Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Một số giải pháp phát triển doanh nghiệp nhà nước ở việt nam trong bối cảnh hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.46 KB, 68 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
***************

TRƢƠNG ANH TUẤN

Một số giải pháp phát triển DNNN ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: kinh tế chính trị

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
GV. Nguyễn Thị Nhung

HÀ NỘI - 2012

1


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới cô giáo
Nguyễn Thị Nhung giảng viên hướng dẫn, đã tận tình chỉ bảo,
đóng góp ý kiến quý báu giúp em hoàn thành khóa luận này.
Đồng thời em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy, cô trong
trường ĐHSPHN 2. Đặc biệt là các thầy cô trong khoa Giáo Dục
Chính Trị đã giảng dạy giúp đỡ em trong suốt thời gian qua.
Do hạn chế về mặt thời gian cũng như kiến thức bản thân nên
đề tài này khó tránh khỏi thiếu sót, vì vậy rất mong được sự đóng
góp ý kiến của thầy, cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, Tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Trƣơng Anh Tuấn

2


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan những vấn đề em trình bày trong khóa luận
là kết quả nghiên cứu của riêng bản thân em, dưới sự hướng dẫn tận
tình của cô giáo Nguyễn Thị Nhung. Nếu sai em hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Hà Nội, Tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Trƣơng Anh Tuấn

3


MỞ ĐẦU

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
2. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
3. KTTT: Kinh tế thị trường
4. CNH: Công nghiệp hóa
5. HĐH: Hiện đại hóa
6. CPH: Cổ phần hóa

4



1. Lý do chọn đề tài
Đại hội lần thứ VI của đảng (1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện
đất nước, trong đó phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) . Chủ trương này đã được các Đại hội VII, VIII, IX, X, và XI
tiếp tục khẳng định bổ sung và làm rõ thêm. Trong quá trình thực hiện chính
sách kinh tế nhiều thành phần, đảng ta luôn khẳng định thành phần kinh tế
Nhà nước mà cốt lõi là hệ thống doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đóng vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là lực lượng vật chất quan trọng và là
công cụ để nhà nước ta điều tiết vĩ mô nền kinh tế nước ta theo định hướng
XHCN.
Hiện nay, DNNN có mặt ở hầu như tất cả các ngành và các lĩnh vực hoạt
động kinh tế then chốt, tuy nhiên so với tiềm năng là chưa tương xứng, chưa
đạt được mục tiêu mà nhà nước mong muốn.
Trong thời gian qua, Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp trợ giúp
doanh nghiệp nhà nước như: miễn thuế, giảm thuế, cho vay ưu đãi, vay không
phải thế chấp, khoanh nợ, dãn nợ, chuyển nợ thành vốn ngân sách cấp, được
trúng thầu hoặc được giao thầu nhiều công trình do Nhà nước đầu tư v.v…
Tuy vậy, những yếu kém của doanh nghiệp nhà nước vẫn còn rất nghiêm
trọng. Đó là: năng lực cạnh tranh thấp do chất lượng kém, giá thành của nhiều
sản phẩm còn cao, nhiều mặt hàng có giá cao hơn mặt hàng cùng loại nhập

5


khẩu (như sắt thép, phân bón, xi-măng, đường) công nợ quá lớn, nợ quá hạn,
nợ khó đòi ngày càng tăng, quy mô doanh nghiệp quá nhỏ, công nghệ lạc hậu,
có những doanh nghiệp còn làm ăn thua lỗ kéo dài.

Trước tình hình đó, việc cải cách doanh nghiệp nhà nước đã trở nên hết
sức cấp bách, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, bởi
nhiều doanh nghiệp nhà nước đang cung ứng những hàng hóa, dịch vụ chủ
yếu là chi phí đầu vào của các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Do vậy,
cải cách các doanh nghiệp nhà nước là góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế là rất cần thiết.
Yêu cầu đặt ra là, điều chỉnh để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp
lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, đa
dạng hóa sở hữu, chuyển từ chế độ sở hữu duy nhất là Nhà nước sang đa sở
hữu, kể cả sở hữu tư nhân, với mục tiêu sử dụng có hiệu quả lực lượng lao
động và cơ sở vật chất – kỹ thuật, phát triển sản xuất, kinh doanh.
Do đó, nghiên cứu hệ thống DNNN ở nước ta trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế ngày nay nhằm tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động của các DNNN là một đòi hỏi cấp bách, vì vậy em chọn đề tài: “Một số
giải pháp phát triển DNNN ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập” làm đề tài
khoá luận của mình.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của đề tài nên đối
tượng nghiên cứu của khóa luận được xác định là từ việc nghiên cứu thực
trạng phát triển của các DNNN trong bối cảnh hội nhập, trên cơ sở đó tìm ra
các giải pháp phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN.
3. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, liên quan tới vấn đề này đã có nhiều tác giả,
nhiều bài báo, tạp chí, các luận án tiến sĩ đề cập tới ở nhiều khía cạnh khác

