Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
*************
VŨ THANH THỦY
LỄ HỘI TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM
VÀ LỄ HỘI ĐỀN THƯỢNG Ở THÀNH
PHỐ LÀO CAI - TỈNH LÀO CAI
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học
HÀ NỘI - 2010
Vũ Thanh Thuỷ
1
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
*************
VŨ THANH THỦY
LỄ HỘI TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM
VÀ LỄ HỘI ĐỀN THƯỢNG Ở THÀNH
PHỐ LÀO CAI - TỈNH LÀO CAI
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học
Người hướng dẫn khoa học
Th S. VŨ VĂN KÝ
HÀ NỘI – 2010
Vũ Thanh Thuỷ
2
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khoá luận, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi
đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam,
khoa Ngữ văn. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô, đặc biệt là
thầy giáo ThS. Vũ Văn Ký - người hướng dẫn trực tiếp đã tận tình giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện và hoàn thiện khoá luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2010
Tác giả khóa luận
Vũ Thanh Thủy
Vũ Thanh Thuỷ
3
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi đã trình bày trong khoá luận
này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. Vũ
Văn Ký.
Những nội dung này không trùng lặp với kết quả nghiên cứu của các
tác giả khác
Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của cá nhân mình trong
khoá luận này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2010
Tác giả khoá luận
Vũ Thanh Thủy
Vũ Thanh Thuỷ
4
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
Kí hiệu
1
TLTK
2
ThS
Thạc Sĩ
3
NXB
Nhà xuất bản
4
QĐ
Quyết định
5
NĐ
Nghị định
6
QC
Quy chế
7
CP
Chính Phủ
8
BVHTT
Vũ Thanh Thuỷ
Giải nghĩa
Tài liệu tham khảo
Bộ văn hoá thông tin
5
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 4
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 4
6. Đóng góp của khoá luận ....................................................................... 4
7. Bố cục của khoá luận............................................................................ 4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỄ HỘI..... 5
1.1. Khái niệm lễ hội ............................................................................... 5
1.2. Nội dung chính của lễ hội ................................................................ 7
1.3. Đặc trưng của lễ hội ........................................................................ 10
1.3.1. Lễ hội - Nhu cầu thiết yếu trong đời sống của người dân Việt .. 10
1.3.2. Lễ hội mang hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng và tạo nên
tính cộng đồng.......................................................................................... 12
1.3.3. Lễ hội là hình ảnh thu hẹp của văn hóa dân gian ...................... 13
1.4. Một số chính sách của Đảng và Nhà nước với việc tổ chức và quản
lý lễ hội .................................................................................................... 14
CHƯƠNG 2: LỄ HỘI ĐỀN THƯỢNG- THÀNH PHỐ LÀO CAI .... 17
2.1. Khái quát chung về thành phố Lào Cai ......................................... 17
2.2. Lễ hội Đền Thượng- Thành phố Lào Cai ...................................... 20
2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển Đền Thượng ......................... 20
2.2.2. Cấu trúc khu di tích Đền Thượng ............................................. 21
2.2.3. Lai lịch nhân vật được thờ ...................................................... 24
2.2.4. Diễn trình lễ hội ...................................................................... 26
Vũ Thanh Thuỷ
6
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
2.2.4.1. Công tác chuẩn bị ....................................................... 27
2.2.4.2. Phần lễ ........................................................................ 28
2.2.4.3. Phần hội ..................................................................... 31
2.3. Các giá trị của lễ hội Đền Thượng ................................................. 36
2.3.1. Thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng và văn hóa của nhân dân ......... 36
2.3.2. Giá trị giáo dục truyền thống .................................................. 37
2.3.3. Giá trị cố kết cộng đồng ........................................................... 38
2.3.4. Giá trị kinh tế xã hội ............................................................... 41
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG LỄ HỘI ĐỀN THƯỢNG HIỆN NAY
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LỄ HỘI ĐỀN THƯỢNG .. 44
3.1. Thực trạng công tác tổ chức, quản lý lễ hội Đền Thượng ............. 44
3.1.1. Điểm mạnh ............................................................................. 44
3.1.2. Điểm yếu ................................................................................. 47
3.2. Những giải pháp phát triển lễ hội Đền Thượng ............................ 50
3.2.1. Xây dựng kịch bản và chương trình lễ hội phong phú, đa dạng 51
3.2.2. Bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý lễ hội ......................... 51
3.2.3. Xây dựng cơ sở vật chất, mở rộng không gian lễ hội .............. 52
3.2.4. Giải pháp thu hút nguồn tài chính ........................................... 53
3.2.5. Bài trừ hủ tục và các tệ nạn xã hội ........................................... 53
3.2.6. Tăng cường công tác tuyên truyền vận động ............................ 54
KẾT LUẬN ............................................................................................. 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 57
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vũ Thanh Thuỷ
7
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử của quá trình dựng nước và giữ
nước hàng nghìn năm, lịch sử của các cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại và
những chiến công hào hùng oanh liệt, đồng thời cũng là lịch sử hàng ngàn
năm văn hiến. Quá trình lịch sử lâu dài ấy của dân tộc đã để lại cho chúng ta
ngày nay một kho tàng văn hoá dân gian phong phú và đa dạng. Trong kho
tàng ấy, lễ hội là nơi thể hiện rõ nhất những giá trị văn hoá của dân tộc. Các
hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian được giữ gìn, bảo lưu và phát triển với
rất nhiều phong tục tập quán, những trò chơi dân gian thể hiện bản sắc văn
hoá của người Việt. Đến với Việt Nam ở bất kỳ vùng miền nào của Tổ quốc
cũng đều thấy sự xuất hiện và tồn tại của các lễ hội cổ truyền, từ những hội
làng của vùng đồng bằng Bắc Bộ đến những lễ hội của vùng văn hoá dân tộc
thiểu số: lễ hội xuống đồng, lễ hội cầu mùa, lễ hội mừng năm mới.
