Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Dạy đọc hiểu văn bản nghị luận chính trị xã hội hiện đại ở nhà trường trung họcphổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (737.17 KB, 88 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Dạy đọc - hiểu văn bản
nghị luận chính trị - xã hội hiện đại ở nhà trường trung học phổ thông”,
tác giả khóa luận đã thường xuyên nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận
lợi và chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là
các thầy cô giáo trong tổ Phương pháp dạy học Ngữ văn và TS. Bùi Minh
Đức - người hướng dẫn trực tiếp.
Tác giả xin được bày tỏ sự biết ơn và gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới
các thầy cô!

Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2010
Tác giả khóa luận

Lê Thị Tuyết

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu trong khóa luận là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
cứ công trình nào.

Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2010
Tác giả khóa luận

Lê Thị Tuyết

2



QUY ƯỚC VIẾT TẮT
TS:

Tiến sĩ

GS:

Giáo sư

GS.TS:

Giáo sư tiến sĩ

PGS.TS:

Phó Giáo sư tiến sĩ

GV:

Giáo viên

HS:

Học sinh

CH:

Câu hỏi

ĐHTL:


Định hướng trả lời

NXB:

Nhà xuất bản

THPT:

Trung học phổ thông

THCS:

Trung học cơ sở

SGK:

Sách giáo khoa

SGV:

Sách giáo viên

3


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu ...................................................................................................... 6
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 6

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 7
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 9
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 9
6. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 10
7. Đóng góp của khóa luận ....................................................................... 10
8. Bố cục của khóa luận............................................................................ 10
Nội dung .................................................................................................. 11
Chương 1: Văn bản và văn bản nghị luận.............................................. 11
1.1. Văn bản ............................................................................................. 11
1.2. Văn bản văn học ................................................................................ 12
1.3. Văn bản nghị luận.............................................................................. 15
1.3.1. Khái niệm ................................................................................ 15
1.3.2. Đặc trưng của văn bản nghị luận .............................................. 16
1.3.3. Phân loại văn bản nghị luận ..................................................... 26
1.4. Văn bản nghị luận chính trị - xã hội hiện đại ..................................... 27
1.4.1. Khái niệm ................................................................................ 27
1.4.2. Đặc trưng của văn bản nghị luận chính trị - xã hội hiện đại ..... 28
1.4.3. Các văn bản nghị luận chính trị - xã hội hiện đại trong
nhà trườngTHPT ...................................................................................... 33
Chương 2: Quy trình dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận chính trị xã hội hiện đại ở nhà trường THPT ...................................................... 34
2.1. Đọc - hiểu và đọc - hiểu văn học ....................................................... 34

4


2.1.1. Đọc - hiểu ............................................................................... 34
2.1.2. Đọc - hiểu văn học và đọc - hiểu văn học trong nhà trường .... 37
2.2. Quy trình dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận ....................................... 39
2.2.1. Đọc tiếp cận ............................................................................ 40

2.2.2. Đọc văn bản nghị luận ............................................................ 43
2.2.3. Đọc phân tích, cắt nghĩa, đánh giá hệ thống luận điểm,
nghệ thuật lập luận và ngôn từ, ngôn phong của bài văn nghị luận ........... 45
2.2.4. Đọc diễn cảm, đọc sáng tạo văn bản nghị luận ........................ 48
2.3. Quy trình dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận chính trị - xã hội
hiện đại..................................................................................................... 49
2.3.1. Đọc tiếp cận ............................................................................ 50
2.3.2. Đọc văn bản ............................................................................ 53
2.3.3. Đọc phân tích, cắt nghĩa theo bố cục văn bản ......................... 55
2.3.4. Đọc diễn cảm, đọc sáng tạo .................................................... 64
Chương 3: Thể nghiệm dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận chính trị xã hội hiện đại ở nhà trường THPT ....................................................... 65
3.1. Mục đích thể nghiệm ......................................................................... 65
3.2. Nội dung thể nghiệm ......................................................................... 65
3.3. Giáo án thể nghiệm............................................................................ 65
Bài 1: Về luân lí xã hội ở nước ta ............................................................. 66
Phan Châu Trinh
Bài 2: Tuyên ngôn Độc lập ....................................................................... 75
Hồ Chí Minh
Kết luận................................................................................................... 85

5


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn bản nghị luận là một trong những kiểu văn bản quan trọng và
phổ biến trong đời sống xã hội nói chung và đời sống mỗi con người nói
riêng. Khi trình bày một cách trực tiếp, mạch lạc, sâu sắc một tư tưởng, một
quan điểm, một quan niệm nào đó trước cuộc sống người ta thường dùng nghị
luận làm phương thức biểu đạt chính. Chính vì vậy, nắm vững đặc trưng và

tìm ra phương pháp dạy học văn bản nghị luận hiệu quả là một vấn đề có ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc.
1.2. Khoa học phương pháp dạy học văn đã có những công trình nghiên
cứu về đặc trưng của văn bản nghị luận và dạy học văn nghị luận nhưng chưa
nhiều, cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để tìm ra phương pháp dạy học văn
nghị luận đạt hiệu quả cao. Thực hiện đề tài “Dạy đọc - hiểu văn bản nghị
luận chính trị - xã hội hiện đại ở nhà trường trung học phổ thông”, chúng
tôi hi vọng góp phần xây dựng và hoàn thiện lí luận dạy đọc - hiểu văn bản
nghị luận, đặc biệt văn bản nghị luận chính trị - xã hội hiện đại.
1.3. Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay có nhiều đổi mới:
lựa chọn văn bản tác phẩm theo thể loại và tổ chức dạy học theo đặc trưng thể
loại. Chương trình vẫn dựa vào tiến trình lịch sử văn học dân tộc và thế giới,
nhưng ở mỗi giai đoạn (thời kì) sẽ lựa chọn ra các tác phẩm tiêu biểu của các
thể loại văn học làm văn bản mẫu cho việc dạy đọc - hiểu. Do đó, GV và HS
không chỉ có cái nhìn khái quát về văn học Việt Nam và những tinh hoa của
văn học thế giới mà còn có cái nhìn sâu sắc về mặt thể loại. Học một văn bản
thuộc thể loại này sẽ có kiến thức công cụ để tìm hiểu các văn bản khác cùng
thể loại. Không nằm ngoài đặc điểm chung đó, các văn bản nghị luận cũng
được trình bày theo trục thể loại này. Do đó, nắm được các đặc trưng của văn