6


nhau. Ví dụ như: DNNN trong bối cảnh hội nhập vào nền kinh tế thế giới và
khu vực, của PGS,TS Hoàng Thị Chỉnh, Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh,

năm 2010; Để làm tốt vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế
thị trường (KTTT) định hướng XHCN, của PGS, TS kinh tế, Nguyễn Huy
Oánh, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006; DNNN trong sự
nghiệp công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) theo định hướng XHCN
ở Việt Nam, của, PGS, TS, UVTW đảng Tô Huy Rứa, năm 2002. Hội nhập
kinh tế thế giới: vấn đề và giải pháp, tạp chí cộng sản (số 5), tr. 17-23, năm
2000…
Tuy nhiên mỗi công trình trên đều nghiên cứu ở một khía cạnh riêng lẻ
của từng vấn đề, đặc biệt là chưa đi sâu vào nghiên cứi thực trạng của các
DNNN nhất là trong bối cảnh hiện nay, để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của các DNNN trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu khoá luận
* Mục đích của đề tài
Nghiên cứu cơ sở lý luận, phân tích, đánh giá trực trạng hệ thống DNNN
trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các DNNN trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay.
* Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ khái niệm DNNN và tính tất yếu phải phát triển DNNN.
- Làm rõ khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế và sự cần thiết phải hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Phân tích thực trạng của các DNNN Ở Việt Nam trong thời gian qua,
những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.
- Trên cở sở phân tích đánh giá nguên nhân để đề ra các giải pháp chủ
yếu phát triển DNNN ở Việt Nam hiện nay.

7


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu khoá luận là dựa trên phương pháp
luận của chủ nghĩa Duy Vật biện chứng và chủ nghĩa Duy Vật lịch sử, các văn
kiện của Đảng Cộng Sản Việt Nam, các tài liệu nghiên cứu về các giải pháp
phát triển DNNN ở Việt Nam
Đề tài sử dụng phương pháp: trừu tượng hoá khoa học, tổng hợp, thống
kê, so sánh, phân tích làm sáng tỏ vấn đề.
6. Ý nghĩa của khoá luận
Làm rõ vai trò chủ đạo của hệ thống DNNN ở Việt Nam trong bối cảnh
hiện nay, phân tích đánh giá những thành tựu và hạn chế từ đó đề ra các giải
pháp phù hợp nhằm làm cho các DNNN hoạt động có hiệu quả cao nhất là
trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Đánh giá đúng thực trang của các DNNN từ đó có các biện pháp khả
thi góp phần phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống DNNN
tạo điều kiện cho kinh tế nước ta phát triển một cách bền vững, sớm theo kịp
các nước trong khu vực và quốc tế.
7. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục luc, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về DNNN và hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng phát triển của các DNNN ở Việt Nam trong thời
gian qua.
Chương 3: Một số mục tiêu và giải pháp phát triển DNNN ở Việt Nam
hiện nay

8


9



NỘI DUNG
Chƣơng 1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƢỚC VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1. Khái niệm, phân loại và tính tất yếu phải phát triển doanh nghiệp
nhà nƣớc
1.1.1. Khái niệm DNNN
Trên thế giới, khi nghiên cứu hoặc đề xuất phương án cải cách DNNN,
các học giả thường có quan niệm khác nhau về bản thân DNNN. Các định
nghĩa pháp lý và học thuật của các quốc gia khác nhau về DNNN cũng khác
nhau. Mỗi quốc gia trong khái niệm DNNN có thể nhấn mạnh tiêu chí này
hoặc tiêu chí khác, chẳng hạn Việt Nam gọi là xí nghiệp quốc doanh, sau này
gọi là DNNN, Trung Quốc gọi là xí nghiệp quốc hữu, Pháp gọi là công ty
quốc doanh hay doanh nghiệp quốc doanh. Như vậy ngay trong nội hàm của
khái niệm DNNN cũng có sự khác nhau. Mặc dù nội hàm khái niệm DNNN ở
các nước có sự khác nhau song DNNN ở Việt Nam được hiểu như sau:
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là tổ chức kinh tế được thực hiện nhằm
các mục đích tổ chức kinh doanh nhà nước về một hay nhiều ngành, được tổ
chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn, trong đó nhà nước sở hữu trên 50 % vốn điều lệ (luật doanh nghiệp –
NXB Thế Giới 2007).
DNNN gồm các loại hình doanh nghiệp sau: Doanh nghiệp 100 % vốn
Nhà nước hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước do trung ương quản lý
và địa phương quản lý; công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước do trung ương
quản lý và địa phương quản lý; công ty vốn cổ phần trong nước mà Nhà nước
chiếm trên 50 % vốn điều lệ. [13,tr.177]