Từ xa xưa, lễ hội đã trở thành một sinh hoạt văn hoá quen thuộc đối với
nhiều người Việt Nam và cho đến nay, lễ hội cổ truyền vẫn tồn tại như nó
vốn có. Lễ hội luôn là sinh hoạt văn hóa thiêng liêng, luôn là một nhu cầu của
mỗi người dân, vì vậy nó có sức sống mạnh mẽ qua hàng ngàn năm lịch sử.
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hoá cộng đồng tất yếu nảy sinh đáp ứng
nhu cầu giao lưu, hưởng thụ văn hoá cũng như đáp ứng nhu cầu của đời sống
tâm linh.
Ngày nay cùng với sự biến đổi mạnh mẽ của đời sống kinh tế xã hội
theo hướng ngày càng hiện đại, các lễ hội dân gian vì thế cũng biến đổi theo.
Bên cạnh những tác động và biến đổi tích cực thì cũng có những tác động tiêu
cực làm cho giá trị truyền thống của lễ hội phần nào bị ảnh hưởng. Vì vậy để
lễ hội vừa tổ chức đáp ứng nhu cầu tâm linh vừa giữ được những giá trị văn
hoá vốn có trở thành một yêu cầu cấp thiết.
Thành phố Lào Cai được xem là vùng đất đặc sắc về văn hoá với nhiều
lễ hội đặc sắc, trong đó lễ hội Đền Thượng là lễ hội hàng năm được tổ chức
với quy mô lớn, là điểm đến của khách hành hương từ mọi nơi về trảy hội. Lễ
Vũ Thanh Thuỷ
8
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
hội mang nhiều nét văn hoá độc đáo, đặc trưng của một tỉnh miền quê của Tổ
quốc. Vì thế, chúng ta phải bảo tồn, phát triển lễ hội ngày càng tốt hơn, xứng
đáng với tầm vóc vốn có.
Là một sinh viên ngành Việt Nam học, đi sâu nghiên cứu về lĩnh vực
văn hoá, tôi rất mong muốn tìm hiểu những cái hay, cái đẹp của lễ hội. Vì vậy
tôi chọn đề tài: “Lễ hội trong văn hoá Việt Nam và lễ hội Đền Thượng ở thành
phố Lào Cai - tỉnh Lào Cai” để làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề
Lễ hội giữ một vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của
nhân dân. Hiện nay, nghiên cứu về lễ hội nói chung và lễ hội Đền Thượng nói
riêng có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
Tác giả Nguyễn Trọng Báu trong cuốn “Truyện kể về phong tục các
dân tộc Việt Nam”, NXB Giáo Dục, 2007, đề cập tới vấn đề nội dung chính
của lễ hội. Tác giả viết:“Biểu hiện mặt tâm linh của con người, một cách thể
hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phần này trong cấu trúc lễ
hội gọi là phần lễ. Lễ hội còn là sinh hoạt văn hoá dân gian của cộng đồng
làng xã, hay lớn hơn là liên làng, liên xã, tổng và cộng đồng của toàn vùng,
của cả nước. Phần sinh hoạt này trong cấu trúc lễ hội gọi là phần hội” [1,
tr.158].
Tác giả Lê Trung Vũ trong cuốn “Lễ hội cổ truyền’’, NXB Khoa học
xã hội, 1992, đã đưa ra những trang viết về thời gian ra đời của lễ hội. Tác giả
viết: “Mặc dù bị đô hộ, người Việt giữ lại và phát triển các thần thoại, truyền
thuyết, lịch sử có ý nghĩa củng cố bản lĩnh dân tộc” [17, tr.50-51].
Trong cuốn sách “Lễ hội cổ truyền Lào Cai”, NXB Văn hoá dân tộc
1999, tác giả Trần Hữu Sơn nghiên cứu loại hình lễ hội ở Lào Cai với 3 loại
hình chính: lễ hội dân gian truyền thống, lễ hội đương đại kết hợp với truyền
thống và lễ hội tôn giáo. Tác giả cũng giới thiệu đến bạn đọc về những lễ hội
tiêu biểu được tổ chức trên toàn tỉnh Lào Cai: Lễ hội Gàu Tào của đồng bào
Vũ Thanh Thuỷ
9
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
Mông ở Pha Long, Mường Khương, lễ hội Roóng Poọc của người Giáy ở Tả
Van ( Sapa), lễ hội xuống đồng của người Tày Phú Nhuận,...Đồng thời tác giả
cũng đưa ra những trang viết về lễ hội Đền Thượng để khẳng định quy mô,
tính chất của lễ hội này.
Ban quản lý di tích thuộc Sở văn hoá - Thể thao - Du lịch Lào Cai cũng
thành lập “Hồ sơ di tích Đền Thượng - Thành phố Lào Cai”. Trong cuốn hồ
sơ, các tác giả tập trung nghiên cứu về vị trí di tích, lịch sử và niên đại xây
dựng di tích, sự kiện thần và các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian diễn ra
tại di tích, trong đó sinh hoạt lễ hội chứa đựng nhiều yếu tố hết sức đặc sắc.
Tác giả viết: “Lễ hội Đền Thượng trở thành một sân chơi văn hoá lớn thoả
mãn nhu cầu hưởng thụ các giá trị văn hóa của nhân dân. Đến với lễ hội Đền
Thượng mỗi người dự hội như được đắm chìm trong vô vàn những sinh hoạt
văn hoá dân gian, nó đủ sức làm hài lòng cả đối với những người khó tính
nhất” [16, tr.57].
Ngoài ra, vấn đề lễ hội Đền Thượng còn được đề cập đến trong các
công trình nghiên cứu của tác giả Ngô Đức Thịnh với cuốn “Những giá trị
văn hoá của lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội hiện đại”, Tạp chí văn hoá
nghệ thuật (3), 2002.
