lớn. Đó không
phải là một điều ngẫu nhiên, cũng không phải là điều hoàn toàn không thể lí
giải, cảm hứng đăng caoxuất phát sâu xa từ quan niệm nhân sinh, quan niệm
vũ trụ, những phong tục, tập quán của người dân Trung Hoa, và đặc biệt nó

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
3


Khóa luận tốt nghiệp

xuất phát từ nhu cầu về mặt nhận thức và giãi bày tư tưởng, tình cảm của con
người thời Đường. Hơn nữa, trong sự giao thoa, tiếp xúc của văn hóa ViệtTrung, thơ Việt Nam đã sản sinh ra một nguồn thơ Đăng cao cũng rất phong
phú và sâu sắc, rất Đường. Trong thơ Thiền, Không Lộ thiền sư từng mơ
ước:
Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng
Một tiếng kêu vang lạnh cả trời
(Ngôn hoài)
Và sau này, Hồ Chí Minh trong Thượng sơn lại mở ra một vẻ đẹp
khác của thơ Đăng cao:
Hai mươi tư tháng sáu
Lên ngọn núi này chơi
Ngẩng đầu mặt trời mọc
Bên suối một nhành mai
Vì tất cả những lí do trên, thiết nghĩ việc tìm hiểu về cảm hứng đăng
cao mang một ý nghĩa to lớn và cũng có tính chất thời sự. Trong khóa luận
này, do giới hạn bởi trình độ và phạm vi nghiên cứu, chúng tôi chỉ tìm hiểu về
cảm hứng đăng cao trong một số bài thơ của ba nhà thơ lớn Lý Bạch - Đỗ
Phủ - Bạch Cư Dị.
Thơ Đường là tinh hoa văn hóa nhân loại. Với việc đi tìm hiểu, phân
tích một số bài thơ của Lý Bạch - Đỗ Phủ - Bạch Cư Dị hy vọng có thể nhìn
thấy vẻ đẹp của cả đại dương qua sự lấp lánh của một giọt nước. Với phương
châm tìm hiểu tinh hoa văn hóa, văn học nước ngoài để phục vụ cho cách đánh
giá văn học dân tộc chúng tôi mong muốn đáp ứng một phần nhu cầu thưởng
thức thẩm mĩ của người đọc, góp phần tìm ra những kiến giải mới mẻ cho
việc giảng dạy thơ Đường ở nhà trường phổ thông. Và, đặc biệt giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về nền văn học dân tộc trong mối tương quan với một nền văn học
lớn quen thuộc:Văn học Trung Quốc.

Hà Hoàng Hà


K29H - Ngữ văn
4


Khóa luận tốt nghiệp
2. Lịch sử vấn đề
Thơ Đường phát triển lên đến đỉnh cao ở mọi phương diện, với mỗi
phương diện đòi hỏi một hướng tiếp cận tương ứng phù hợp . Nghiên cứu thơ
Đường ở Việt Nam cũng như trên toàn thế giới đã có lịch sử từ lâu đời và đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn. Mỗi hướng nghiên cứu đi vào một khía cạnh
tiêu biểu của thơ Đường và phát hiện được những vẻ đẹp khác nhau của nền
thơ này.
Như đã nói, do bị giới hạn bởi trình độ và phạm vi nghiên cứu, trong khóa
luận này chúng tôi đi tìm hiểu Đường thi từ một góc độ rất nhỏ, ấy là Cảm
hứng Đăng cao trong một số bài thơ tiêu biểu của ba nhà thơ Lý Bạch - Đỗ
Phủ - Bạch Cư Dị. Vấn đề này nhìn chung từ xưa đến nay chưa có một công
trình nghiên cứu riêng, cụ thể và trọn vẹn nào.
Trong Thi pháp thơ Đường, Nguyễn Thị Bích Hải ở chương Không gian
nghệ thuật đã ít nhiều dừng lại để phân tích giá trị thẩm mĩ và tư tưởng của
một số bài thơ Đăng cao và đã phát hiện ra những điểm sáng thẩm mĩ chứa
đựng trong đó.
Tác giả đã xuất phát từ quan niệm con người vũ trụ vốn chiếm vị trí trung tâm
trong quan niệm nghệ thuật về con người của thơ Đường để nhìn nhận. Con
người vũ trụ đó lại bị giới hạn trong một không gian hữu hạn nên không
ngừng khao khát vươn lên. Và Đăng cao trở thành một động tác mang tính
quan niệm để con người vũ trụ thỏa mãn khát vọng chiếm lĩnh của mình.
Dục cùng thiên lí mục
Cánh thướng nhất tằng lâu
(Đăng Quán Tước lâu - Vương Chi Hóan)
Bước lên lầu Quán Tước, con người có thể bằng cái nhìn của mình thu

vào tầm mắt muôn trùng nước non, biển rộng trời cao. Cứ thế, nếu tiếp tục, nó
sẽ mở rộng tầm mắt ra vô tận. Với bài thơ này, Vương Chi Hoán đã trải ra
chiều rộng (sơn hải), thể hiện được cái khí thế vươn lên của con người thời
Thịnh Đường, một thời đại mà con người ước mơ và có thể thực hiện ước mơ

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
5


Khóa luận tốt nghiệp
lên cao - lên cao để mở rộng chân trời tri thức, chân trời cảm xúc. Lên cao để
hòa hợp với đất trời. "
Theo Nguyễn Thị Bích Hải, quan niệm về con người vũ trụ có ý nghĩa
tiên quyết trong việc lí giải cảm hứng"Đăng cao"của con người thời Đường.
Hình tượng con người vũ trụ thể hiện khát vọng được sống trong một thế giới
thái bình, thịnh trị, được mở rộng tầm mắt ra đến vô cùng, mở rộng nhận thức
ra vô tận, được tồn tại trong mối quan hệ thống nhất, tương giao với cuộc đời,
con người, thiên nhiên, vũ trụ. Vì thế họ không ngừng"Đăng cao", và đó là
những khoảnh khắc trở nên bất tử, vĩnh hẳng cùng với những kiệt tác :"Đăng
U Châu đài ca"(Trần Tử Ngang)'"Đăng Quán Tước lâu"(Vương Chi Hoán),
"Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng đài"(Lý Bạch), "Đăng lâu", "Đăng cao"(Đỗ
Phủ). . . . Đặc biệt, khi phân tích"Đăng U Châu đài ca", tác giả đã có những
phát hiện mới mẻ, đã dựng lên thế giới tinh thần không tĩnh lặng của thi nhân
trong khoảnh khắc ấy.
Như vậy, Nguyễn Thị Bích Hải đã đi vào lý giải thơ "Đăng cao" từ góc
độ con người vũ trụ, thiết nghĩ điều đó đúng nhưng chưa đủ. ở một số bài thơ
tác giả đã có cái nhìn sâu sắc và mới mẻ, cách lý giải phù hợp với những quy
luật nội tại của tâm lí người trung đại, tuy nhiên trên tổng thể chuyên luận