10



Phạm vi của DNNN: Bao gồm tất cả các doanh nghiệp trong đó nhà
nước chiếm trên 50 % vốn điều lệ.
1.1.2. Phân loại DNNN
* Theo phân loại của Liên hiệp quốc, DNNN có 3 loại:
- Doanh nghiệp hành chính sự nghiệp (Departmental enterpries) được
thành lập trong các ngành cung cấp điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc
hàng hoá dịch vụ công cộng. Các doanh nghiệp này không nhằm tới lợi nhuận
thuần tuý, nhưng phải chi phí hợp lý và hoạt động hiệu quả.
- Doanh nghiệp công cộng (Pulic enterprises), trong đó Nhà nước là chủ
sở hữu duy nhất và hoạt động vì lợi ích xã hội chứ không vì lợi nhuận.
- Doanh ngiệp sở hữu Nhà nước (State – Owred Enterrprises – SOES) do
Nhà nước sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản, hoạt động kinh doanh vì mục
tiêu lợi nhuận. Việc sản xuất kinh doanh dựa trên phân tích chi phí – lợi
nhuận và chịu sự cạnh tranh với khu vực tư nhân trên thị trường.
* Pháp luật về DNNN của Việt Nam dựa theo mục tiêu hoạt động của
DNNN thành 2 loại:
- Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh, chủ yếu nhằm mục tiêu
lợi nhuận. Các DNNN hoạt động kinh doanh có quyền, có nghĩa vụ quản lý và
sử dụng có hiệu quả vốn cũng như các nguồn lực do Nhà nước giao để thực
hiện các mục tiêu kinh doanh, nhằm thu lợi nhuận tối đa hoặc thực hiện
những nhiệm vụ đặc biệt mà nhà nước giao.
- DNNN hoạt động công ích, hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ công
cộng theo các chính sách của nhà nước, hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng. Hoạt động của các doanh nghiệp này không chủ yếu vì mục tiêu
lợi nhuận mà nhằm cung cấp sản phẩm dịch vụ công ích do nhà nước giao kế
hoạch hoặc đặt hàng theo giá, khung giá hoặc chi phí do nhà nước quy định.

11



Nhóm DNNN hoạt động kinh doanh theo phân loại của pháp luật Việt
Nam bao gồm cả loại doanh nghiệp nhóm 1 và loại doanh nghiệp nhóm 3 nhà
nước đầu tư 100 % vốn theo phân loại của Liên hiệp quốc.
* Ngoài các hình thức phân loại doanh nghiệp Nhà nước trên, còn nhiều
cách thức phân loại khác về DNNN tại Việt Nam như:
- Theo hình thức tổ chức doanh nghiệp: DNNN độc lập và tổng công ty
Nhà nước.
- Theo cơ cấu tổ chức quản lý: DNNN có Hội đồng quản trị và DNNN
không có hội đồng quản trị…
1.1.3. Tính tất yếu phải phát triển DNNN
Trong qua trình xây dựng và phát triển kinh tế đất nước hiện nay đảng ta
luôn quán triệt và thực hiện chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN. Trong đó kinh tế nhà nước mà cốt lõi là hệ thống doanh nghiệp nhà
nước luôn giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ
để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Các doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt phải đi đầu trong
việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng xuất, chất
lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật, phải hoàn thành việc
củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động
[4,tr.60].
Trong thời gian qua, Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp trợ giúp
doanh nghiệp nhà nước như: miễn thuế, giảm thuế, cho vay ưu đãi, vay không
phải thế chấp, khoanh nợ, dãn nợ, chuyển nợ thành vốn ngân sách cấp, được
trúng thầu hoặc được giao thầu nhiều công trình do Nhà nước đầu tư v.v…
Tuy vậy, những yếu kém của doanh nghiệp nhà nước vẫn còn rất nghiêm
trọng. Đó là: năng lực cạnh tranh thấp do chất lượng kém, giá thành của nhiều