Kết quả nghiên cứu của những người đi trước là cơ sở để tác giả khoá
luận tiếp tục thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, việc nghiên
cứu một cách toàn diện, sâu sắc về khu di tích Đền Thượng, lễ hội Đền
Thượng và đề ra được những giải pháp cụ thể phát triển lễ hội Đền Thượng ở
thành phố Lào Cai thì chưa được thực hiện nghiên cứu. Do vậy đề tài khoá
luận của tôi đã góp phần giải quyết những vấn đề đó.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận của lễ hội truyền thống nói chung.
Vũ Thanh Thuỷ
10
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
Trên cơ sở tìm hiểu về khu di tích Đền Thượng, lễ hội Đền Thượng các
giá trị do lễ hội mang lại, cùng với việc tìm hiểu công tác tổ chức lễ hội, thấy
được nét đặc sắc của lễ hội Đền Thượng.
Từ thực trạng lễ hội đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm phát triển lễ hội
đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Lễ hội Đền Thượng
* Phạm vi nghiên cứu: Do khuôn khổ hạn chế, đề tài chỉ tập trung nghiên
cứu di tích Đền Thượng, lễ hội Đền Thượng, các giá trị của lễ hội Đền
Thượng trên điạ bàn phường Lào Cai, thuộc thành phố Lào Cai.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp khảo sát thống kê.
Phương pháp duy vật lịch sử.
Phương pháp điền dã.
6. Đóng góp của khoá luận
Đề tài góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết văn hoá lễ hội đặc sắc
của tỉnh Lào Cai nói riêng và của cả nước nói chung.
Đề xuất giải pháp phát triển lễ hội Đền Thượng. Từ đó quảng bá hình
ảnh lễ hội Đền Thượng tới bạn bè trong nước và quốc tế.
7. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khoá luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về lễ hội.
Chương 2: Lễ hội Đền Thượng - Thành phố Lào Cai.
Chương 3: Thực trạng lễ hội Đền Thượng hiện nay và những giải pháp
phát triển lễ hội Đền Thượng.
Vũ Thanh Thuỷ
11
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỄ HỘI
1.1. Khái niệm lễ hội
Đối với phần lớn các tộc người trên thế giới, đặc biệt là cư dân nông
nghiệp, lễ hội giữ một vai trò quan trọng. Lễ hội chứa đựng nhiều mặt của đời
sống văn hoá, chính trị, xã hội, tâm lý, tôn giáo và tín ngưỡng của người dân
lúa nước. Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hoá tập thể, phản ánh các sinh hoạt
của người dân lao động. Ở Việt Nam lễ hội gắn bó với làng xã như một phần
tất yếu của cuộc sống. Nền văn hoá của nước ta đã trải qua nhiều thời kỳ
thăng trầm của lịch sử và bị ảnh hưởng không ít của văn hoá phương Đông
với hàng ngàn năm Bắc thuộc và chế độ thực dân phương Tây, song vẫn
mang đậm phong thái của nền văn hoá lúa nước. Bởi lẽ nói đến văn hoá dân
gian, chúng ta nói tới phong tục, các lễ hội cổ truyền hết sức đa dạng và
phong phú. ở mỗi dân tộc, lễ hội có kiểu tồn tại và biểu hiện bản sắc văn hóa
riêng.
Từ bao đời nay trong đời sống tinh thần và tâm linh người Việt, lễ hội
là nơi thể hiện truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” sâu sắc. Dù ở phương
trời nào, người Việt Nam luôn hướng tới điểm tựa văn hoá tinh thần, nhớ tới
ngày hội của quê hương mình, hướng về vùng đất cội nguồn yêu thương. Các
lễ hội cổ truyền có lịch sử phát triển lâu đời, có những lễ hội có nguồn gốc từ
xa xưa, từ buổi bình minh của lịch sử dân tộc, đáng chú ý là lễ hội về những
danh nhân lịch sử, các anh hùng có công dựng nước và giữ nước từ thời khai
sơn lập địa của các vua Hùng. Từ lịch sử hình thành, mục đích, nghi thức lễ,
không gian, thời gian lễ hội cho đến những nhu cầu tâm linh đều được thể
hiện rõ nét trong lễ hội.
Khái niệm lễ hội ở Việt Nam xuất hiện khoảng chục năm trở lại đây.
Trước đó chỉ có khái niệm “lễ” hoặc “hội” thêm chữ lễ cho hội thời nay muốn
Vũ Thanh Thuỷ
12
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
gắn hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng này với ít nhất hai yếu tố, cũng là
hai đặc trưng đi liền với nhau: trước là tế lễ, sau là vui chơi.
Theo “Từ điển Tiếng Việt”, “lễ” là những nghi thức tiến hành nhằm
đánh dấu hay kỷ niệm một sự kiện, sự việc có ý nghĩa nào đó. Theo “Từ điển
văn hoá cổ truyền Việt Nam”, “lễ” khái niệm đạo đức Khổng học có ý nghĩa
là hình thức cúng tế, cầu thần ban phúc, nghĩa rộng là chỉ những quy tắc của
cuộc sống chung trong cộng đồng xã hội. Lễ ở Việt Nam chủ yếu tập trung
trong các nghi thức liên quan đến cầu mùa, người an, vật thịnh. Có thể nói, lễ
là phần đạo, tâm linh của cộng đồng, nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và
đảm bảo cho nề nếp xã hội được hoàn thiện hơn.
Hội là phần sinh hoạt văn hoá dân gian của cộng đồng làng xã, hay lớn
hơn là liên làng, xã, tổng và cộng đồng của toàn vùng, của cả nước.
Hội là các hoạt động, các trò diễn có tính nghi lễ, có nhiệm vụ bổ sung,
hoàn chỉnh ý nghĩa và nội dung cho ngày lễ. Phần hội tổ chức các trò thi đấu,
những hoạt động tượng trưng cho tâm lý cộng đồng, văn hoá dân tộc và quan
niệm của con người đối với lịch sử xã hội và thiên nhiên.
Từ xa xưa đến nay, lễ hội vẫn luôn đáp ứng được nhu cầu tư tưởng và
cảm xúc của cộng đồng, nhưng để có thể đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh
nhất về lễ hội thì cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề. Mỗi một nhà nghiên cứu
khi nhắc tới lễ hội đều đưa ra khái niệm riêng của mình.