6


bản nghị luận và phương pháp dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận là yêu cầu tất
yếu.
Thêm vào đó, qua khảo sát, thống kê, chúng tôi nhận thấy nghị luận là
thể loại có nhiều văn bản được đưa vào chương trình SGK Ngữ văn mới (cả
cơ bản và nâng cao). Nhưng trong thực tế giảng dạy không ít GV tiến hành
những tiết dạy văn nghị luận khô khan, ít kích thích hứng thú HS. Nguyên
nhân nào dẫn dến việc GV chưa thành công trong khi dạy văn nghị luận?

Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng trong đó có một nguyên nhân khá quan
trọng là do họ chưa nắm chắc đặc trưng của thể loại nghị luận, chưa xuất phát
từ những đặc trưng của văn bản nghị luận mà khai thác thấu đáo đặc sắc về
nội dung và hình thức của văn bản. Từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình
giáo dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ… cho HS, không đưa lại cho GV cũng như
HS một cái nhìn đầy đủ về văn học Việt Nam.
1.4. Từ thực tiễn trên, với mong muốn góp sức mình trong việc tìm ra
phương pháp dạy hiệu quả nhất đối với thể văn mới đưa vào chương trình là
văn nghị luận, đặc biệt là nghị luận chính trị - xã hội hiện đại, người làm khoá
luận quyết định chọn đề tài: “Dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận chính trị - xã
hội hiện đại ở nhà trường trung học phổ thông”.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề dạy học văn nghị luận đã được nhiều người quan tâm, có thể kể
đến một số tác giả sau:
Tác giả Trần Thanh Đạm trong cuốn Vấn đề giảng dạy văn học theo loại
thể đã đưa ra ý kiến về dạy văn nghị luận: “Từ trước tới nay chúng ta thường
dạy Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, Tuyên ngôn Độc lập… như những tác
phẩm nghị luận. Đúng đây là những bài nghị luận mẫu mực, có sự chặt chẽ,
mạch lạc của các lí lẽ. Nhưng ngoài các lí lẽ, các “luận điểm, luận cứ, luận

7


chứng”, trong tất cả những bài đó còn có sự nồng nhiệt, thiết tha, mãnh liệt
của tình cảm chứa trong các hình ảnh, các nhịp điệu ngữ ngôn”. [2,26]
Trong bài viết Giảng văn nghị luận theo đặc trưng loại, thể, tác giả Đàm
Gia Cẩn đã đưa ra các đặc trưng của thể loại này, quan trọng hơn tác giả đã
chỉ ra những yêu cầu cần đảm bảo trong tiết dạy văn nghị luận. Đó là đảm bảo
yêu cầu giáo dục thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa
và phương pháp duy vật biện chứng cho HS; đảm bảo yêu cầu phát triển năng

lực tư duy của HS; đảm bảo đặc điểm của dạng nghị luận thể hiện trong bài
văn…
Trong thời gian gần đây đáng chú ý có cuốn Phương pháp dạy học văn
bản nghị luận ở trường phổ thông (Hoàng Thị Mai (chủ biên)). Trong đó, tác
giả cuốn sách đã đưa ra các đặc trưng của văn nghị luận, từ đó nêu ra những
nguyên tắc cơ bản, một số biện pháp, cách thức trong tổ chức một giờ dạy học
văn bản nghị luận ở trường phổ thông.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu của các tác giả trên dù có số
lượng chưa nhiều nhưng có ý nghĩa rất quan trọng về mặt phương pháp, đã có
được những định hướng chung nhất, cải thiện được phần nào tình hình khó
khăn về mặt phương pháp dạy học văn bản nghị luận cho GV văn. Tiếp tục
phát triển theo hướng mà các nhà nghiên cứu đã đi, tác giả khoá luận sẽ tiến
hành tìm hiểu, nghiên cứu một cách toàn diện hơn về vấn đề “Dạy đọc - hiểu
văn bản nghị luận chính trị - xã hội hiện đại ở nhà trường trung học phổ
thông” và vận dụng cụ thể vào hai văn bản Về luân lí xã hội ở nước ta (SGK
Ngữ văn 11, tập 2) và Tuyên ngôn Độc lập (SGK Ngữ văn 12, tập 1).
3. Mục đích nghiên cứu
Góp phần bổ sung, hoàn thiện lí luận dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận
trong nhà trường THPT theo quan niệm đổi mới. Đồng thời đề xuất biện pháp