12



sản phẩm còn cao, nhiều mặt hàng có giá cao hơn mặt hàng cùng loại nhập
khẩu (như sắt thép, phân bón, xi-măng, đường); công nợ quá lớn, nợ quá hạn,
nợ khó đòi ngày càng tăng; quy mô doanh nghiệp quá nhỏ; công nghệ lạc hậu,
có những doanh nghiệp còn làm ăn thua lỗ kéo dài.
Trước tình hình đó, việc cải cách doanh nghiệp nhà nước đã trở nên hết
sức cấp bách, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, bởi
nhiều doanh nghiệp nhà nước đang cung ứng những hàng hóa, dịch vụ chủ
yếu là chi phí đầu vào của các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Do vậy,
cải cách các doanh nghiệp nhà nước là góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế là việc làm hết sức cần thiết.
Nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, phát triển
DNNN không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa về chính trị,
góp phần đảm bảo công bằng xã hội, và phát triển kinh tế bền vững. Xứng
đáng là thành phần kinh tế chủ đạo là công cụ quan trọng để điều tiết vĩ mô
nền kinh tế.
Trong 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 20012010 chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, tuy nhiên những thành tựu
đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, kinh tế phát triển chưa bền vững.
Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế
thấp, cán cân đối với kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, cung ứng điện chưa đáp
ứng được yêu cầu. Công tác quy hoạch, kế hoạch và huy động, sử dụng các
nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải; Quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp nói chung còn nhiều yếu kém, việc thực hiện chức năng
chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất cập [ 6,tr.93].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã quán triệt chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011-2020. Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững,
phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược.

13



Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng xuất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu
tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.
Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hoá, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống nhân
dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng cải thiện và bảo vệ môi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta có điều kiện phát
triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết.
Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo
nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn
gắn chặt nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã
hội [6,tr. 99 ].
Như vậy phát triển DNNN không những có ý nghĩa về kinh tế mà còn
có ý nghĩa về chính trị… là công cụ để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, cùng với
các thành phần kinh tế khác góp phần đẩy nhanh sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân. Nhất là trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, nhiều cơ
hội và thách thức đang đặt ra trước mắt, phát triển DNNN lại càng trở nên cấp
thiết hơn.
1.2. Khái niệm và sự cần thiết phải hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế
Đây là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu
vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo
những hình thức khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu
vực/vùng khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế có thể diễn ra
theo nhiều mức độ. Theo một số nhà kinh tế, tiến trình hội nhập kinh tế được
chia thành năm mô hình cơ bản từ thấp đến cao như sau:

14



- Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA): Các nước thành viên dành cho
nhau các ưu đãi thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, nhưng còn hạn chế
về phạm vi (số lượng các mặt hàng đưa vào diện cắt giảm thuế quan) và mức
độ cắt giảm. Hiệp định PTA của ASEAN (1977), Hiệp định Thương mại ViệtMỹ (2001), Hiệp định GATT (1947 và 1994) là các ví dụ cụ thể của mô hình
liên kết kinh tế ở giai đoạn thấp nhất.
- Khu vực mậu dịch tự do (FTA): Các thành viên phải thực hiện việc cắt
giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan và các hạn chế về định lượng (có thể
bao gồm cả việc giảm và bỏ một số hàng rào phi thuế quan) trong thương mại
hàng hóa nội khối, nhưng vẫn duy trì chính sách thuế quan độc lập đối với các
nước ngoài khối. Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu (EFTA), Khu vực
mậu dịch tự do bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
Những năm gần đây, phần lớn các hiệp định FTA mới có phạm vi lĩnh vực
điều tiết rộng hơn nhiều. Ngoài lĩnh vực hàng hóa, các hiệp định này còn có
những quy định tự do hóa đối với nhiều lĩnh vực khác như dịch vụ, đầu tư, sở
hữu trí tuệ, mua sắm… Ví dụ: Hiệp định FTA giữa ASEAN với Úc-Niudilân
(2009), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình dương (TPP- đang đàm phán).
- Liên minh thuế quan (CU): Các thành viên ngoài việc cắt giảm và loại
bỏ thuế quan trong thương mại nội khối còn thống nhất thực hiện chính sách
thuế quan chung đối với các nước bên ngoài khối. Ví dụ: Nhóm ANDEAN và
Liên minh thuế quan Nga-Bêlarút-Cadăcxtan.
- Thị trường chung (hay thị trường duy nhất): Ngoài việc loại bỏ thuế
quan và hàng rào phi quan thuế trong thương mại nội khối và có chính sách
thuế quan chung đối với ngoài khối, các thành viên còn phải xóa bỏ các hạn
chế đối với việc lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác (vốn, lao động…) để
tạo thành một nền sản xuất chung của cả khối. Ví dụ: Liên minh châu Âu đã