chưa đi vào thống kê, phân loại và lý giải hiện tượng này một cách đầy đủ và
toàn diện.
Nhìn nhận, lý giải từ góc độ văn hóa, Trần Lê Bảo trong bài viết "Đăng
cao - một truyền thống văn học của người phương Đông"đã tìm về gốc rễ của
"Đăng cao" - một động tác mang tính quan niệm của người Trung Hoa. Theo
tác giả, "Đăng cao" không chỉ xuất phát từ quan niệm con người vũ trụ mà
còn có nguồn cội sâu xa từ những nghi thức tế lễ núi sông của tôn giáo cổ đại,
từ triết học, từ mĩ tục "trùng cửu đăng cao"của người Trung Hoa, và từ nền văn
minh nông nghiệp lúa nước. Ông cho rằng cảm hứng chủ đạo, xuyên suốt
nguồn thơ này là tình điệu bi thương. Tác giả cũng đi sâu vào nỗi buồn thương
của thi nhân đời Đường, lý giải từ quan niệm nhân sinh, vũ trụ:Nỗi buồn

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
6


Khóa luận tốt nghiệp
thương nhập thế xuất phát từ nhân cách Nho gia, buồn thương xuất thế xuất
phát từ nhân cách Đạo gia và tâm thế hoài cổ của thơ "Đăng cao". Ngoài ra,
một điều mới mẻ tác giả đã đề cập đến sự chuyển biến về chất của nguồn thơ
"Đăng cao" cách mạng trong thơ Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh so với tình
điệu bi thương và nội dung hoài cổ trong thơ "Đăng cao"đời Đường. Nói
chung đây là một bài viết dồn nén được nhiều lượng thông tin phong phú và
xác đáng, tuy nhiên tác giả chưa làm sáng tỏ yếu tố nghệ thuật thể hiện"đăng
cao" và hàm chứa trong thơ "đăng cao".
Trong phần"Thời gian, không gian nghệ thuật trong thơ Đường"("Về thi
pháp thơ Đường" - Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử), GS Trần Đình Sử cũng
xuất phát từ quan niệm không gian vũ trụ, con người vũ trụ của người Trung

Quốc để nhìn nhận "Đăng cao". "Đọc văn thơ Trung Quốc, nhất là thơ Đường,
ta có thể thấy con người muốn hòa vào không gian. Các động tác "phủ"(cúi),
"ngưỡng"(ngẩng), "tứ cố", "cố vọng"(nhìn quanh), "đăng cao"(lên cao). . . làm
cho con người giữ được mối liên hệ hữu cơ bền chặt. Mọi cảm thức về nhân
sinh đều gắn với không gian"("Về thi pháp thơ Đường"-trang 21). Đăng cao là
một động tác mang tính quan niệm - một môtíp nghệ thuật quen thuộc trong
thơ Đường, nó thể hiện khát vọng giao hòa giữa con người và thiên nhiên. Lên
cao, con người đứng trên đỉnh cao đất trời để có thể nhìn về tứ phía, nhìn đến
tận khả năng của mình mà không bị một trở ngại nào, có thể "thu vào tầm mắt
muôn trùng nước non". Qua khát vọng chiếm lĩnh không gian, thi nhân đời
Đường đã hòa mình vào với vũ trụ, với thiên nhiên. Phân tích bài"Vọng
nhạc"("Trông núi Thái" - Đỗ Phủ) tác giả cho thấy người xưa mới chỉ trông
lên núi Thái Sơn cao ngất mà đã hàm ý muốn leo lên chót đỉnh để có thể ngạo
nghễ như núi Thái, nhìn đám núi dưới thành nhỏ bé. Như vậy lên cao để vượt
lên mọi thứ tầm thường.
Không gian là môi trường để con người tồn tại. "Không gian nghệ thuật
trong thơ Đường không chỉ gắn liền với ý thức về không gian tồn tại của con
người mà còn gắn với cách chiêm nghiệm, cách thưởng thức và cách ứng xử

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
7


Khóa luận tốt nghiệp
của con người trong mô hình không gian"("Về thi pháp thơ Đường" - trang
20). "Đăng cao" với tư cách là một tín hiệu nghệ thuật tiêu biểu đã kết tinh
trong đó cách chiêm nghiệm, cách ứng xử của con người. Khát vọng "đăng
cao"để mở rộng tầm nhìn, mở rộng nhận thức, đem lại vẻ đẹp hùng tráng của

không gian vũ trụ trong thơ Đường. Như vậy GS Trần Đình Sử, trong bài viết
của mình cũng chỉ lướt qua "đăng cao" để minh họa cho quan niệm không
gian vũ trụ của con người thời Đường và coi "đăng cao"là tín hiệu nghệ thuật
thể hiện sự tương giao giữa đất trời và con người.
Nhìn chung lại có thể nói rằng chưa có một công trình nghiên cứu nào
có tính chất toàn diện, hệ thống và dài hơi về cảm hứng "đăng cao "trong thơ
Đường. "Đăng cao" là một mĩ tục, một truyền thống của thi nhân đời Đường
nói riêng và thi nhân Trung Hoa nói chung. Nó được biểu hiện một cách
không ngẫu nhiên mà có tính hệ thống, bền vững ở mỗi nhà thơ và trong cả
nền thơ. Điều đó chứng tỏ động tác "đăng cao", thơ "đăng cao" và cảm hứng
"đăng cao" trong thơ có nguồn gốc sâu xa từ trong tâm thức và trong quan
niệm về nhân sinh, vũ trụ của người Trung Hoa. Vậy bắt nguồn từ những hạt
nhân cơ bản trong đời sống tinh thần của con người, khi đi vào thế giới nghệ
thuật của các nhà thơ và được thể hiện trong từng tác phẩm cụ thể"đăng cao"
thể hiện nội dung ý nghĩa gì?Hình thức nghệ thuật nào thể hiện nội dung ý
nghĩa đó?. Trong khóa luận này chúng tôi xin được làm sáng tỏ đôi chút về
những vấn đề trên qua một số bài thơ "đăng cao" tiêu biểu của ba đỉnh cao thơ
Lý Bạch - Đỗ Phủ - Bạch Cư Dị.
Để viết khóa luận này, chúng tôi dựa trên cơ sở là những gợi ý trong các
bài viết của người đi trước. Đó là bài viết của GS Trần Đình Sử("Về thi pháp
thơ Đường"), phần viết về không gian nghệ thuật ("Thi pháp thơ Đường") PGS Nguyễn Thị Bích Hải, và một số sách khác nghiên cứu về thi pháp thơ và
thơ Đường.
3. Mục đích nghiên cứu
Tri thức là vô hạn, khoa học mở ra trước mắt con người những cánh cửa
liên tiếp của sự khám phá, mà đi hết cánh cửa này người ta đến được với
những cánh cửa khác sâu xa, vi diệu hơn. Trong các môn KHXH và NV thì