Theo Cao Đức Hải: “Lễ hội là một tổ hợp của những hoạt động văn
hoá cộng đồng xoay xung quanh một trục ý nghĩa nào đó được diễn đạt bởi
hệ thống nghi thức giữ vai trò trung tâm”[4, tr.52].
Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hóa tổng hợp hết sức phong phú và đa
dạng, một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân sau thời gian lao động mệt
nhọc, hay là một dịp để mọi người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại của
đất nước hoặc liên quan đến những sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân hay chỉ
đơn thuần là các hoạt động có tính chất vui chơi giải trí[10, tr.84].
Vũ Thanh Thuỷ
13
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
1.2. Nội dung chính của lễ hội
Lễ hội nước ta phong phú và đa dạng. Theo thống kê của các nhà
nghiên cứu văn hoá dân gian, Việt Nam có gần 500 lễ hội lớn nhỏ trải rộng
khắp đất nước. Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng góp phần tạo
nên màu sắc văn hoá đặc sắc, tổng hoà của 54 dân tộc.
Lễ hội là cách gọi của dân gian và cũng là cách gọi của những nhà văn
hoá, dù hiểu và gọi theo cách nào thì thuật ngữ này cũng biểu hiện hai mặt nội
dung chính: phần lễ và phần hội.
*Phần lễ:
Trong mỗi lễ hội, phần lễ là những nghi thức bắt buộc, mang tính chất
trang nghiêm, trọng thể mở đầu ngày hội. Lễ bao gồm một hệ thống các hành
vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người đối với vị thần mà
mình thờ phụng. Nhân dân dâng lên vị thần sản phẩm mà mình làm ra với
lòng kính trọng và biết ơn về sự bảo trợ của thần cho dân làng.
Các nghi lễ của lễ biểu hiện mặt tâm linh của con người, đồng thời
cũng phản ánh những ước mơ tốt đẹp của cộng đồng, toát lên sự cầu mong
thần linh phù hộ độ trì giúp con người được yên ổn, thịnh vượng. Họ mong vị
thần giúp đỡ cho dân làng được khoẻ mạnh, mùa màng bội thu, cây trái tốt
tươi, vật nuôi không bị dịch bệnh.
*Phần hội:
Hội là một phần không thể thiếu trong lễ hội, đó là cuộc chơi tưng
bừng, hào hứng của mọi người trong cộng đồng với tâm thế thoát khỏi đời
thường và trạng thái phấn khởi trước cuộc sống thực ở thôn làng.
Hội tạo ra niềm cộng cảm bao trùm lên hết thảy mọi người, đồng thời
củng cố tính cố kết cộng đồng của toàn thể người dự hội, trong hội con người
hầu như gần gũi nhau hơn, sự phân biệt giàu nghèo, địa vị, giai cấp, lứa tuổi
dường như không tồn tại. Tất cả những người đến dự hội đều được tham gia
Vũ Thanh Thuỷ
14
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
vào các trò chơi mà họ muốn như: đánh đu, chọi gà, cờ tướng, bịt mắt bắt dê,
kéo co… tạo ra niềm tin vào cuộc sống tươi đẹp cho mỗi người đến dự hội.
Phần hội luôn có những động thái, hành vi hội tụ các hoạt động văn
nghệ dân gian đặc sắc nhất, riêng biệt nhất của làng mình, vùng mình. Hoạt
động văn nghệ này đáp ứng nhu cầu văn hoá của cộng đồng, nghĩa là nhân
dân của làng xã, của vùng miền đó là người sáng tác, biểu diễn, vừa là người
thưởng thức những giá trị nghệ thuật đó. Phần hội là phần nảy sinh từ phần lễ.
Từ xưa đến nay vẫn thế có lễ rồi mới có hội gọi là lễ hội. Thế nhưng cuộc
sống sinh động nơi thôn làng làm cho cái chính “lễ” ngày càng ngắn dần, cái
phụ “hội” ngày càng dài ra. Cho nên về sau, danh từ lễ hội dường như người
ta chỉ gọi bằng từ “hội” [1, tr.158 -160].
Khi nói tới lễ hội, người ta thường tách riêng hai yêu tố lễ và hội như
hai bộ phận hợp thành trong một lễ hội. Nhưng hai yếu tố này lại hòa quyện
với nhau, chúng không thể tách rời nhau, nếu thiếu một trong hai yếu tố thì sẽ
không trở thành một lễ hội hoàn chỉnh. Trong một lễ hội nếu phần lễ là phần
“đạo” mà ở đó con người thoát ly khỏi những bụi trần để đi vào cõi tâm linh,
con người trở nên thánh thiên hơn, nhân hậu hơn, trung thực hơn thì phần hội
lại là phần “đời”, là khát vọng của mỗi thành viên trong cộng đồng muốn
vươn tới những điều tốt đẹp, cao cả.
Hai yếu tố lễ và hội luôn tồn tại hai mặt song song cùng nhau, chúng có
mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau tạo ra sự thu
hút và phấn khích với mỗi người đến dự. Khi đến với lễ hội, con người được
đến với một không gian thiêng mà ở đó mỗi người tạm quên đi những cái tầm
thường để hướng tới những cái đẹp, cái thiện. Người dự hội cũng được tham
gia vào những trò chơi dân gian mang tính chất cộng đồng, để sau đó họ lại
trở về với cuộc sống thường ngày và bắt đầu một chu kỳ sản xuất mới.