15



trải qua giai đoạn xây dựng thị trường duy nhất (Thị trường chung châu Âu)
trước khi trở thành một liên minh kinh tế.
- Liên minh kinh tế-tiền tệ: Là mô hình hội nhập kinh tế ở giai đoạn cao
nhất dựa trên cơ sở một thị trường chung duy nhất cộng thêm với việc thực
hiện chính sách kinh tế và tiền tệ chung (một đồng tiền chung, ngân hàng
trung ương thống nhất của khối). Ví dụ: EU hiện nay.
Một nước có thể đồng thời tham gia vào nhiều tiến trình hội nhập với
tính chất, phạm vi và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản phải trải qua
các bước hội nhập từ thấp đến cao, việc đốt cháy giai đoạn chỉ có thể diễn ra
trong những điều kiện đặc thù nhất định mà thôi (chẳng hạn Cộng đồng Kinh
tế châu Âu đã đồng thời thực hiện xây dựng khu vực mậu dịch tự do và liên
minh thuế quan trong những thập niên 60-70). Hội nhập kinh tế là nền tảng
hết sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững của hội nhập trong các lĩnh vực
khác, đặc biệt là hội nhập về chính trị và nhìn chung, được các nước ưu tiên
thúc đẩy giống như một đòn bẩy cho hợp tác và phát triển trong bối cảnh toàn
cầu hóa.
1.2.2. Sự cần thiết phải hội nhập kinh tế quốc tế
- Hội nhập kinh tế quốc tế - xu hướng tất yếu của thời đại
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt
của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu
rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự
hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền
kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự
phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao,
cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế thế giới

16



như WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng là do toàn cầu
hoá đem lại.
Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ
nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam
hiện nay cũng như sau này. Bởi một nước mà đi ngược với xu hướng chung
của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại
bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa
trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt...thì việc chủ động hội nhập kinh tế với
khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội
nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra thời cơ phát triển
kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được
vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những
kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường
thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt
đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ
thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ
trương của Đảng: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”, chúng ta sẽ
khắc phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội nhập kinh tế quốc tế
là tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Bởi vì:
Một là, sự phân công lao động quốc tế và hợp tác quốc tế giữa các quốc
gia, các khu vực ngày càng phát triển cả bề rộng và bề sâu, bao quát nhiều
lĩnh vực với tốc độ nhanh. Ngày nay, rất nhiều sản phẩm quan trọng dù được
đăng ký ở một nước nhưng có hàng trăm công ty của hàng chục nước cùng
tham gia chế tạo ra chúng.
Thí dụ, sản xuất máy bay Boing có tới 650 công ty trên thế giới đặt ở 30
nước tham gia.

17



Hai là, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nước ngày càng tăng.
Chính sự chuyên môn hóa, hiệp tác hóa sản xuất làm cho các nước phụ thuộc
nhau về nhiều mặt như: nguyên liệu, kỹ thuật, công nghệ, vốn đầu tư, lao
động, thị trường... Mỗi nước đều cố gắng khai thác tối đa những lợi thế tuyệt
đối và tương đối của mình. Thị trường thế giới ngày càng có vai trò quan
trọng đối với "đầu vào" và "đầu ra" của nền kinh tế mỗi quốc gia.
Ba là, hình thành kết cấu hạ tầng sản xuất quốc tế và giá cả quốc tế.
Ngày nay, khi xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất như đường giao thông,
sân bay, bến cảng, kho bãi, hệ thống thông tin liên lạc và cả các lĩnh vực khác
như dịch vụ, khách sạn... các quốc gia đều dựa theo tiêu chuẩn quốc tế. Hệ
quả của nó là tạo ra điều kiện thuận lợi hơn cho mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại của các quốc gia. Toàn cầu hóa kinh tế còn biểu hiện ở sự hình thành
giá cả quốc tế. Ngày nay, các sản phẩm phổ biến (như xăng dầu, gạo, sắt thép,
cà phê...) đều có giá cả quốc tế. Sự xuất hiện giá cả quốc tế lại giúp cho các
quốc gia tìm ra lợi thế của mình, tập trung sản xuất những sản phẩm có thế
mạnh để xuất khẩu và mua những sản phẩm mà chưa sản xuất được hoặc chất
lượng chưa cao, giá cả lại đắt. Chính vì vậy, trong những thập niên gần đây,
thương mại quốc tế phát triển rất mạnh mẽ và có những xu hướng mới.
Tóm lại, thời đại ngày nay toàn cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, là xu
thế khách quan và không một quốc gia nào có thể đứng ngoài dòng xoáy của
nó. Toàn cầu hóa kinh tế vừa tạo ra cơ hội vừa tạo ra thách thức cho mỗi quốc
gia. Vì vậy, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trở thành tất yếu khách quan và
là một trong các nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ ở nước ta và
được nhấn mạnh nhiều lần trong các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà
nước "Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn
với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích
đất nước làm mục tiêu cao nhất”.