8


nhằm nâng cao chất lượng dạy học văn bản nghị luận chính trị - xã hội hiện
đại ở trường THPT nói riêng và dạy học văn bản nghị luận nói chung.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khoá luận tập trung giải quyết một số nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu lí thuyết về văn bản, văn bản văn học, văn bản nghị luận, văn
bản nghị luận chính trị - xã hội hiện đại.
- Xác định quy trình dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận chính trị - xã hội

hiện đại.
- Thiết kế giáo án thể nghiệm hai văn bản nghị luận chính trị - xã hội
hiện đại trong SGK Ngữ văn THPT:
+ Về luân lí xã hội ở nước ta (SGK Ngữ văn 11, tập 2).
+ Tuyên ngôn Độc lập (SGK Ngữ văn 12, tập 1).
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
- Văn bản nghị luận chính trị - xã hội hiện đại ở nhà trường THPT.
- Hoạt động dạy học văn bản nghị luận chính trị - xã hội hiện đại ở nhà
trường THPT.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phương pháp dạy học văn bản nghị luận chính trị - xã hội hiện đại
trong SGK Ngữ văn THPT.
- Cụ thể là các văn bản:
+ Về luân lí xã hội ở nước ta (Trích Đạo đức và luân lí Đông Tây) Phan Châu Trinh, SGK Ngữ văn 11, tập 2.
+ Tuyên ngôn Độc lập - Hồ Chí Minh, SGK Ngữ văn 12, tập 1.
- Tài liệu: Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu vốn
tư liệu bằng tiếng Việt.

9


6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối
chiếu…
- Phương pháp thể nghiệm.
7. Đóng góp của khoá luận
Khóa luận đóng góp một phần nhỏ vào việc hình thành các thao tác, các
bước đọc - hiểu trong giảng dạy các văn bản nghị luận chính trị - xã hội hiện
đại ở trường THPT qua một số văn bản cụ thể. Mặt khác, khoá luận cũng góp

phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường.
8. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, khoá luận gồm 3 chương:
Chương1: Văn bản và văn bản nghị luận.
Chương 2: Quy trình dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận chính trị - xã
hội hiện đại ở nhà trường THPT.
Chương 3: Thể nghiệm dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận chính trị - xã
hội hiện đại ở nhà trường THPT.

10


NỘI DUNG

CHƯƠNG 1
VĂN BẢN VÀ VĂN BẢN NGHỊ LUẬN

1.1. Văn bản
Có nhiều quan niệm khác nhau về văn bản:
Theo Từ điển tiếng Việt: Văn bản là “chuỗi kí hiệu ngôn ngữ hay nói
chung những kí hiệu thuộc một hệ thống nào đó làm thành một chỉnh thể
mang một nội dung ý nghĩa trọn vẹn”. [19,1360]
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Văn bản là khái niệm được
dùng để chỉ văn bản trong ý nghĩa rộng nhất. Văn bản là bất cứ chuỗi kí hiệu
nào có khả năng tiềm tàng, có thể đọc ra ý nghĩa được, bất kể là có do kí hiệu
ngôn ngữ tạo thành hay không. Do đó, một nghi thức, một điệu múa, một nét
mặt, một bài thơ… đều là văn bản. Còn văn bản theo nghĩa hẹp truyền thống,
như tác phẩm của một nhà văn, một văn kiện thì được gọi là tác phẩm”.
4,394


Còn theo nhóm tác giả SGK Ngữ văn 10, tập 1: “Văn bản là sản phẩm
của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, gồm một hay nhiều câu, nhiều đoạn
và có những đặc điểm cơ bản sau đây:
- Mỗi văn bản tập trung thể hiện một chủ đề và triển khai chủ đề đó một
cách trọn vẹn.
- Các câu trong văn bản có sự liên kết chặt chẽ, đồng thời cả văn bản
được xây dựng theo một cấu trúc mạch lạc.
- Mỗi văn bản có dấu hiệu biểu hiện tính hoàn chỉnh về nội dung
(thường mở đầu bằng một nhan đề và kết thúc bằng hình thức thích hợp với
từng loại văn bản).
11


- Mỗi văn bản nhằm thực hiện một (hoặc một số) mục đích giao tiếp nhất
định”. [14,24]
Mặc dù trong quan niệm về văn bản của các tác giả có những điểm khác
nhau nhưng có sự thống nhất ở chỗ: Đa số các tác giả đều xem xét văn bản là
sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Nó tồn tại ở hai dạng: nói
và viết. Mỗi văn bản là một tập hợp các kí hiệu ngôn ngữ (nói - viết) được tổ
chức thành một hệ thống chặt chẽ, hoàn chỉnh về mặt hình thức, trọn vẹn về
mặt nội dung thông báo.
1.2. Văn bản văn học
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, văn bản văn học là văn bản tác phẩm
văn học, một dạng của văn bản nghệ thuật nói chung, “là một chỉnh thể
nghĩa, một khối thống nhất có tổ chức của các thành tố hợp thành, một thông
báo mà tác giả (người phát) gửi tới người đọc, người xem (người nhận).
Nghĩa của văn bản văn học được xác lập bởi quan hệ của nó với thực tại
ngoài văn bản, với các văn bản khác, với từng cá nhân, với kí ức và các phẩm
chất khác nữa của người phát và người nhận thông báo. Văn bản văn học
thực hiện ba chức năng chính: truyền thông tin, chế biến thông tin mới và bảo

quản thông tin (ghi nhớ)”. [4,395]
Như vậy, có thể hiểu văn bản văn học là văn bản của các tác phẩm văn
học. Trước hết, nó là một văn bản nên nó mang đầy đủ đặc điểm của một văn
bản, là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ giữa nhà văn và bạn
đọc; hình thức tổ chức ngôn ngữ chặt chẽ, chứa đựng một nội dung thông báo
trọn vẹn. Trong văn bản văn học, nội dung được thông báo là những thông tin
thẩm mĩ. Những thông tin ấy được tạo nên từ những đặc điểm ngôn ngữ nghệ
thuật. Toàn bộ thông tin trong văn bản văn học đều được thể hiện thông qua
hình tượng.