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn

8


Khóa luận tốt nghiệp
văn chương lại là môn có tính chất mở, nó không bao giờ có đáp án cuối cùng.
Với đề tài Cảm hứng Đăng cao trong một số bài thơ tiêu biểu của Lý Bạch
- Đỗ Phủ - Bạch Cư Dị chúng tôi mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc lí
giải vẻ đẹp thơ Đăng cao trong diện mạo thơ Đường, từ đó giúp bạn đọc
hiểu được vai trò, vị trí và trách nhiệm của con người trong cuộc đời và với
chính mình. Bởi tư thế Đăng caomang lại cho chúng ta cái nhìn mới mẻ có
tính chất khám phá về ngoại giới và về thế giới bên trong con người
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. 1. Đối tượng nghiên cứu
Cảm hứng Đăng cao trong một số bài thơ Đăng cao tiêu biểu của
ba nhà thơ Lý Bạch - Đỗp Phủ - Bạch Cư Dị.
4. 2. Phạm vi nghiên cứu
Với trình độ có hạn, trong khoá luận này chúng tôi không có điều kiện
để khảo sát toàn bộ thơ Đăng cao của ba nhà thơ Lý Bạch - Đỗ Phủ - Bạch
Cư Dị mà chỉ đi vào phân tích một số bài thơ Đăng cao tiêu biểu.
Chúng tôi cũng chỉ nhìn nhận, lý giải cảm hứng Đăng cao trong thơ
của ba đỉnh cao này từ góc độ tâm lý và giải mã nghệ thuật, đồng thời phân
tích một số bài thơ tiêu biểu qua đó giúp đi sâu hơn vào thế giới nghệ thuật
của ba nhà thơ, làm sáng tỏ những giá trị tư tưởng, thẩm mĩ trong thơ.
Những bài thơ Đường khảo sát trong khoá luận này được rút từ Đường
thi tuyển dịch (2 tập) - Dịch giả Lê Nguyễn Lưu, NXB Thuận Hoá. 1997.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện khóa luận chúng tôi chủ yếu sử dụng những
phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê phân loại
- Phương pháp phân tích tổng hợp

- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp so sánh

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
9


Khóa luận tốt nghiệp

B: PHầN NộI DUNG
Chương 1
Cơ sở tâm lý của việc hình thành
cảm hứng "Đăng cao" trong thơ
Lý Bạch - Đỗ Phủ - Bạch Cư Dị
1. 1. Cơ sở tâm lý chung của việc hình thành cảm hứng "Đăng cao"trong
thơ trung đại
1. 1. 1. Một số đặc điểm chung về cảm thụ không gian trong thơ
trung đại
Do những đặc điểm về thời đại quy định, cách cảm thụ không gian
trong thơ trung đại mang nhiều dấu ấn đặc biệt. Nền văn minh nông nghiệp
lúa nước với thói quen quan sát thiên văn, công nghiệp và đô thị chưa phát
triển là một trong những lí do giải thích vì sao không gian vũ trụ chiếm một vị
trí đặc biệt trong thơ trung đại. Hơn nữa, trong thời trung đại, do phạm vi
thông thương còn hạn chế, điều kiện giao thông chưa phát triển nên người
trung đại chưa có quan niệm về thế giới như là tổng thể của các nước. Họ hình
dung thế giới là thiên hạ, quốc gia cũng là thiên hạ, hoặc hình dung qua mô
hình sinh tồn"non nước", "giang sơn", "sơn hà" . . . do đó, dù muốn hay
không, không gian đã được cảm nhận qua năng lực chiếm lĩnh không gian của

người trung đại và nó mang tính chất chủ quan.
Có thể thấy trong văn học trung đại, không gian được nhìn trên hai bình
diện cơ bản là không gian trong văn học bình dân - không gian văn hóa làng
xã và không gian trong văn học bác học - với kiểu không gian vắng vẻ, u trầm,
nhàn dật. . . "Đăng cao"thuộc kiểu không gian này. Sự thể hiện của không
gian trong văn học trung đại rất đa dạng và phong phú, tựu chung lại có thể
xây dựng một vài mô hình không gian trong văn học trung đại như sau:

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
10


Khóa luận tốt nghiệp
Mô hình không gian được xây dựng theo cách con người cảm thụ là
trung tâm:"phủ"(cúi), "ngưỡng"(ngẩng), "tứ cố"(bốn phía). . .
Mô hình không gian được xây dựng theo hình dung về thứ bậc trên dưới: thượng giới - trần gian - địa phủ.
Một đặc điểm nữa của mô hinh không gian trung đại là không gian
được xây dựng trong ý thức của con ngươì về vị trí của mình trên cõi
đời tương quan với môi trường xung quanh (theo kiểu "ăn xem nồi, ngồi
xem hướng", "quan trên trông xuống, người ta trông vào". . . )
Tất cả hình thành một điểm nhìn siêu cá thể mang tính khách quan,
nhìn thế giới và bản thân trong toàn cảnh của con người trung đại.
1. 1. 2. Cơ sở tâm lý của việc hình thành cảm hứng "Đăng cao" trong
văn học trung đại.
Nhìn từ góc độ văn hóa, "Đăng cao" là một hoạt động mang tính lịch sử
xã hội.
Trước hết, "Đăng cao" bắt nguồn từ nghi thức tế lễ núi sông của tôn
giáo cổ đại. Theo P. Ănghen:"Tôn giáo ra đời từ sự sợ hãi, nghệ thuật ra đời từ

nỗi đau". Thủa xa xưa, những cư dân đầu tiên của đất nước Trung Hoa sống
rải rác trên lưu vực những con sông lớn Trường Giang và Hoàng Hà mà ngày
nay là đồng bằng Hoa Hạ. Cuộc sống của họ hoàn toàn phụ thuộc vào tự
nhiên, thiên nhiên vừa là bạn, vừa là kẻ thù: tự nhiên đem đến cho họ lương
thực và các điều kiện khác để đảm bảo cuộc sống nhưng cũng có thể cướp đi
của họ tất cả. Đôi khi có những hiện tượng tự nhiên thần bí họ không thể lý
giải. Trước sức mạnh của tự nhiên, với trình độ nhận thức ấu trĩ, các cư dân cổ
đại đã gán cho vạn vật, cây cỏ, núi sông những linh hồn. Và họ bắt đầu thờ
cúng thiên nhiên, bửi gắm vào đó khát vọng về một cuộc sống bình yên, no
ấm. Như thế, nghi thức tế lễ của tôn giáo cổ đại thể hiện mối quan hệ giữa con
người và thiên nhiên. Về sau rừng núi không chỉ là bạn của tầng lớp bình dân
mà còn là thánh địa để tầng lớp quý tộc đến tế lễ. Cũng như dân thường, họ tế