18


Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học – công nghệ cao
đang đưa loài người bước vào thời đại kinh tế trí thức. Cùng với sự phát triển
như vũ bão của các ngành công nghệ như: công nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, với những thành tựu mà nó đem lại đã tác động mạnh mẽ đến nền
kinh tế thế giới và toàn bộ xã hội loài người đưa con người bước vào thời đại
kinh tế trí thức.
Toàn cầu hoá tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu
hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen
phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn. Quá trình
quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng. Việc
tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối
với các nền kinh tế. Sự tuỳ thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác
giữa các nước ngày càng trở thành phổ biến. Kinh tế trí thức phát triển mạnh,
do đó con người và tri thức càng trở thành nhân tố quyết định sự phát triển
của mỗi quốc gia [6,tr.96-97].
Nền kinh tế trí thức có nhiều tác động làm biến đổi xã hội, biểu hiện rõ
nhất là sự tăng lên về của cải vật chất và sự giảm đi về số lượng nhân công,
công nhân tri thức (lao động bằng trí óc) dần thay thế cho công nhân cơ bắp
(lao động bằng chân tay). Đó là kết quả của việc phát triển và áp dụng khoa
học – công nghệ vào đời sống sản xuất. Trong nền kinh tế tri thức vai trò của
công nhân tri thức là hết sức quan trọng, họ là lực lượng chính tạo ra của cải
xã hội, tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới.
Xu thế chung của thời đại ngày nay là hoà bình ổn định, hợp tác, vì sự
phát triển và tiến bộ của loài người.
Nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang
thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là
xu hướng lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp,


19


lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an ninh phi truyền
thống, tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn cầu như
an ninh tài chính, an ninh lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên
tai, dịch bệnh… sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Toàn cầu hoá và cách mạng
khoa hoc – công nghệ diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội
thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau
khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn; quá trình cấu trúc lại nền
kinh tế và thể chế tài chính diễn ra mạnh mẽ ở các nước. Cạnh tranh kinh tế
thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng thị trường, công
nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao… giữa các nước ngày càng
gay gắt. Cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh giai cấp
và dân tộc diễn biến phức tạp…
Ngày nay vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan đang
diễn ra trên thế giới. Một trong những nguyên nhân của nó là do sự tác động
của lực lượng sản xuất ngày càng mang tính chất quốc tế hoá, đặc biệt là từ
khi cuộc cách mạng khoa hoc và công nghệ bùng nổ. Xu thế trên đây thúc đẩy
các quốc gia phải có chiến lược về hội nhập kinh tế quốc tế.
Trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế, hầu hết các nước tên thế giới ngày
càng hường về phát triển mạnh nền kinh tế thị trường quốc gia và mở rộng hội
nhập kinh tế quốc tế. Để không bị bao vây cô lập và tụt hậu về kinh tế, Đảng
và Nhà nước ta đã sớm nhận thức được vấn đề và đưa ra chủ trương di đoi với
phát triển mạnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là phải chủ
động mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế với các nước thông qua con đường mở
cửa thị trường và hội nhập phát triển kinh tế dưới nhiều hình thức theo
nguyên tắc đôi bên cùng có lợi.