12


Ranh giới giữa văn bản văn học và văn bản phi văn học (không phải là
văn học) không phải lúc nào cũng rõ ràng, cố định. Mỗi thời đại, mỗi quốc gia
có thể có những quan niệm khác nhau. Có thời người ta không phân biệt lắm
giữa văn và sử (văn sử bất phân); văn và triết (văn triết bất phân). Nam Kinh
hoa của triết gia Trang Tử, Sử kí của Tư Mã Thiên được xem là những văn
bản văn học tuyệt vời. Có nhiều văn bản vốn là những văn kiện quan trọng có
ý nghĩa lịch sử xã hội như Chiếu dời đô (Lí Công Uẩn); Hịch tướng sĩ (Trần
Quốc Tuấn)… còn được xem là những văn bản văn học quan trọng của nước
nhà.
Tiêu chí phân định văn bản phi văn học với văn bản văn học là một vấn
đề phức tạp. Ở đây người viết dựa trên đặc điểm của văn bản, văn bản văn
học đã đưa ra một số tiêu chí cụ thể để phân biệt văn bản và văn bản văn học.
Văn bản và văn bản văn học giống nhau ở chỗ:
- Cả hai cùng có tính hoàn chỉnh trên cơ sở liên kết nội dung và hình
thức.
- Cả hai cùng nhằm mục đích thông tin.
Tuy có những đặc điểm giống nhau, song văn bản và văn bản văn học

không đồng nhất, giữa hai loại văn bản này có điểm khác nhau:
Thứ nhất, về ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ trong các văn bản nói chung thường mang tính khái niệm,
tính khoa học và tính chính xác. Vì thế ngôn ngữ đó thường mang tính đơn
nghĩa.
- Trong văn bản văn học, ngôn ngữ mang tính hàm xúc, đa nghĩa, tính
biểu tượng, tượng trưng, gợi cảm.
Thứ hai, về kết cấu:
- Trong văn bản thông thường kết cấu thường gồm ba phần: mở bài, thân
bài, kết luận.

13


- Văn bản văn học: kết cấu thường đa dạng, theo loại thể.
Thứ ba, về nội dung thông tin:
- Thông tin trong văn bản nói chung thường là thông tin khoa học.
- Thông tin trong văn bản văn học là thông tin thẩm mĩ, thông tin hàm
ngôn và hiển ngôn do cách thức tổ chức ngôn ngữ trong văn bản của tác giả
quy định và do thái độ của tác giả gửi trong văn bản văn học đó.
Thứ tư, về sự tác động:
- Văn bản thông thường thông qua những thông tin mà nó phản ánh đã
tác động vào lí trí, đem lại sự hiểu biết về các lĩnh vực của đời sống.
- Văn bản văn học: do mang đặc điểm đặc trưng tính thẩm mĩ nên nó tác
động vào ý thức và tình cảm của người tiếp nhận. Độc giả có thể vui, buồn
theo hình tượng thẩm mĩ trong tác phẩm và tìm được sự đồng cảm ở đó.
Thứ năm, về quá trình lĩnh hội:
- Văn bản thông thường với những nội dung thông báo tường minh sẽ
đem lại sự hiểu biết cho người đọc. Và quá trình lĩnh hội thông tin từ phía độc
giả là giống nhau.

- Văn bản văn học: thông tin được gửi đến người tiếp nhận không chỉ có
một. Chủ thể của văn bản văn học chỉ có một, đó là người nghệ sĩ, người sáng
tạo ra văn bản; đối tượng tiếp nhận là bạn đọc, là đông đảo công chúng thuộc
nhiều thế hệ, cộng đồng khác nhau. Sự lĩnh hội và tiếp nhận thông tin của độc
giả không hoàn toàn giống nhau. Vì bạn đọc khi đọc văn bản văn học, họ phải
huy động năng lực tưởng tượng, liên tưởng và cả những kinh nghiệm, những
hiểu biết của bản thân tích lũy được trong quá trình sống để hình dung ra toàn
bộ thế giới của đời sống hiện lên qua các thông tin trong văn bản.
Trên đây là những điểm giống và khác nhau giữa văn bản và văn bản văn
học. Tuy nhiên cần lưu ý, sự so sánh trên cũng chỉ mang tính chất tương đối,

14


cần vận dụng nó linh hoạt để nhận diện văn bản văn học một cách chính xác.
“Ngày nay một văn bản được coi là một văn bản văn học khi:
- Phản ánh và khám phá cuộc sống, bồi dưỡng tư tưởng và tâm hồn,
thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.
- Ngôn từ có nhiều tìm tòi, sáng tạo, có tính hình tượng, có hàm nghĩa
sâu sắc, phong phú.
- Được viết theo một thể loại nhất định với những quy ước thẩm mĩ
riêng: truyện, thơ, kịch…”. 16,121
1.3. Văn bản nghị luận
1.3.1. Khái niệm
Văn bản nghị luận là một trong những kiểu văn bản quan trọng trong đời
sống xã hội của con người, có vai trò rèn luyện tư duy, năng lực biểu đạt
những quan niệm, tư tưởng sâu sắc trước đời sống. Trước tác của các nhà tư
tưởng, nhà lí luận, nhà triết học, nhà chính trị đều viết dưới dạng thức nghị
luận. Có nhiều cách phát biểu khác nhau về văn bản nghị luận:
Theo SGK Ngữ văn 11, tập 2: “Nghị luận là một thể loại văn học đặc

biệt, dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứ để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính
trị, xã hội, văn học nghệ thuật, triết học, đạo đức…). Vấn đề được nêu ra như
một câu hỏi cần giải đáp, làm sáng tỏ. Luận là bàn về đúng, sai, phải, trái,
khẳng định điều này, bác bỏ điều kia, để người ta nhận ra chân lí, đồng tình
với mình, chia sẻ quan điểm và niềm tin của mình”. [17,110]
Cũng cùng quan điểm như trên về văn bản nghị luận, các tác giả của
cuốn Một số vấn đề về văn nghị luận ở cấp hai (Tài liệu BDTX chu kì 1992 1996 cho GV văn cấp 2 phổ thông) trong một cách diễn đạt khác đã đưa ra
quan niệm của mình: “Văn nghị luận là một loại văn nhằm bàn bạc, thảo luận
với người khác về thực tại đời sống xã hội bao gồm những vấn đề về văn hóa,
triết học, đạo đức, lịch sử, chính trị, văn hóa nghệ thuật …. Nét nổi bật nhất