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
11


Khóa luận tốt nghiệp
lễ để cầu xin đất trời phù hộ, giúp đỡ, nhưng là cầu xin những việc to lớn: tế lễ
bốn mùa, tế khi đi xa, tế khi xuất quân. . .
Nhưng vì sao tế vọng phải lên cao? Trong quan niệm của người cổ đại,
trời là vị thần có quyền lực nhất trong tất cả các vị thần, mà trời thì phải ở trên
cao, phải "ngước nhìn" mới thấy . Do đó, trong suy nghĩ ngây thơ của họ, càng
lên cao thì lời cầu nguyện càng thấu đạt đến trời.
Nguồn gốc có tính chất triết học của "Đăng cao":
"Đăng cao" gắn với một hoạt động mang tính duy tâm thần bí của
người Trung Hoa xưa là"Đăng cao chiêm phong"(Lên cao bói gió). Từ khát
vọng muốn nhận biết các biến đổi có thể đe dọa cá nhân hay xung quanh mình

trong một tương lai gần, người Trung Quốc sản sinh ra phong tục boí gió .
Quan niệm phong thủy của người Trung Hoa xưa cũng cho rằng: trời là cõi
dương, đất là cõi âm. Càng lên cao, con người càng hấp thụ được nhiều dương
khí nên mạnh khỏe. Người Trung Quốc có tục chôn cất người chết ở gò cao để
dương khí tiếp thêm cho cây phả hệ, con cháu được hưng vượng lâu dài . Các
bậc vua chúa thích xây dựng lâu đài, thành quách càng cao càng tốt . Càng lên
cao càng phóng xa được tầm mắt, biết được nhiều và biết sớm những điều hơn
lẽ thiệt ở đời. Chính ở trên cao, con người mới có thể chiêm nghiệm một cách
tổng thể cõi nhân gian, thấy được bao hưng phế, thăng trầm chỉ là hư ảo, cuộc
đời con người chỉ là hữu hạn trong cái dòng chảy vô hạn của thời gian. Tự ý
thức về bản thân, chiêm nghiệm quá khứ để có cái nhìn đúng đắn hơn ở hiện
tại và trong tương lai, không gian "Đăng cao" thường gợi nỗi lòng hoài cổ là vì
thế.
Ngoài ra, nhìn từ góc độ lịch sử xã hội, "Đăng cao" còn xuất phát từ mĩ
tục"trùng cửu đăng cao" của con người thời trung đại. Thời Đông Hán có
truyền thuyết được kể lại:"Một hôm Phí Trường Phòng nói với Hoàn Cảnh, đệ
tử học đạo là: "Người nhà cậu sắp bị tai họa, cần dời nhà lên cao, tay đeo hột
thù du, uống rượu cúc mới có thể tránh được tai họa". Điều xảy ra ứng với lời
dạy". Từ đó "trùng cửu đăng cao" dần trở thành phong tục của dân.

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
12


Khóa luận tốt nghiệp
Như vậy, khi mi xut hin, phong tc ny th hin s yêu thương
gắn bó trong gia đình - quan tâm đến sự bằng an của người thân. Về sau, theo
thời gian mĩ tục này mang thêm nhiều màu sắc mới . Ngày trùng cửu trở thành

ngày hội đoàn tụ. . . . Sầm Tham trong "Tư Trường An cố viên " đã viết :
"Cưỡng dục đăng cao khứ
Vô nhân tống tửu lai
Dao lân cố viên cúc
Ưng bang chiến trường khai"
(Muốn gượng lên chơi núi cao,
Nhưng không ai đem rượu đến
Thương hàng cúc nơi vườn cũ cách xa,
Vẫn nở hoa cạnh bãi chiến trường)
Trong cuộc hành quân, gặp ngày trùng cửu, dù là chiến tranh loạn lạc,
nhưng nhân vật trữ tình vẫn cố gượng lên cao. "Trùng cửu đăng cao" xen vào
giữa cuộc chiến như một nốt lặng. Nhưng chiến tranh vẫn là chiến tranh, lên
cao mà chẳng có ai đưa rượu cho. Nỗi nhớ quê ngập tràn trong tâm hồn nhà
thơ. Vì không có rượu hoa cúc nên nhà thơ chợt nhớ đến cúc vườn cũ ("cố viên
cúc") và hình dung có lẽ giờ này cúc đang nở hoa trong chiến trường, cúc lặng
lẽ nở mà chẳng có ai ngắm hoa và ủ rượu. Tạo hóa sao mà vô tình. Tha hương
đã buồn, lại nghĩ đến quê hương đang chìm trong chiến tranh nên càng buồn
gấp bội .
Có thể thấy "trùng cửu đăng cao" được bắt nguồn từ tình cảm tốt đẹp
của những người thân dành cho nhau và từ khát vọng về một cuộc sống thái
bình. Chính ý nghĩa tốt đẹp này đã làm cho phong tục được lưu truyền mãi về
sau. Lên núi cao, cài cành thù du lên đầu, uống rượu hoa cúc, giữa cảnh vui
vẻ, sum vầy của ngày hội người ta làm thơ mong lưu lại cuộc vui dài lâu. Khi
đi xa, nơi đất khách ngậm ngùi nhớ lại ngày vui thủa trước lại chạnh lòng nhớ
quê, người ta lên cao để ngóng vọng, để gửi tâm hồn về với cố hương. Thơ
đăng cao hoài viễn bắt nguồn từ đó.

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn

13


Khóa luận tốt nghiệp
Nhìn từ góc độ văn hóa, "Đăng cao"còn gắn liền với tâm thái hoài cổ
của người Trung Hoa. Văn minh Trung Hoa cổ là nền văn minh nông nghiệp,
việc trồng trọt của con người gắn liền với thiên nhiên. Qua việc quan sát thiên
nhiên để dự báo, con người nhận thấy sự lặp lại tuần hoàn theo chu kì của các
hiện tượng tự nhiên: trăng tròn rồi trăng khuyết là hết một tháng; xuân sinh,
hạ trưởng, thu tàn, đông diệt là hết một năm. Vòng tuần hoàn ấy khiến người
trung đại tưởng là thời gian quay tròn. Chính vì quan niệm thời gian tuần hoàn
nên người ta không mấy quan tâm đến tương lai mà đặc biệt quan tâm đến quá
khứ. Hơn nữa, ở Trung Quốc chế độ phong kiến tồn tại từ năm 221TCN đến
1911, đó là đất nước có chế độ phong kiến lâu dài và bền vững nhất trên thế
giới, mà bản chất của chế độ này là bảo thủ. Như vậy, hoài cổ là đặc điểm của
kiểu tư duy nông nghiệp lại được củng cố bằng ý thức hệ Nho giáo
Có thể nói, tâm thái hoài cổ vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của
"đăng cao". "Đăng cao" là cái cớ để hoài cổ và để thỏa mãn tâm thái hoài cổ.
Người ta lên cao để trông xa, để nhìn lại chính mình, nhìn vào mình, đối diện
với quá khứ, chiêm nghiệm về cái còn, cái mất trong cõi đời. Đứng trên đỉnh
cao nhìn ra bốn phía rộng mênh mang, sâu thăm thẳm, con người mới chợt
nhận ra cái bé nhỏ, hữu hạn của mình trước cuộc đời. Nghĩ về tương lai thấy
xa xôi và rợn ngợp, vì thế quá khứ trở thành một điểm tựa, một chỗ neo đậu
cho con người trong dòng chảy bất tận của thời gian
Người trung đại "đăng cao" còn để mang theo khát vọng chiếm lĩnh
không gian. Người Trung Quốc cổ luôn đặt mình trong mối quan hệ tương
thông, tương hợp với thiên nhiên. Người ta quan niệm "thiên nhân hợp nhất ".
Học thuyết của Lão Trang cho rằng :"Thiên địa dữ ngã tinh sinh, vạn vật dữ
ngã vi nhất "(Trời đất cùng sinh ra với ta, vạn vật với ta là một). Học thuyết
của Khổng Mạnh lại nói :"Vạn vật giai bị ư ngã "(Vạn vật đều có đầy đủ ở