Trong lễ hội, phần lễ bao giờ cũng có trước và có ý nghĩa thiêng liêng,
quan trọng, chứa đựng những giá trị văn hoá truyền thống, giá trị thẩm mỹ và
Vũ Thanh Thuỷ
15
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
giá trị triết học sâu sắc. Nó là “hạt nhân” của lễ hội và là phần hấp dẫn, lôi
cuốn chính yếu đối với du khách. Phần hội mặc dù cũng hàm chứa yếu tố văn
hoá truyền thống , nhưng phạm vi nội dung phần hội không khuôn cứng mà
rất linh hoạt, luôn được bổ sung những yếu tố văn hoá mới. Lễ hội nào về cấu
trúc cũng thực hiện lễ trước, hội sau. Sự khác nhau là ở các nghi thức lễ, hội,
các diễn xướng, các tích trò, thời gian mở hội. Những sự khác nhau về nội
dung của hội trước hết là vị thần linh nào mà cả làng hay cả vùng thờ phụng
thì chính vị thần linh được thờ đó sẽ quyết định cách thức hội diễn. Thần linh
là thiên thần sẽ khác thần linh là nhân thần, anh hùng dân tộc khác tổ sư dạy
nghề. Ngoài ra như đã nói, sự khác nhau của lễ hội còn thể hiện ở phong tục
tập quán và hoàn cảnh tự nhiên xã hội của làng, của vùng nơi tiến hành lễ hội.
Điều quan trọng nhất của lễ hội là trở về cội nguồn của cộng đồng, thể hiện
tình cảm gắn bó mọi người. Đó là những nét văn hoá đích thực về lễ hội của
người Việt.
Lễ hội diễn ra vào những khoảng thời gian khác nhau, song thường
diễn ra vào thời điểm thiêng liêng, của sự chuyển giao các mùa, đánh dấu sự
kết thúc của chu kỳ lao động cũ, chuẩn bị cho sự bắt đầu của chu kỳ lao động
mới. Ở nước ta phần lớn các lễ hội được tổ chức vào mùa xuân và mùa thu hai mùa đẹp nhất trong năm đồng thời cũng là lúc nhà nông nhàn rỗi, đó là
thời gian nhà nông xong công việc cày bừa, cấy hái. Hội hè, tế lễ, nghỉ ngơi,
giải trí, vui vầy…các quá trình đó cho tất cả mọi người không khí rộn rã. Cờ,
quạt, tiếng chiêng trống, múa hát và các cuộc thi tài đẩy đến cao trào thăng
hoa của cả cộng đồng làng xã: đi trẩy hội.
Có thể nói, Việt Nam đã sáng tạo lễ hội như “cuộc sống thứ hai” lễ hội
là một bảo tàng sống động, là nơi lưu giữ những giá trị văn hoá dân gian độc
đáo, là nơi phản ánh tâm thức của con người. Cái đẹp của cuộc sống được bộc
lộ trong sự hoà hợp giữa con người - con người, con người với tự nhiên, sự
Vũ Thanh Thuỷ
16
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
ngưỡng vọng đối với các lực lượng thần thánh siêu nhiên. Bởi vậy lễ hội
mang đậm tính nhân văn, là động lực sức sống của con người.
1.3. Đặc trưng của lễ hội
1.3.1. Lễ hội - nhu cầu thiết yếu trong đời sống sinh hoạt của người dân
Việt Nam xưa và nay
Như đã nói, lễ hội là bảo tàng sống về văn hóa và sinh hoạt của cộng
đồng, là nơi phản ánh đời sống tinh thần, phong tục tập quán của nhân dân ta
dưới nhiều hình thức. Sở dĩ lễ hội có thể tồn tại và phát triển cho đến ngày
nay chính vì nó là nhu cầu không thể thiếu trong tâm thức của mỗi người dân
Việt Nam và đến chừng nào lễ hội vẫn còn đáp ứng được nhiều nhu cầu của
người dân thì nó vẫn còn có lý do để tồn tại và phát triển. Phổ biến trong các
nghi lễ và phong tục dân tộc là lễ hội phồn thực, giao duyên, xuất phát từ
quan niệm điều hòa âm dương. Các lễ hội còn gắn với chu kỳ sản xuất, tái
hiện các sinh hoạt kinh tế tiền nông nghiệp và các hoạt động sản xuất nông
nghiệp. Các trò diễn tái hiện lại lịch sử của cộng đồng, qua đó phản ánh sinh
hoạt ngày thường của người dân lúa nước. Chủ thể đích thực trong lễ hội là
những người nông dân lúa nước, văn hoá dân gian là nơi gửi gắm những ước
muốn của họ và họ mở hội chính là việc lập lại sự cân bằng trong quan hệ
giữa người với người, với tự nhiên và thần linh.
Đạo lý truyền thống của người Việt Nam từ bao đời nay là “uống nước
nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, điều này đã trở thành tâm thức dân
gian của dân tộc. Quan niệm dân gian: “Lễ hội được tổ chức trước hết là sự
bày tỏ lòng biết ơn của nhân dân đối với các thần linh đã có công phù trợ, cứu
giúp họ trong cuộc sống. Cũng trong lễ hội, nhân dân, con cháu tưởng nhớ, tạ
ơn tổ tiên đã có công lao to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, nhân
đó hướng tới tổ tiên, cội nguồn giống nòi. Đó là lễ hội dân gian tưởng nhớ, kỷ
niệm các anh hùng, danh nhân văn hóa như: các vua Hùng, vua Thục, Thánh
Gióng.Từ các lịch sử về những người tiền bối làm ra lửa, nước, ngô, lúa, gạo,
Vũ Thanh Thuỷ
17
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
dạy dân cách làm ăn, cùng với sử thi anh hùng ca đã trở thành các sự tích,
thần tích của lễ hội dân gian truyền thống đang được bảo lưu, kế thừa và phát
huy. Đó là quá trình lịch sử hoá các nhân vật huyền thoại trong lễ hội dân gian
để phản ánh một hiện thực trong quá khứ”[7, tr.78].
Những anh hùng dân tộc như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bôn, Trần
Hưng Đạo…đã được dân gian huyền thoại hoá và trở thành thần tích của các
lễ hội dân gian suy tôn và tưởng niệm các nhân vật lịch sử . Từ những con
người hiện thực, nhờ công lao của họ mà trong tâm thức dân gian những con
người đó thực sự trở thành các vị thần linh được nhân dân muôn đời tưởng
niệm qua các lễ hội truyền thống. Về sau, do nhu cầu tâm linh, cùng với sự
phát triển giao lưu quốc tế, nhiều ngành nghề thủ công đã được ra đời ở các
làng xã đã có thêm dạng lễ hội mới là suy tôn và tưởng niệm các vị tổ sư
ngành nghề. Họ được dân gian huyền thoại hoá và suy tôn làm thần linh để
thờ cúng như các thần linh khác có sẵn trong tâm thức người Việt.