Thực hiện chủ trương đó, Đảng ta chỉ ra: phải đa phương và đa dạng hoá
quan hệ kinh tế đối ngoại để có nhiều đối tác và hình thức quan hệ kinh tế
nhằm đạt kết quả cao nhất. Huy động tiềm năng của nền kinh tế phát huy lợi

20


thế so sánh tương đối, vừa đáp ứng nhu cầu sản xuất đời sống trong nước, vừa
hướng mạnh về xuất khẩu. Tiếp tục coi trọng thị trường truyền thống, mở
rộng thị trường khu vực, đồng thời nhanh chóng xâm nhập thị trường mới.
Mở rộng hợp tác lao động và chuyên gia, phát triển hợp tác quốc tế trên các
lĩnh vực tài chính, ngân hàng , bảo hiểm; đẩy mạnh xuất khẩu , coi xuất khẩu
là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại trước mắt cũng như
lâu dài; điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập
toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa nước ta với cộng đồng thương mại quốc
tế WTO và các đối tác khác; chủ động tham gia các diễn đàn, các tổ chưc, các
định chế quốc tế một cách có chọn lọc với bước đi thích hợp.
Hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết. Song cái phải giữ được là hội nhập
nhưng không bị hoà tan, không chệch định hướng XHCN, không rơi vào cái
bẫy mắc nợ triền miên với các nước tư bản để rồi phải phụ thuộc vào họ cả về
kinh tế và tài chính, và chính trị, do đó cần phải có chiến lược và sách lược
khôn ngoan trong hội nhập kinh tế quốc tế cả trước mắt lẫn lâu dài. Chiến
lược và sách lược đó phải được xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản sau
đây:
- Giữ vững độc lập tự chủ về chính trị, tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của
nhau.
- Đa phương hoá và đa dạng hoá với nhiều đối tác khác nhau cùng có
chung một mục đích đôi bên cùng có lợi.
- Đảm bảo cho đất nước vừa phát triển nhanh kinh tế vừa tiến lên theo
đúng định hướng XHCN, từng bước thực hiện được mục tiêu: dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hiện nay quan hệ buôn bán ngoại thương của nước ta đã mở rộng phạm
vi tới gần 140 nước trên thế giới ở những mức độ khác nhau, xuất khẩu nhiều
mặt hàng có giá trị cao ra thị trường thế giới thu về mỗi năm hàng chục tỷ

21


USD. Chúng ta cũng đã thiết lập được thị trường chứng khoán và có văn
phòng ngân hàng đại diện ở một số nước như: Pháp, Singapore, Hồng Kông,
Thuỵ Điển…để tham gia vào hoạt động tên một số lĩnh vực của thị trường
tiền tệ thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần đưa nước ta lên vị thế
cao hơn trên trường quốc tế. Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức
thương mại quốc tế WTO và được bầu làm uỷ viên thường trực không chính
thức của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc… Những kết quả đạt được trên đây
về kinh tế xã hội nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng đã chứng
minh đường lối mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và nhà nước ta là
đúng đắn.
Tổng kết kinh nghiệm 25 năm đổi mới thực hiện đường lối đối ngoại,
chủ động mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, Đại hôi lần thứ XI của Đảng tiếp
tục khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hoà bình hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế… Kết hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng với đối
ngoại của Nhà nước và ngoại giao nhân dân giữa ngoại giao chính trị với
ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hoá với ngoại giao quốc phòng an ninh.
Nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ và phát triển nhanh bền vững, phát huy vai trò nguồn lực của ccộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài vào phát triển đất nước. Tiếp tục cải thiện môi
trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh các nguồn vốn quốc tế,
thu hút các nhà đầu tư lớn, có công nghệ cao, có cộng nghệ nguồn; mở rộng

thị trường xuất khẩu”.
- Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu mở rộng hội nhập kinh tế quốc
tế của Đại hội XI đề ra, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, ngoài sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước trong việc đề ra chủ trương, đường lối chiến lược đúng
và sách lược khôn ngoan, còn phải có những tổ chức kinh tế - xã hội và những
con người có đủ khả năng để tổ chức thực hiện có kết quả những chủ trương
đường lối chính sách đó trong thực tiễn.