trong ta). Các quan niệm trên đều thống nhất ở chỗ coi con người là một tiểu
vũ trụ trong lòng đại vũ trụ, con người có mối liên quan mật thiết với đất trời.

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
14


Khóa luận tốt nghiệp
Quan niệm con người vũ trụ được hình thành từ thời cổ đại, đến đời
Đường nó được hoàn chỉnh và kết tinh rực rỡ. Con người vũ trụ chiếm vị trí
trung tâm trong quan niệm nghệ thuật về con người đời Đường trong thơ. Coi
con người như một mô hình đồng dạng, thu nhỏ của thiên nhiên, cho nên con
người ấy luôn mang trong mình khát vọng hòa hợp, chiếm lĩnh thiên nhiên
rộng lớn.
Lên cao và đi xa là hai cách thức để con người vũ trụ chiếm lĩnh không
gian. Đi xa để thấy được nhiều, nhưng đi xa con người đi vào nơi đất khách xa
lạ, cô độc. Hơn nữa, với phương thức này con người chỉ chiếm lĩnh được bề
rộng của thiên nhiên mà thôi. Đăng cao" mới chính là phương thức hữu hiệu
nhất để thỏa mãn khát vọng chiếm lĩnh không gian của con người vũ trụ:
"Dục cùng thiên lí mục
Cánh thướng nhất tằng lâu"
("Đăng Quán Tước lâu" - Vương Chi Hoán)
(Muốn phóng xa đến tận cùng tầm mắt
Nên lại bước lên một tầng lầu nữa)
Với "đăng cao", con người chiếm lĩnh không gian trong tính thống nhất,
toàn vẹn của nó: chiều cao - rộng - sâu. Từ vị trí trung tâm của mình, con
người chiếm lĩnh thiên nhiên với ba chiều có thực và mở rộng thêm một chiều
thứ tư: chiều hư - chiều cao tâm linh. ấy là khi con người lên cao để bừng ngộ

những điều mà trước đó chưa từng nhận ra về chính tâm hồn mình.
Ngoài ra "đăng cao"còn là một động tác mang tính quan niệm, thẩm mĩ
phù hợp với quan niệm con ngươi vũ trụ và khí thế vươn lên trong một xã hội
phồn thịnh .
Tóm lại, "Đăng cao"là tổng hoà những quan niệm khác nhau của người
Trung Hoa cổ về thế giới. Có thể nói tư tưởng triết học và những phong tục tập
quán đã hình thành nên "đăng cao" từ nhận thức bị động của con người thời
thơ ấu trước thiên nhiên hùng vĩ. Quan niệm con người vũ trụ và khí thế vươn
lên trong một xã hội phồn thịnh lại kết tinh những tầng nghĩa vi diệu khác của

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
15


Khóa luận tốt nghiệp
"Đăng cao". Từ quan niệm con người vũ trụ, con người chủ động giao hòa,
khám phá thiên nhiên, xuất phát từ khí thế vươn lên của con người Thịnh
Đường, con người muốn tự khẳng định bản lĩnh, tài năng, khí phách của mình.
Có thể nói, ở một mức độ nhất định nào đó "Đăng cao" là sự tự nhận thức của
con người về chính mình, và là sự khẳng định vai trò, vị trí của con người
trong cuộc đời, nó phù hợp với tâm lí, ý thức người trung đại. Cơ sở tâm lí của
việc hình thành cảm hứng "đăng cao" trong thơ Lý Bạch - Đỗ Phủ - Bạch Cư
Dị.
1. 2. Cơ sở tâm lí của việc hình thành cảm hứng Đăng cao trong thơ Lý
Bạch - Đỗ Phủ - Bạch Cư Dị.
Tâm lý, ý thức của mỗi cá nhân được hình thành từ đặc điểm về con
người cá nhân, từ môi trường sống của cá nhân mỗi người. Tâm lý ý thức có
vai trò quyết định hệ tư tưởng của cá nhân đó. Đối với thi nhân tư tưởng được

bộc lộ qua sáng tác, giá trị và sức sống của sự nghiệp cả đời họ theo đuổi phụ
thuộc vào cái mà họ để lại cho mai hậu là gì?. Trong khóa luận này chúng tôi
xin phân tích cơ sở tâm lí của việc hình thành cảm hứng "Đăng cao" trong thơ
Lý Bạch - Đỗ Phủ - Bạch Cư Dị chủ yếu ở phương diện đặc điểm về con
người cá nhân và đặc điểm thời đại bất như ý.
1. 2. 1. Cơ sở tâm lí của việc hình thành cảm hứng Đăng caotrong
thơ Lý Bạch.
"Thi tiên" Lý Bạch được xem là nhà thơ Đường có tư tưởng phức tạp
nhất . Lý Bạch (701 - 762) trong một gia đình thuộc tầng lớp trên trong xã hội.
Ông mang trong mình cái tự do phóng túng của dòng máu Trung á và cái lãng
mạn bay bổng thừa hưởng từ huyết quản Hán tộc. Khi còn rất trẻ ông đã thích
múa kiếm, khinh tài trọng nghĩa, thích làm hiệp khách và giỏi thơ phú. Ông
đi rất nhiều nơi, thường lên núi đọc sách và múa kiếm, năm hai mươi lăm tuổi,
ông"đeo kiếm rời nước, từ biệt cha mẹ đi xa". Cuộc đời Lý Bạch đã có ba lần
"nhập thế "với ba dấu mốc lớn đó là: năm 742, Lý Bạch về kinh đô Trường An
mang theo khát vọng thi thố tài năng chính trị nhưng thất bại. Ông nhận ra