15


trong văn nghị luận là hệ thống lí lẽ và dẫn chứng đầy đủ, tiêu biểu để làm
sáng tỏ một vấn đề nào đó nhằm khêu gợi, thuyết phục người đọc, người
nghe hiểu rõ vấn đề, tin vào tính minh xác của sự lập luận và tán thành với
quan điểm, tư tưởng của người viết để người đọc có thể vận dụng chúng vào
cuộc sống xã hội và cá nhân”. [5,4]
Nhìn chung mỗi cách hiểu có những đặc điểm khác nhau song đều thâu
tóm một cách chung nhất khái niệm về văn nghị luận: văn nghị luận là một
thể loại văn học đặc biệt (không dùng hư cấu tưởng tượng) thể hiện tư tưởng,
quan điểm, thái độ của người viết về các vấn đề của đời sống văn hóa nhân
sinh (chính trị, đạo đức, văn hóa, văn học…). Những điều đó được trình bày
bằng một hệ thống lí lẽ, dẫn chứng tiêu biểu với những lập luận chặt chẽ, tích
cực và một thứ ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn có màu sắc biểu cảm.
1.3.2. Đặc trưng của văn bản nghị luận
Văn bản nghị luận là một thể văn đặc biệt, khác các thể văn hư cấu (thơ,
truyện, kịch) ở chỗ: nếu trong thơ, tác giả dùng nhiều đến tưởng tượng và lấy
ngôn từ hàm xúc, tinh tế, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu để biểu

hiện cảm xúc của mình và bản chất của cuộc sống; trong truyện, kịch tác giả
lấy việc xây dựng thế giới hình tượng nhân vật làm trung tâm để miêu tả cuộc
sống, con người và biểu hiện tư tưởng, tình cảm của nhà văn thì trong văn bản
nghị luận tác giả không dùng hư cấu - một hoạt động cơ bản của tư duy hình
tượng - mà dựa vào tư duy logic, vận dụng lí lẽ, thực tế và ngôn từ trực tiếp
của mình để trình bày một thái độ, một quan điểm, một tư tưởng về một vấn
đề đạo đức, chính trị, xã hội nào đó nhằm thuyết phục người đọc, người nghe
đồng ý, đồng tình, đồng cảm với vấn đề và cách giải quyết vấn đề của tác giả.
1.3.2.1. Phát biểu một cách trực tiếp tư tưởng, quan điểm, thái độ, tình
cảm của người viết về một vấn đề của cuộc sống

16


Không giống như văn miêu tả, kể chuyện, văn nghị luận là nơi phản ánh
trực tiếp lập trường, tư tưởng, quan điểm, thái độ trước vấn đề đặt ra của cuộc
sống. Nếu ở văn hình tượng, hư cấu, tưởng tượng, thái độ quan điểm của
người viết thường được thể hiện một cách kín đáo thông qua hình tượng thẩm
mĩ thì ở văn bản nghị luận những điều đó lại được trình bày một cách trực
tiếp, tường minh để người đọc có thể dễ dàng nhận ra.
Đọc áng “thiên cổ hùng văn” Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn) người đọc
không thể không nhận ra lòng yêu nước nồng nàn của tác giả: “Ta thường tới
bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm
tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này
phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”.
Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) chính là áng văn yêu nước lớn của thời
đại, là bản tuyên ngôn về chủ quyền, độc lập dân tộc, bản cáo trạng kẻ thù,
bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ngay mở đầu bài cáo, để thu
phục nhân tâm, Nguyễn Trãi đã khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lí
độc lập của dân tộc Đại Việt (nhân nghĩa gắn liền với yêu nước chống ngoại

xâm):
“…Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo…”
Với bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố trước
quốc dân đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến
ở nước ta:
“Vì những lẽ trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành
một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

17


Hay như, trong văn bản Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn
nghệ của dân tộc bằng cách nhìn, cách nghĩ sâu rộng, mới mẻ và nhệt tình của
một người gắn bó hết mình với đất nước, với nhân dân, Phạm Văn Đồng đã
làm sáng tỏ mối quan hệ khăng khít giữa thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu với
hoàn cảnh của tổ quốc lúc bấy giờ và với thời điểm hiện nay. Đồng thời, tác
giả hết lòng ca ngợi Nguyễn Đình Chiểu, một người trọn đời dùng cây bút
làm vũ khí chiến đấu cho dân, cho nước, một ngôi sao sáng trong nền văn
nghệ của dân tộc Việt Nam.
Như vậy, ở nước ta văn bản nghị luận là một thể loại văn học giàu truyền
thống. Phạm vi đề tài của nó phong phú, đa dạng: từ đề tài về chiến tranh, hòa
bình, chủ quyền độc lập của quốc gia đến việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy
truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc; từ vai trò, vị trí, ý nghĩa đến đặc trưng
nghệ thuật của văn chương… Dù nghị bàn về vấn đề gì thì trong văn bản nghị
luận quan điểm, tư tưởng, thái độ của tác giả cũng được bày tỏ một cách trực
tiếp.