Từ xưa tới nay, lễ hội vẫn luôn đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của
nhân dân. Họ mở hội vừa thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” vừa
thể hiện quốc thái dân an. Thông qua lễ hội, con người dường như được giao
cảm với thế giới siêu nhân, đó là các vị tổ tiên, thần linh, thành hoàng.. do
nhân dân sáng tạo ra và cầu mong các vị bảo trợ, che chở cho vận mệnh của
mình. Chính nhờ có lễ hội mà các anh hùng sống mãi trong lòng con cháu bây
giờ và mai sau. Lễ hội chính là tấm gương phản chiếu văn hoá dân tộc. Sự
phản chiếu đó thông qua các nghi lễ, trò diễn thống nhất xung quanh một biểu
hiện là các vị thần thờ, lắng đọng trong lễ và hội là tín ngưỡng bản địa của
người dân được gửi gắm các nhân vật thờ. Các nghi lễ, lễ thức trong lễ hội
đều toát lên một niềm tin chung là cầu mong hạnh phúc và giải phóng con
người.
Vũ Thanh Thuỷ
18
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
1.3.2. Lễ hội mang hình thức sinh hoạt văn hoá cộng đồng tạo nên tính
cộng đồng
Lễ hội là cuộc vui lớn của cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí, tín
ngưỡng, thi thố tài năng, biểu dương sức mạnh, tái hiện cuộc sống của con
người trong trường kỳ lịch sử. Hầu như làng Việt nào cũng có lễ hội riêng của
mình, các lễ hội vùng thường có nguồn gốc từ lễ hội làng, do lễ hội làng phát
triển lên. Đình, đền, miếu là các thiết chế văn hoá cổ truyền gắn bó lâu đời với
làng Việt, là nơi diễn ra những sinh hoạt văn hoá, sinh hoạt tín ngưỡng cộng
đồng, nơi dân làng thường xuyên tụ họp, gặp gỡ giao lưu trong dịp lễ hội. Có
nhiều lễ hội không còn trong phạm vi làng xã mà trong phạm vi của tổng, của
cả vùng như: hội Gióng, hội Lim...Có những lễ hội lớn tới cả một vùng, một
miền như: Hội Phủ Giầy, hội đền Kiếp Bạc, có lễ hội phạm vi cả nước như lễ
hội đền Hùng.
Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng, làng xã, địa phương, rộng hơn là
quốc gia dân tộc. Họ thờ chung một vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để
vượt qua khó khăn.
Lễ hội gồm những nghi thức trang nghiêm, thiêng liêng của phần lễ và
các hoạt động vui vẻ của phần hội trở thành một dòng chảy nối kết quá khứ
với hiện tại, con người với con người và nối kết với cộng đồng làng xã. Phần
lễ tạo ra cảm giác cộng mệnh của những người có cùng tín ngưỡng. Mục đích
của lễ là tế thần, cầu quốc thái dân an, xóm làng thịnh vượng, no ấm. Lễ hội
là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện gia đình yên ấm, vui chơi. Nhìn chung
qua nghi thức thời gian và cách thức tổ chức lễ của từng lễ hội có thể thấy sự
hợp nhất các ý nghĩa lễ hội có tầm quan trọng trong hệ thống lễ hội cộng đồng
của nhân dân . Phần hội có nhiều trò chơi giải trí có tính cộng đồng cao, cuốn
hút nhiều người tham gia. Đến với hội là để vui, để say với tinh thần cởi mở,
sảng khoái và tự nguyện.
Vũ Thanh Thuỷ
19
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
Ngoài ra, đến với lễ hội, họ còn cảm thấy gì đó thuộc về thế giới tâm
linh, đó là cái may, cái phúc, cái lộc. Hội mang lại niềm vui và hi vọng, ai ai
cũng chung mối quan hệ cộng cảm để thoát tục, để gần với thần thánh hơn.
Mối cộng cảm còn được thể hiện trong bữa ăn chung của cả ngày hội ngay
giữa sân đình linh thiêng, mọi người quây quần bên những chén rượu, những
mâm cỗ. Đó không chỉ là bữa ăn thông thường mà còn là bữa ăn tinh thần,
bữa tiệc của tình người, tình đoàn kết gắn bó keo sơn. Ngày hội với sự tấp nập
đông vui khiến cho người già, trẻ, gái trai, vui tươi phấn khởi trong không
gian văn hóa độc đáo. Qua đó họ cũng hiểu thêm về truyền thống lịch sử, văn
hóa lâu đời của đất nước và con người từng vùng miền trên quê hương đất
nước.
Vì thế, lễ hội là sự kết hợp uyển chuyển giữa cái linh thiêng với cái đời
thường, cuốn hút các cá nhân hoà nhập vào cộng đồng, tăng cường sự đoàn
kết , gắn bó hòa đồng giữa những người dân làng. Bằng cách đó, lễ hội là một
trong những cơ sở củng cố tình cảm gắn bó cộng đồng làng xã. Phải nói rằng
tính cộng đồng trong lẽ hội là sợi dây liên kết mọi người với nhau. Do vậy trải
qua bao thăng trầm của lịch sử, lễ hội vẫn trường tồn từ đời nay sang đời
khác.
1.3.3. Lễ hội là hình ảnh thu hẹp của văn hoá dân gian
Theo tiến trình lịch sử, nền văn hoá Việt Nam được lưu truyền và phát
triển trên cơ tầng của các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian. Nền văn hoá
dân gian theo nhận thức của chúng ta mang tính tổng hợp và đặc trưng cho
bản sắc, truyền thống của văn hoá dân tộc, trong đó hàm chứa một loại hình
sinh hoạt văn hoá dân gian tiêu biểu: lễ hội cổ truyền. Có thể nói rằng, lễ hội
là hình ảnh thu hẹp của văn hoá dân gian bởi nó hàm chứa nhiều dạng thức
của sinh hoạt văn hoá dân gian như: phong tục, nghệ thuật diễn xướng dân
gian, nghệ thuật tạo hình dân gian.