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
16


Khóa luận tốt nghiệp
rằng nhà vua chỉ xem tài năng của ông như một thứ đồ trang sức để làm phong
phú thêm đời sống hưởng lạc của mình . Lần thứ hai Lý Bạch "nhập thế" đó là
năm 756 khi ông nhận lời làm quân sư cho Vĩnh Vương Lý Lân. Ông đâu ngờ
Lân có âm mưu phản bội!. Khi việc bại lộ Lý Lân bị giết, những người có liên
quan bị khép tội chết riêng Lý Bạch, vì có người bảo lãnh nên được giảm án.
Năm 761 tiếp tục tham gia đầu quân của Lý Quang Bật truy quét tàn quân của

An Lộc Sơn ở biên giới, nhưng lần này ông lâm bệnh và mất. Vậy là cả ba
lần"nhập thế" của Lý Bạch đều thất bại. Nhưng ba lần thử vận may trên con
đường hoạt động chính trị đã thể hiện nỗ lực của nhà thơ trong hành trình lập
công danh với đời. Nói cách khác, tuy ba lần thất bại nhưng đó chính là hành
trình nhập thế vơí khát vọng lập công danh sự nghiệp của Lý Bạch. Thái độ
sống "nhập thế" của Lý Bạch chịu ảnh hưởng từ Nho giáo, bởi lẽ ông là người
có lý tưởng chính trị rõ ràng, có khát vọng, có ý trí, mong muốn đóng góp tài
năng của mình cho đất nước, muốn đem sức lực và trí tuệ phò giúp nhà vua:
"Qua sông thề với nước
Chí muốn yên cõi bờ"
Ông cũng từng bày tỏ ý chí của mình:
"Tôi muốn làm rõ lời bàn của Quản Trọng, án Anh, tính mưu trước của
bậc đế vương, giúp vua dựng nghiệp lớn làm cho thiên hạ yên ổn, bốn biển
thanh bình để dân đen được an cư lạc nghiệp". ("Đại Thọ Sơn đáp Mạnh Thiếu
Phủ di văn thư").
Nhưng càng ôm nhiều hoài bão bao nhiêu thì Lý Bạch càng rơi vào bế
tắc, bởi có thể coi ông là người sinh bất phùng thời, thuộc kiểu người"hoài tài
bất ngộ"(ôm tài mà không gặp được người biết đến). Ông khát khao nhập thế,
khát khao được cống hiến, tuy nhiên con đường công danh của ông không hề
thuận lợi, vì lúc này nền chính trị nhà Đường bắt đầu bước vào giai đoạn suy
thoái. Những thất bại trên con đường chính trị trở thành một nguyên cớ để đẩy
ông về với Đạo gia. Lối sống ưa tự do tự tại, vô vi thóat lục của các đạo sĩ đã
gặp gỡ tính tình ưa tự do phóng túng của Lý Bạch. Ông gắn bó với Đạo gia

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
17



Khóa luận tốt nghiệp
như để cố gắng tìm nguồn an ủi, lấy nó để làm dịu đi nỗi đau của những thất
bại trên con đường nhập thế. Gắn bó với Đạo gia, nhiều khi ông tỏ thái độ coi
thường Nho gia, ông theo đuổi những gì không có trong thực tế (cố gắng tìm
đến nơi tiên ở, say sưa luyện thuốc trường sinh, ôm ấp ước mơ bất tử. . . ). Mặt
khác, khi phát triển đến mức độ cực đoan thì tư tưởng đó có phần tiêu cực, ông
công khai ca ngợi những thú vui hành lạc. Chẳng hạn ông kể về cái thú vui
của việc dắt kĩ nữ đi chơi trong bài "Huề kĩ":
"Khi lên đời thực sướng sao
Rượu ngon cứ uống, lầu cao cứ chèo
Con hầu cầm quạt đi theo
Tháng năm mà mát như chiều thu sang"
Toát lên từ những câu thơ đó, ta thấy có một cái gì ung dung, nhàn tản,
tự do, tự tại đến mức hể hả mãn nguyện. Nếu như Nho (nhập thế) và Đạo (xuất
thế) giống như hai thái cực luôn dằng xé, day dứt trong tư tưởng Lý Bạch thì
có thể coi tư tưởng du hiệp chính là liều thuốc giúp ông lấy lại cân bằng: Nho
giáo thúc giục ông nhập thế, lăn xả vào cuộc đời tạo lập công danh sự nghiệp,
tạo lập cho mình một dấu ấn để lại cho mai hậu: Đạo giáo thổi vào ông cái
nhìn ngạo nghễ, khinh bạc, vượt lên và coi thường tất cả, lắng lại những đua
chen, toan tính, để lại sau lưng cái ồn ã, xô bồ của cõi nhân gian để tiêu dao
với những thú vui thoát tục; Vậy thì cuối cùng, trong tư tưởng vị "trích
tiên"này cái gì còn đậu lại? Cái gì dẫn dắt, chỉ lối giúp ông đi đúng giữa ranh
giới của hai bờ xuất - nhập? Đó chính là mục đích sống vì nghĩa và tự do của
tư tưởng du hiệp. Các hiệp sĩ sống bằng hai nguyên tắc cơ bản: đặc biệt đề cao
tự do và không chấp nhận sự bất công trong xã hội. Những nguyên tắc cơ bản
này gần như cũng trở thành tôn chỉ sống của Lý Bạch bởi ông là người ưa tự
do và khao khát sự công bằng. Có rất nhiều câu thơ của Lý Bạch thể hiện tư
tưởng này:
"Mong được giúp chúa hiền
Công thành về rừng cũ"

("Cổ phong")

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
18


Khóa luận tốt nghiệp
Hay:
"Việc xong phủi áo bước
Chẳng cho đời biết ai"
(Sự liễu phất y khứ
Thâm tàng thân dữ danh)
(Hiệp khách hành)
"Hãy vui lúc sống một chén rượu
Cần chi tên tuổi để ngàn sau"
(Thả lạc sinh tiền nhất bôi tửu
Hà tu thân hậu thiên tải danh)
(Hành lộ nan - Kỳ tam)
Những tình cảm, cảm xúc của Lý Bạch thể hiện phản ứng tinh thần của
ông trước thực tại xã hội, trước những thất bại trên con đường hoạt động chính
trị mà ông từng theo đuổi, nó chuyển thành nỗi niềm bi phẫn trong thơ. Bởi
vậy, cùng một vấn đề mà ở những giai đoạn khác nhau ông có những cách lý
giải khác nhau và những phản ứng tinh thần khac nhau. Ông hay nói về thú
vui, nhưng nhiều khi chỉ là vui tạm; ông ca ngợi thú chơi nhưng đó chỉ là chơi
trong chốc lát, nghĩa là không hết mình với niềm vui ấy; nghĩa là còn cảm xúc
nào đó ẩn chứa trong ông không dễ bộc lộ thành lời:
"Tạm cùng trăng với bóng
Chơi xuân cho kịp mà"