1.3.2.2. Thuyết phục người đọc bằng hệ thống luận điểm, luận cứ xác
đáng, tin cậy và bằng cách lập luận chặt chẽ, hùng hồn
Nếu như trong văn bản tự sự và kịch, nhân vật, cốt truyện, xung đột… là
những yếu tố cơ bản - xương sống - của tác phẩm thì trong văn bản nghị luận
luận điểm, luận cứ, luận chứng, lập luận là những yếu tố cơ bản làm nên tác
phẩm.
 Luận điểm của bài văn nghị luận
Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm, chủ trương, đánh giá
của tác giả đối với một vấn đề cần thuyết phục và làm sáng tỏ. Luận điểm
chính là linh hồn của bài văn nghị luận, nó thống nhất các phần, các đoạn văn
thành một khối. Giá trị của luận điểm thể hiện ở tính đúng đắn, chân thật, phù
hợp với thực tế. Chỉ khi đó, luận điểm mới có sức thuyết phục người đọc.

18


Luận điểm của bài văn nghị luận được thể hiện dưới hình thức những câu văn
ngắn gọn, với những phán đoán có tính chất khẳng định hoặc phủ định. Chẳng
hạn như:
- Thời gian là vàng.
- Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác.
- Hiền tài là nguyên khí của quốc gia.
- Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.
- Nước Việt Nam là một nước tự do và độc lập.
Trong một văn bản nghị luận, luận điểm là một hệ thống: có luận điểm
chính và luận điểm phụ. Luận điểm chính thường làm kết luận của văn bản,
nó là cái đích mà nghệ thuật lập luận phải dẫn dắt người đọc đạt tới. Các luận
điểm phụ dùng làm luận điểm xuất phát hay luận điểm mở rộng trong quá
trình lập luận. Việc xác định được hệ thống, các cấp độ của luận điểm trong
văn bản là yêu cầu cần thiết xác định khả năng hiểu sâu, khả năng thâu tóm

vấn đề và kĩ năng tư duy logic, mạch lạc của người đọc.
Từ những điều nói trên có thể khẳng định luận điểm là điểm tựa lớn nhất
của toàn bộ bài viết. Nó giống như chiếc đinh để người ta treo móc toàn bộ
chiếc áo là bài văn nghị luận trên đó. Vì vậy, một bài văn nghị luận không có
luận điểm giống như một cơ thể sống không có linh hồn vậy. Nhưng bài văn
nghị luận có luận điểm chưa phải là yếu tố quyết định bài văn đó hay mà quan
trọng hơn là luận điểm bài văn ấy có độc đáo, sâu sắc, mới mẻ hay không?
Nếu chỉ dừng lại ở chỗ có luận điểm mà luận điểm đó đã cũ, là những cái hiển
nhiên, ai cũng biết thì bài văn đó rất dễ rơi vào nhàm chán, đơn điệu. Từ đó
đặt ra yêu cầu luận điểm trong bài văn nghị luận phải là ý hay. Ý hay là ý
đúng, ý mới, ý riêng, tập trung, nổi bật, có cơ sở đạo lí và khoa học vững chắc
thuyết phục được người đọc, người nghe. Ví dụ, trong văn bản Nguyễn Đình
Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc, Phạm Văn Đồng đã đưa ra

19


một luận điểm hiển nhiên nhưng bất ngờ, mới mẻ đối với việc nhìn nhận và
đánh giá sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu: “Trên trời có những vì
sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú
nhìn mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của Nguyễn Đình
Chiểu cũng vậy”.
Để khẳng định hay phủ định các luận điểm, người ta dùng các luận cứ.
“Luận cứ là lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Luận cứ phải
chân thật, đúng đắn, tiêu biểu thì mới khiến cho luận điểm có sức thuyết
phục” 11,19. “Lí lẽ được hiểu là những đạo lí, lẽ phải đã được thừa nhận,
nêu ra là được đồng tình. Dẫn chứng là sự việc, số liệu, bằng chứng để xác
nhận cho luận điểm. Dẫn chứng phải xác thực, đáng tin cậy, không thể bác
bỏ” [12,28]. Ví dụ trong bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta, để làm sáng
tỏ luận điểm mở rộng thứ nhất (Lịch sử đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại

chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta), Bác Hồ đã dùng hai luận cứ:
luận cứ thứ nhất là các dẫn chứng về các trang sử kháng chiến chống ngoại
xâm của tổ tiên ta (như “Những trang sử vẻ vang Bà Trưng, Bà Triệu, Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi…”); luận cứ thứ hai là lí lẽ phân tích, khẳng định cần ghi
nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc. Để làm sáng tỏ luận điểm mở rộng
thứ hai (Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước),
Bác Hồ đã sử dụng tới mười luận cứ, trong đó chín luận cứ là các dẫn chứng
về các gương tích cực tham gia kháng chiến của mọi tầng lớp nhân dân, mọi
lứa tuổi, luận cứ cuối cùng là lí lẽ khái quát đặc điểm chung của chín luận cứ
trên.
Như vậy, nếu luận điểm là ý kiến mà người viết tin là đúng đắn nhưng
người đọc có thể chưa tỏ tường thì luận cứ lại là những lẽ phải và sự thật hiển
nhiên mà người viết và người đọc đều thừa nhận. Nếu luận điểm là điều cần