Vũ Thanh Thuỷ
20
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
Lễ hội mang những đặc trưng riêng của các dân tộc khác nhau trên đất
nước. Văn hoá dân gian Việt Nam là một nền văn hoá đa tộc, trong đó bao
gồm văn hoá của 54 dân tộc anh em. Chính vì vậy ở đây không có tôn giáo
độc tôn không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Do đó văn hoá dân
gian cổ truyền được lưu giữ rất tốt và cho đến nay còn tồn tại trên khắp đất
nước Việt Nam. Tìm hiểu bẳn sắc văn hoá dân tộc qua lễ hội truyền thống là
chúng ta xem xét lễ hội trong tiến trình lịch sử văn hoá dân tộc nói chung và
văn hoá dân gian nói riêng, đó cũng là việc xem xét các mối quan hệ giữa lễ
hội và lịch sử, văn hoá, phong tục tập quán, tín ngưỡng...
Lễ hội truyền thống không chỉ là hiện tượng văn hoá mà còn là hiện
tượng xã hội vì văn hoá là sản phẩm tinh thần của xã hội do nhân dân lao
động sáng tạo ra. Bởi vậy, những yếu tố và khía cạnh thuộc về bản sắc văn
hoá của dân tộc Việt Nam vốn rất sâu sắc, lưu truyền từ đời này qua đời khác,
đã trở thành truyền thống và niềm tự hào của dân tộc, được bảo tồn chính
trong dạng thức sinh hoạt văn hoá dân gian. Những dấu ấn của lịch sử, những
diễn biến của trào lưu tư tưởng xã hội như tín ngưỡng, tôn giáo, các mối giao
lưu về văn hoá, kinh tế, chính trị, các nhân vật lịch sử cùng với những sự kiện
lịch sử hào hùng trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam đều để lại vết tích trong văn hóa dân tộc đồng thời cũng được bảo lưu,
giữ gìn và phát huy trong lễ hội truyền thống. [Xem TLTK 7].
Tóm lại, nét đặc sắc của lễ hội dân gian truyền thống Việt Nam vừa
phản ánh một cách sinh động và rõ nét bản sắc văn hoá với những nét đặc
trưng cơ bản nhất là thể hiện nhu cầu tâm linh, phản ánh tính cộng đồng, tinh
thần thượng võ của dân tộc trong các sinh hoạt văn hoá dân gian. Vì thế, lễ
hội tạo nên sự phong phú sự phong phú nền văn hoá truyền thống làm cho văn
hoá Việt Nam ngày càng đa dạng, độc đáo, mang bản sắc riêng, trường tồn
cùng thời gian.
Vũ Thanh Thuỷ
21
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
1.4. Một số chính sách của Đảng và Nhà nước đối với việc quản lý tổ chức
lễ hội
Quản lý lễ hội được xem là việc nghiên cứu xây dựng, củng cố hoàn
thiện hệ thống chính sách và luật pháp có liên quan với các can thiệp bằng hệ
thống cơ bản của các cơ quan hữu quan nhằm các mục tiêu phù hợp với
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời đảm bảo lợi ích văn
hoá của cộng đồng và quốc gia dân tộc. Quản lý xã hội nhằm đáp ứng các nhu
cầu phát triển, nhằm tôn vinh và phát triển các giá trị vốn có trong lễ hội dân
gian cổ truyền lên một tầm vóc mới phù hợp với các nhu cầu văn hoá, kinh tế
xã hội của cộng đồng.
Lễ hội ở Việt Nam đã hình thành và phát triển từ lâu đời và duy trì cho
đến ngày nay. Ở giai đoạn trước trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ xâm lược, Chính phủ Việt Nam không khuyến khích phục hồi hội
làng truyền thống, trừ những hội lớn như: hội đền Hùng, hội chùa Hương...
Trong thời kỳ mở cửa đổi mới với các cơ chế chính sách mới và sự nâng lên
rõ rệt của đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân mà các hoạt
động lễ hội cũng đã được quan tâm, tổ chức phục hồi. Trong bối cảnh đó
Đảng và Nhà nước đã xếp hạng và công nhận di tích lịch sử văn hoá đối với
các đền, đình, miếu.
Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đã được ban hành
và thực hiện làm cho các lễ hội khi diễn ra vừa đáp ứng được nguyện vọng
của quần chúng nhân dân đồng thời cũng đảm bảo việc giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân.
Những chính sách và quy định, quy chế liên quan đến lễ hội được ban hành
là:
* Quy chế lễ hội được Bộ văn hoá thông tin và truyền thông ban hành
ngày 7 tháng 5 năm 1994 kèm theo quyết định số 636/QĐ - QC ngày 21 tháng
Vũ Thanh Thuỷ
22
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
4 năm 1994 của bộ trưởng Bộ văn hoá - Thông tin, trong đó đã chỉ rõ mục
đích của việc tổ chức lễ hội nhằm:
+ Giáo dục truyền thống của dân tộc về lịch sử văn hóa trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của dân tộc.
+ Tưởng nhớ công đức của các danh nhân lịch sử văn hoá những người
có công với dân với nước (nhân thần).
+ Tìm hiểu thưởng ngoạn các giá trị văn hoá thông qua các di tích lịch
sử văn hoá, các danh lam thắng cảnh, các công trình kiến trúc nghệ thuật, giữ
gìn phát huy vốn văn hóa truyền thống và phong tục tập quán tốt đẹp của dân
tộc.
Đồng thời quy chế này cũng nghiêm cấm lợi dụng lễ hội để thực hiện
các hoạt động phản động, đồi trụy, mê tín dị đoan.