(Tạm bạn nguyệt tương ảnh
Hành lạc tu cập xuân)
(Nguyệt dạ độc trước - Kỳ nhất)
Lý Bạch một đời ngao du, bạn bè rất nhiều, thế mà cuối cùng "Tạm
cùng trăng cới bóng ", chỉ có "trăng" với "bóng" là hai người bạn thủy chung
nhất có thể hiểu được những suy tư trong sâu thẳm tâm hồn thi sĩ. Thế mới

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
19


Khóa luận tốt nghiệp
biết ông cô độc đến nhường nào!. ở Lý Bạch nhiều khi còn là sự mâu thuẫn
lớn, đó không chỉ là sự mâu thuẫn giữa lý tưởng và hiện thực, mà còn là sự
mâu thuẫn trong chính tư tưởng của ông. Cùng nói về chữ "chí" nhưng ở
những trường hợp khác nhau lại quá cách xa nhau về ý nghĩa, thậm chí đối lập
nhau:
Ông viết:
"Qua sông thề với nước
Chí muốn yên cõi bờ"
Nhưng rồi:
Coi đời như mộng lớn
Làm chi cho nhọc thân
Suốt ngày say túy lúy
Lăn kềnh ngủ trước sân"
("Ngày xuân say rượu tỉnh dậy nói chí")
Tóm lại, có thể hiểu rằng Lý Bach là nhà thơ có tư tưởng rất phức tạp,
những phức tạp ấy co nguyên nhân từ chính đặc điểm cuộc đời, từ nguồn gốc

xuất thân và đặc biệt là từ đặc điểm thời đại ông đang sống. Khi tìm hiểu cảm
hứng "Đăng cao" trong thơ Lý Bạch chúng tôi sẽ xem xét nguồn cảm hứng ấy
và đặc điểm thơ "Đăng cao" của ông trong toàn bộ hệ tư tưởng phức tạp và đầy
mâu thuẫn này
1. 2. 2 Cơ sở tâm lí của việc hình thành cảm hứng Đăng cao trong
thơ Đỗ Phủ.
Đỗ Phủ(712 - 770) sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho
học. Ông nội là Đỗ Thẩm Ngôn - một trong những nhà thơ nổi tiếng đầu đời
Đường. Về cuộc đời Đỗ Phủ có thể kể đến một vài dấu mốc quan trọng: Ông
thông minh từ nhỏ, 7 tuổi bắt đầu làm thơ, 14 tuổi nổi tiếng khắp Trung Quốc.
Năm 746 ông gặp thi tiên Lý Bạch ở cố đô Lạc Dương, cùng sống với Lý Bạch
khoảng 6 tháng sau đó Lý Bạch tiếp tục ngao du còn Đỗ Phủ hướng tới kinh

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
20


Khóa luận tốt nghiệp
đô Trường An để mong lập công danh sự nghiệp. Đây cũng là thời điểm mở
đầu cho mười năm gió bụi ở kinh đô Trương An của ông. Trong giai đoạn này
ông đã tận mắt chứng kiến những bất công, ngang trái của xã hội, hiểu được
mặt trái ẩn sau vẻ hoàng kim của thời đại và cũng đã tận mắt chứng kiến nỗi
cùng khổ của nhân dân lao động.
Năm 755 Đỗ Phủ được nhà vua ban cho một chức quan mọn (trông coi
một kho vũ khí nhỏ của quân đội - Hữu vị soái phủ trụ Tào tham quân). Sau
khi nhận chức ông được phép về thăm nhà, ông về đến nhà đúng vào lúc đứa
con trai mới chết vì đói. Trong năm này loạn An Lộc Sơn nổ ra. Sau khi đưa
gia đình đi lánh nạn ông tìm cách trở lại kinh đô thì bị quân An Lộc Sơn bắt

và giam giữ trong hai năm. Ông tìm cách vượt vòng vây về ra mắt vua và được
ban chức Tả thập di (Quan can dán). Nhưng ngay sau đó bị cách chức vì can
dán vượt quyền. Sự kiện này khiến ông rất đau lòng, nó đánh dấu sự đổ vỡ
hoàn toàn niềm tin trong ông về ước mong giúp nước cứu đời. Đỗ Phủ lần tìm
gia đình đang lưu lạc ở phía bắc và bắt đầu cuộc đời chạy loạn liên tục. Có
thể nói, trong loạn An-Sử (từ 755 đến 763), số phận của triều đại, nỗi cùng
khổ của nhân dân lao động, đời sống xa hoa trụy lạc của giai cấp thống trị,
những khổ đau, bất hạnh của bản thân và gia đình. . . đã giúp Đỗ Phủ trong
một khoảng thời gian rất ngắn sáng tạo được một số lượng tác phẩm phong
phú mang giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo rất cao.
Vào những năm cuối đời Đỗ Phủ cùng gia đình xuống thuyền trôi dạt
khắp các miền sông hồ. Năm 770, vì đói rét và bệnh tật ông đã chút hơi thở
cuối cùng trên một con thuyền rách nát giữa sông Tương, chấm dứt cuộc đời
đầy bi thảm của một nhà thơ hiện thực vĩ đại. Bàn về cuộc đời thi thánh Đỗ
Phủ, Tiễn Bá Tân - một học giả Trung Quốc nói rằng: "Từ buổi trung niên trở
về sau, một quan phế chuất, muôn dặm chạy hoài, đói rét, rừng hoang, bệnh
già, thuyền lẻ. Cái thảm đạm của đời ông quả là chưa từng thấy xưa nay".
"Đăng cao" chỉ là một phần rất nhỏ trong cảm hứng thơ Đỗ Phủ, nhưng
chiếu rọi nguồn cảm hứng ấy vào những khổ đau, những bi kịch của cuộc đời

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
21


Khóa luận tốt nghiệp
Đỡ Phủ chúng ta sẽ thấm thía hơn tính nhân văn cao đẹp trong tâm hồn nhà
thơ vĩ đại này
1. 2. 3. Cơ sở tâm lí của việc hình thành cảm hứng Đăng cao trong