20


chứng minh thì luận cứ là cái dùng để chứng minh. Luận điểm quyết đinh
việc chọn luận cứ còn luận cứ phải phục vụ cho luận điểm.
 Lập luận của bài văn nghị luận
Khi xem xét tính hệ thống của các luận điểm và luận cứ, chúng ta cần
chú ý đến vai trò của từng luận điểm, mối quan hệ của chúng và cách sắp xếp
chúng trong hệ thống. Cách tổ chức lí lẽ, dẫn chứng để làm sáng tỏ luận điểm
chính là lập luận của bài văn nghị luận.
“Lập luận là cách nêu luận điểm và vận dụng lí lẽ, dẫn chứng sao cho
luận điểm được nổi bật và có sức thuyết phục […] Lập luận bao gồm các
cách suy lí, quy nạp, diễn dịch, phân tích, chứng minh, so sánh, tổng hợp sao
cho luận điểm đưa ra là hợp lí, không thể bác bỏ […], lập luận có ở khắp
trong bài văn nghị luận” [12,28]. Như vậy, nếu luận điểm là nội dung thì lập
luận là hình thức thể hiện nội dung; luận điểm là “lời nói” thì lập luận là cách

thể hiện lời nói.
Từ trước đến nay, những bài văn nghị luận nổi tiếng đều là những bài
văn hàm chứa trong đó những cách lập luận sắc sảo, mẫu mực. Tính logic,
chặt chẽ với những lí lẽ rõ ràng, những chứng cớ hiển hiện buộc người nghe
không thể không công nhận là đặc điểm của những văn bản nghị luận này.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một văn bản nghị luận có logic lập
luận chặt chẽ và có tính thuyết phục. Bài cáo chia làm bốn phần rõ rệt, mỗi
phần đều có trọng tâm, tất cả đều hướng tới tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt là
tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với yêu nước, độc lập dân tộc. Phần mở đầu:
Tác giả đã khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lí độc lập dân tộc của Đại
Việt; tiếp đó tác giả đã viết lên một bản cáo trạng đanh thép của giặc Minh; kể
lại diễn biến của cuộc chiến đấu từ mở đầu đến thắng lợi hoàn toàn, nêu cao
sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa và sức mạnh của lòng yêu nước kết tinh

21


thành sức mạnh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; và cuối cùng là lời tuyên bố
kháng chiến thắng lợi, rút ra bài học lịch sử.
Lập luận của bài cáo hết sức chặt chẽ, ngay trong từng phần cũng rất
logic, hợp lí làm tăng sức thuyết phục cho bài cáo. Ở phần hai, khi tố cáo tội
ác của giặc Minh, Nguyễn Trãi đã viết với một trình tự logic: Đầu tiên, tác giả
chỉ rõ âm mưu cướp nước ta của giặc Minh, vạch trần luận điệu bịp bợp “phù
Trần diệt Hồ” của chúng:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Tiếp đó, tác giả đi sâu tố cáo chủ trương cai trị thâm độc, tố cáo mạnh
mẽ những hành động tội ác của giặc Minh: hủy hoại cuộc sống của con người

bằng những hành động dã man diệt chủng, tàn sát người vô tội: “nướng dân
đen”, “vùi con đỏ”, bằng sự hủy hoại môi trường sống “Nặng thuế khóa sạch
không đầm núi”, “Tàn hại cả giống côn trùng cỏ cây”… Những hình ảnh có
sức ám ảnh lớn, hình ảnh đối lập tình cảnh cùng cực của người dân vô tội với
kẻ thù xâm lược được tác giả sử dụng triệt để. Tất cả đã khắc họa đậm nét bộ
mặt quỷ sứ, khát máu người của bè lũ xâm lược.
Để diễn tả tội ác chất chồng của quân giặc, khối căm hờn chất chứa của
nhân dân ta, Nguyễn Trãi đã kết thúc bản cáo trạng bằng câu văn đầy hình
tượng:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Nhơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Tội ác của giặc là vô hạn, sự nhơ bẩn của chúng là vô cùng, đến nỗi:
“Lẽ nào trời đất rung tha
Ai bảo thần dân chịu được”.

22


Có thể thấy, Bình Ngô đại cáo chính là một văn bản chính luận mẫu mực
về nghệ thuật lập luận.
Trong nghệ thuật lập luận, để tăng tính thuyết phục, người viết thường
giả định là người đọc không đồng ý với mình để từ đó lập luận phản bác huy
động mọi lí lẽ dẫn chứng hòng đánh đổ luân lí của đối phương buộc hắn phải
tâm phục khẩu phục. Chính vì thế, lập luận trong bài văn nghị luận thường có
màu sắc đối thoại, tranh luận. Chẳng hạn, để ca ngợi “Nguyễn Trãi là người
anh hùng dân tộc”, Phạm Văn Đồng viết:
“Nguyễn Mộng Tuân, một người bạn của Nguyễn Trãi, đã ca ngợi
Nguyễn Trãi như sau: “Gió thanh hây hẩy gác vàng, người như một ông tiên ở
trong tòa ngọc, cái tài làm hay làm đẹp cho nước, từ xưa chưa có bao giờ…”.
Nguyễn Trãi không phải là một ông tiên. Nguyễn Trãi là người chân đạp đất

Việt Nam, đầu đội trời Việt Nam, tâm hồn lộng gió của thời đại lúc bấy giờ,
thông cảm sâu xa với nỗi lòng dân lúc bấy giờ, suốt đời tận tụy cho một lí
tưởng cao quý. Nguyễn Trãi là khí phách của dân tộc, là tinh hoa của dân tộc.
Sự nghiệp và sáng tác của Nguyễn Trãi là một bài ca yêu nước và tự hào dân
tộc. Nguyễn Trãi rất xứng đáng với lòng khâm phục và quý trọng của chúng
ta. Ca ngợi người anh hùng dân tộc, chúng ta rửa mối “hận nghìn năm” của
Nguyễn Trãi”.
(Phạm Văn Đồng, Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc)
Tóm lại, cùng với luận điểm, lập luận là yếu tố giường cột dựng lên ngôi
nhà nghị luận, thiếu các chi tiết này bài nghị luận sẽ không thể đứng vững
được.
 Ngôn ngữ và giọng điệu của bài văn nghị luận
Để tăng tính thuyết phục, lôi cuốn của bài văn nghị luận, người viết
không chỉ sử dụng hệ thống lí lẽ và lập luận chặt chẽ, hùng hồn mà còn phụ
thuộc nhiều vào yếu tố ngôn ngữ và giọng điệu của bài văn nghị luận.