Quy chế lễ hội này cũng quy định việc tổ chức, thực hiện lễ hội và quy
định trong việc tổ chức thực hiện quy chế lễ hội.
* Quyết định số 39/2001/ QĐ - BVHTT của bộ trưởng Bộ văn hóa
thông tin ngày 23 tháng 8 năm 2001 về việc ban hành quy chế lễ hội ban hành
kèm theo quy chế tổ chức lễ hội. Trong quy chế này đã nêu ra đối tượng điều
chỉnh của quy chế, mục đích tổ chức lễ hội, việc quản lý và tổ chức lễ hội, ,
trong đó quy định việc quản lý và tổ chức đối với các loaị hình lễ hội.
* Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hóa công
cộng ban hành 18 tháng 1 năm 2006, kèm theo quyết định số 11/2006/NĐCP của Chính phủ trong đó có những quy định về việc tổ chức lễ hội.
Các văn bản pháp lý của Nhà nước góp phần đảm bảo cho lễ hội được
tổ chức đúng với quy chế và đáp ứng nhu cầu của nhân dân, đồng thời để các
lễ hội được diễn ra lành mạnh, góp phần vào sự phát triển chung của xã hội.
Vũ Thanh Thuỷ
23
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
CHƯƠNG 2
LỄ HỘI ĐỀN THƯỢNG - THÀNH PHỐ LÀO CAI
2.1. Khái quát chung về thành phố Lào Cai
Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới, nằm phía tây bắc Việt Nam, cách
Hà Nội 296km theo đường sắt và 345 km theo đường bộ. Nơi đây thiên nhiên
kỳ vĩ, con người hiếu khách tạo nên bức cảnh toàn cảnh của tỉnh vùng cao
năng động đang từng ngày phát triển và hội nhập, là điểm đến hấp dẫn của du
khách trong hành trình du lịch.
Năm 1991, tỉnh Lào Cai được tái lập và thị xã Lào Cai được chọn làm
tỉnh lỵ của tỉnh. Thành phố Lào Cai được Thủ tướng Chính phủ Phan Văn
Khải ký quyết định thành lập vào ngày 30/11/2004 trên cơ sở sáp nhập 2 thị
xã Lào Cai và thị xã Cam Đường với :
Diện tích là : 22 150ha
Dân số là : 100 225 người [Xem TLTK 2]
Thành phố bao gồm 17 đơn vị hành chính trực thuộc, đó là 12 phường:
Lào Cai, Phố Mới, Duyên Hải, Cốc Lếu, Kim Tân, Pom Hán, Bắc Lệnh,
Thống Nhất, Xuân Tăng, Bắc Cường, Nam Cường, Bình Minh và 5 xã: Vạn
Hòa, Đồng Tuyển, Cam Đường, Tả Phời và Hợp Thành, với vị trí tiếp giáp
như sau:
Phía Bắc tiếp giáp với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Phía Tây Bắc tiếp giáp với huyện Bát Xát.
Phía Nam và Tây Nam tiếp giáp với huyện SaPa.
Phía Đông tiếp giáp với huyện Bảo Thắng [15. tr 37]
Từ thành phố lên thị trấn du lịch Sa Pa theo quốc lộ 4D chỉ chừng 40
km. Có hai con sông chảy qua, sông Nậm Thi chạy quanh phía bắc tỉnh, đồng
thời là ranh giới tự nhiên với Trung Quốc. Thành phố Lào Cai nằm hai bên bờ
sông Hồng, các cây cầu Cốc Lếu, Phố Mới bắc qua sông nối hai phần của
thành phố.
Vũ Thanh Thuỷ
24
K32G - Việt Nam học
Khoá luận tốt nghiệp
Trường ĐHSP Hà Nôị 2
Về dân tộc:
Thành phố Lào Cai có nhiều anh em dân tộc sinh sống: Việt, H’Mông,
Tày, Thái, mỗi dân tộc có vốn văn hóa truyền thống phong phú đa dạng. Cùng
với xu thế giao lưu và hội nhập, các dân tộc Lào Cai luôn chú trọng giữ gìn và
bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.
Về giao thông:
Thành phố Lào Cai là một thành phố trong số ít thành phố của các tỉnh
miền núi có mạng lưới giao thông vận tải đa dạng bao gồm đường bộ, đường
sắt, đường không, giai đoạn 2006-2010 triển khai dự án sân bay Lào Cai.
Đường sắt Hà Nội - Lào Cai dài 296 km, đoạn qua Lào Cai dài 62 km được
nối với đường sắt Trung Quốc. Mạng lưới giao thông đường bộ phân bố rộng
khắp trên địa bàn thành phố với quốc lộ 4D nối thành phố với các huyện bên
cạnh là Mường Khương, Bát Xát, Sapa, với tỉnh Lai Châu và với quốc lộ 32
đảm bảo giao thông thuận lợi.
Về kinh tế xã hội:
Thành phố Lào Cai là thành phố nằm ở biên giới duy nhất của nước ta
hiện nay, đây là một điều kiện hết sức thuận lợi cho Lào Cai trong việc phát
triển kinh tế xã hội. Trong những năm qua với đặc thù riêng là một thành phố
nằm ở biên giới có cửa khẩu quốc tế đi qua, Lào Cai đã có những chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của riêng mình. Tỉnh đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể vừa nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người
dân địa phương góp phần phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh quốc
phòng cho khu vực phía Bắc nói riêng và cả nước nói chung. Đảng bộ và
nhân dân Lào Cai đã đạt được những bước tiến quan trọng, đó là :
Kinh tế: Qua 20 năm đổi mới mở cửa nền kinh tế đặc biệt là sau gần 20
năm tái lập tỉnh đến nay, tình hình kinh tế của thành phố đã có những bước
tiến đáng kể trên tất cả các mặt sản xuất. Lào Cai xây dựng và thực hiện nhiều
chương trình kinh tế như phát triển kinh tế vườn, rừng, tiểu thủ công nghiệp
Vũ Thanh Thuỷ
25
K32G - Việt Nam học