thơ Bạch Cư Dị
Bạch Cư Dị (772 - 846) sinh ra trong một gia đình quan lại nhỏ. Ông
bản tính thông minh, 9 tuổi đã am tường thanh luật của thơ. Ông lớn lên trong
những năm tháng chính trị hỗn loạn, dân tình khổ sở, có điều kiện gần gũi và
am hiểu đời sống nhân dân, là tiền đề cho những sáng tác viết về nôĩ thống
khổ của quần chúng nhân dân trong thơ Bạch Cư Dị.
Năm 802, đời Đường Đức Tông, ông đỗ tiến sĩ và ra làm quan, bước
vào đường đời kẻ sĩ chứng kiến bộ mặt hủ bại của triều đình, sự ti tiện, thối
nát của bọn quan lại. Lo lắng cho số phận của đất nứơc và quần chúng nhân
dân, ông cùng Nguyên Chẩn tìm ra những đối sách có thể làm cho nền chính
trị trong sạch, đấu tranh chống lại bọn tham quan.
Nhìn chung cuộc đời làm quan của Bạch Cư Dị khá suôn sẻ, ông học
rộng và thông minh, nổi tiếng là một vị quan thanh liêm được nhân dân kính
trọng và yêu mến. Lưu Vũ Tích từng viết về tình cảm yêu mến, kính trọng của
nhân dân Tô Châu đối với Bạch Cư Dị, và có lẽ đó cũng là tình cảm chung của
nhân dân giành cho ông:
"Nghe tin Bạch thái thú
Bỏ quan về Vô Khê
Tô Châu mười vạn hộ
Khóc òa như trẻ thơ"
1. 2. 4. Tiểu kết
"Đăng cao" là một đề tài đặc hữu của thơ Đường. Trong phần này
chúng tôi đi vào phân tích những đặc điểm về cuộc đời và thời đại mà Lý Bạch
- Đỗ Phủ - Bạch Cư Dị đã trải qua có liên quan đến việc hình thành cơ sở tâm
lý ảnh hưởng đến cuộc đời nghệ thuật của các ông. Văn học là một hình thái
nghệ thuật nhằm nhận thức và phản ánh thế giới bằng hình tượng. Theo đó

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn

22


Khóa luận tốt nghiệp
những hình tượng nghệ thuật lại quay trở về phục vụ đời sống. Nói như thế có
phần mang tính chất lý luận thuần túy khi chưa soi vào một đối tượng cụ thể
nào. Tựu chung lại, ở phần I chúng tôi muốn làm sáng tỏ một cách khái quát
nhất những đặc điểm về cảm hứng "đăng cao" trong thơ Lý Bạch - Đỗ Phủ Bạch Cư Dị, nghĩa là muốn làm sáng tỏ mục đích "đăng cao"của ba nhà thơ.
Người trung đại lên cao để giãi bày tư tưởng, tình cảm, để biểu đạt cái khoáng
đạt, cái dạt dào trong tâm hồn mình, và, đặc biệt họ lên cao còn để tự nhận
thức: nhận thức về những cái đã qua, những gì sẽ tới, và nhận thức về chính
thế giới bên trong con người .

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
23


Khóa luận tốt nghiệp

Chương 2
Cảm hứng "Đăng cao" trong một số bài thơ
tiêu biểu của ba nhà thơ
Lý Bạch - Đỗ Phủ - Bạch Cư Dị

2.1. Thống kê, phân loại những bài thơ được viết bởi cảm hứng "Đăng
cao".
2. 1. 1. Tiêu chí phân loại
Khi tiến hành khảo sát thơ Lý Bạch- Đỗ Phủ- Bạch Cư Dị chúng tôi

nhận thấy có sự lặp lại với tần số cao những bài thơ được khởi hứng từ động
tác "đăng cao". Đó không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, mà là một sự lặp
lại có hệ thống, có mục đích của từng nhà thơ.
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này là cảm hứng "đăng cao" trong
thơ Lý Bạch - Đỗ Phủ - Bạch Cư Dị nhưng không có nghĩa là tất cả những bài
thơ chúng tôi khảo sát đều chứa từ "đăng cao". Ngoài những bài thơ có chứa
từ "đăng", chúng tôi cũng chọn cả những bài có các từ "thượng", "thướng",
"vọng", . . . . Tất cả những bài thơ đó đều có ý nghĩa lên cao: ví dụ: "đăng cao"
trong niềm mơ ước về cảnh sắc núi mùa thu đã lên chơi ngày trước hoặc mơ
ước được lên cao ("mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt"- Lý Bạch( đó là một
hình thức lên cao trong tâm tưởng. Mỗi nhà thơ có một kiểu "đăng cao" thể
hiện phong cách của mình và mỗi lần "đăng cao" lại mang một sắc thái độc
đáo, riêng biệt không lặp lại. "Đăng cao" trong thơ Lý Bạch- Đỗ Phủ- Bạch Cư
Dị rất phong phú, đa dạng nếu xét về không gian, thời gian, mục đích lên cao.
Trong khoá luận này chúng tôi chọn tiêu chí phân loại là tính chất thực
và mộng của điểm nhìn nghệ thuật từ đó xác định mục đích lên cao. Lên cao
để làm gì? "ức hữu", "tư hương", thưởng ngoạn hay nhận thức? "đăng cao" là
một hành động, lại là hành động mang tính quan niệm, thẩm mĩ, kết tinh trong

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
24


Khóa luận tốt nghiệp
đó đời sống văn hoá tinh thần của người Trung Hoa. Nếu xem những nguyên
nhân của "đăng cao" là động cơ thúc đẩy con người, thì khi "đăng cao" được
thực hiện nó sẽ trở thành mục đích của hành động đó. Mục đích của hành
động sẽ quy định cách thức, phương tiện và nội dung của hành động đó. Theo

đó về không gian "đăng cao" trong thơ Lý Bạch- Đỗ Phủ- Bạch Cư Dị chúng
tôi xin phân làm hai trạng thái cơ bản: không gian thực và không gian mộng.
Tất nhiên sự phân loại này chỉ là tương đối vì một bài thơ hàm chứa trong nó
rất nhiều tầng nghĩa phong phú và đa dạng. bầu trời và thiên nhiên là cái nền
của thơ Đường, nó được thể hiện trong cái nhìn bao quát nhiều chiều. Trên cái
phông thẩm mĩ đó con người xuất hiện và bộc lộ tâm tư, tình cảm, cảm xúc,
của mình. "Đăng cao" là một động thái đưa con người vận động vào vị trí
trung tâm vũ trụ. Do đó thơ " đăng cao" được thể hiện qua thiên nhiên và vì
thiên nhiên. Vấn đề đặt ra ở đây là: thưởng ngoạn cảnh đẹp có phải là mục
đích cuối cùng mà thơ "đăng cao" nhằm tới không hay thiên nhiên chỉ là cái
cớ để bộc lộ những nội dung khác? Như vậy có nghĩa là bất cứ bài thơ "đăng
cao"cũng đều miêu tả thiên nhiên nhưng không phải mục đích đạt tới là
thưởng ngoạn. mà lên cao ngắm cảnh, từ cảnh đẹp đó gợi mở ra những chân
trời nhận thức mới, mởi ra một lối về kí ức, một nỗi nhớ bâng khuâng về bạn
cũ, về cố hương hay về chính thế giới bên trong tâm hồn mình.
Như vậy thiên nhiên chỉ là cái cớ để tạo ra những suy tư của con người.
Lên cao, khi con người đối diện với chính mình trước thiên nhiên rộng lớn
cũng là lúc mọi suy nghĩ đều xuất phát từ trực cảm về thiên nhiên trước mắt
rồi mở dần ra những trường liên tưởng khác nhau: quá khứ- hiện- tương lai.

Hà Hoàng Hà

K29H - Ngữ văn
25


×