23


Mục tiêu thứ nhất của bài văn nghị luận là nhằm thuyết phục người nghe,
người đọc tin và ủng hộ, hưởng ứng và hành động theo lời kêu gọi của tác giả.
Để thuyết phục người đọc, người viết phải viết lên sự thật, bởi bản thân sự
thật có sức thuyết phục mạnh hơn tất cả. Do đó, trước hết ngôn từ trong văn
bản nghị luận phải chính xác, chính xác với bản chất của đối tượng và chính
xác trong thái độ đối với đối tượng đó. Chính xác đến từng cung bậc và sắc
thái.
Do đặc điểm và tính chất của nó, văn nghị luận ít dùng loại câu mô tả,
trần thuật kể lể sự việc mà dùng loại câu khẳng định hoặc phủ định với nội
dung hầu hết là các phán đoán, nhận xét, đánh giá chắc chắn, sâu sắc. Do nhu
cầu lập luận, văn nghị luận thường phải dùng đến hệ thống từ lập luận, ví dụ

như: thật vậy, thế mà, cho nên, vì thế, tuy nhiên, vả lại, mà còn, có nghĩa là,
giả sử… Đó là các từ có vai trò liên kết các ý, các vế, các đoạn trong văn nghị
luận để tạo nên tính chặt chẽ trong lập luận. Chẳng hạn: trong Xin lập khoa
luật (Nguyễn Trường Tộ) để tạo nên những quan hệ logic rất chặt chẽ giữa
các vế, các câu, các đoạn, tác giả đã sử dụng hàng loạt từ lập luận:
“…Từ xưa đến nay các vua nắm quyền thống trị cứu nước giúp đời đều
nhờ hiểu luật, còn các sách vở khác cũng chỉ là phụ thuộc. Nếu trong nước
không có luật, thì dù có vạn quyển sách cũng không thể trị được dân. Điều
này quá rõ. Bởi vì sách vở có chép nào là sự tích chính sự thời xưa của cổ
nhân, nào là những bài luận hay ho của người xưa để lại, nào những áng văn
chương trau chuốt của chư tử, nào những tiểu thuyết dã sử của những người
hiểu sự đặt bày. Trong đó, hay có, dở có, kẻ nói này, người nói khác, xét kĩ
những thứ sách vở đó chỉ làm rối trí thêm chẳng được tích sự gì. Cho nên
Khổng Tử nói: “Chép những lời nói suông chẳng bằng thân hành ra làm
việc”. Thử xem có những nhà nho suốt đời đọc sách, đáng lẽ cử chỉ của họ

24


phải làm khuôn phép cho đời, vậy mà tại sao có nhiều người, cuộc đời của họ
và ứng sử của họ còn tệ hơn những người quê mùa chất phác?”…
Văn nghị luận chủ yếu sử dụng tư duy logic nhưng không gạt bỏ ngôn
ngữ gợi cảm. Vì ngôn ngữ gợi cảm giàu sắc thái biểu cảm, biểu hiện nhiệt
tình, thái độ của tác giả trước vấn đề nghị luận. Những yếu tố trữ tình đó tác
động mạnh mẽ vào tình cảm người đọc, người nghe, có tác dụng chinh phục
tâm hồn con người. Tình hỗ trợ thêm cho lí, lí tiếp thêm sức mạnh cho tình,
do đó sức thuyết phục tăng lên gấp bội. Trong Chiếu cầu hiền, thái độ cầu
hiền của vua Quang Trung được bộc lộ rõ qua ngôn ngữ của đoạn văn: “Nay
trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học
rộng, tài cao chưa thấy có ai tìm đến. Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá

chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự vương hầu chăng?”.
Để thể hiện thái độ của tác giả trước vấn đề nghị luận cũng như tăng tính
thuyết phục của vấn đề, văn bản nghị luận phải có giọng điệu riêng. Giọng
điệu trong văn nghị luận nhất là nghị luận chính trị - xã hội thường là giọng
hùng biện, sục sôi, mạnh mẽ, hừng hực khí thế, như sóng cuộn trào. Chẳng
hạn, giọng điệu của Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn) là hùng hồn, thống thiết;
của Về luân lí xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh) là khúc triết, hùng hồn, tự
tin; còn với Tuyên ngôn Độc lập thì đây là tác phẩm có giọng điệu đa thanh:
phần mở đầu khúc triết, âm vang, trang trọng; phần nội dung chính: giọng
hùng hồn, đanh thép khi nói về tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta,
giọng tự hào khi nói về quá trình nổi dậy giành chính quyền của nhân dân; lời
tuyên ngôn và tuyên bố cuối cùng có giọng trang trọng, hùng biện.
Tóm lại, văn bản nghị luận có những đặc điểm chủ yếu sau: Phát biểu
một cách trực tiếp tư tưởng, quan điểm, thái độ, tình cảm của người viết về
một vấn đề của đời sống; thuyết phục người đọc bằng hệ thống luận điểm,
luận cứ xác đáng, tin cậy và bằng cách lập luận hùng hồn; ngôn ngữ chính

25


×