22


- Trong giai đoạn cách mạng hiện nay – giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, cần tuyên truyền cho
toàn Đảng, toàn dân hiểu biết sâu sắc đường lối mở rộng hội nhập kinh tế
quốc tế của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng mới. Cần quan
tâm giáo dục thế hệ trẻ trở thành bộ phận nòng cốt, có học vấn và kỹ năng
nghề nghiệp cao ngang tầm khu vực và quốc tế để họ có đủ khả năng hoàn
thành tốt những nhiệm vụ khó khăn đặt ra trong quan hệ kinh tế đối ngoại
hiện nay. Làm được điều đó đòi hỏi các cơ quan nghiên cứu lý luận và tổng
kết thực tiễn phải làm rõ trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đẩy mạnh cộng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế thì những vấn đề nào là vấn đề có tính lý luận và thực tiễn để cung
cấp cho Đảng và Nhà nước có căn cứ khoa học đề ra đường lối chủ trương
đúng đắn và phát triển kinh tế nói chung, hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng,
phù hợp với điều kiện kinh tế thế giới và trong nước hiện nay. Đặc biệt là các
tổ chức kinh tế - xã hội và từng người lao động được giao nhiệm vụ trực tiếp
tổ chức và thực hiện đường lối hội nhập kinh tế quốc tế phải ra sức rèn luyện
để có được bản lĩnh chính trị, kinh tế và trách nhiệm sau đây:
Một là, phải trung thành tuyệt đối với đường lối hội nhập kinh tế quốc tế
của Đảng và Nhà nước ta đề ra phối hợp với các ngành, các cấp, các đối tác

để tổ chức thực hiện tốt trong thực tiễn.
Hai là, hiểu biết một cách nhuần nhuyễn các quy luật của nền kinh tế thị
trường vận động trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội ở các khâu sản
xuất phối, trao đổi và tiêu dùng ở các hoàn cảnh cụ thể của thị trường trong
nước và thị trường thế giới để vận dụng một cách sáng tạo vào việc giải quyết
các công việc sản xuất kinh doanh đối ngoại của mình đạt hiệu quả cao nhất,
hạn chế thấp nhất những thiệt hại do sự rủi ro hoặc thiếu trách nhiệm gây ra.
Ba là, biết tìm kiếm và phát hiện kịp thời những thế mạnh của sản xuất
và thị trường trong nước và thế yếu của thị trường thế giới để thực hiện tốt

23


nhất các mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng đa phương và đa
dạng hoá của Đảng đề ra nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Bốn là, không ngừng học tập bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ
chuyên môn và trình độ ngoại ngữ, trình độ hiểu biết luật pháp, đặc biệt là
luật kinh tế để giải quyết một cách thông thạo các quan hệ giao dịch và kinh
doanh ngang tầm đòi hỏi của thị trường thế giới trong điều kiện hiện nay.
Năm là, làm công việc gì, ở đâu với nước nào, cũng đều phải đặt lợi ích
quốc gia, lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Trong bất cứ trường hợp nào
cũng phải giữ vững mục tiêu đưa nền kinh tế nước ta đi theo định hướng
XHCN, không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà đánh mất lợi ích chính trị xã hội
lâu dài.
Sáu là, góp phần thực hiện tốt các cam kết với tổ chức thương mại quốc
tế WTO và các hiệp định quan hệ thương mại song phương khác để chứng tỏ
rằng: Việt Nam luôn là đối tác làm ăn tin cậy của họ.
Hội nhập kinh tế quốc tế theo đường lối của Đảng và Nhà nước đề ra là
một quá trình lâu dài phức tạp và gian khổ nhưng nhất định sẽ thành công.
Toàn Đảng, toàn dân, các doanh nghiệp và từng người lao động có vai trò

quan trọng trong việc tham gia tích cực thực hiện các mục tiêu của chiến lược
hội nhập kinh tế quốc tế. Duươí sự lãnh đạo của Đảng và được hoạt động
trong môi trường có những thuận lợi mới chắc chắn Đảng và nhân dân ta sẽ
có đủ năng lực và trí tuệ để hoàn thành tốt những nhiệm vụ mà xã hội giao về
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế góp phần xây dựng đất nước phát triển và
giàu mạnh [7,tr. 2-3].
Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi toàn nhân loại phải bắt tay nhau, chung
sức, chung lòng vượt qua những thách thức ấy, bởi đó không phải vấn đề
riêng của một quốc gia nào mà là vấn đề mang tính toàn cầu, cấp bách. Toàn
nhân loại tiến bộ đang ra sức xây dựng một thế giới hoà bình, phát triển và
tốt đẹp.

24


Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DNNN
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Những thành tựu chủ yếu
Sau khi thực hiện chủ trương tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh
tế nước ta đã đạt được nhiều thành quả kinh tế tương đối cao. Đặc biệt đối với
các DNNN. Đây là thành phần kinh tế chủ đạo của nước ta, là công cụ để
Đảng, Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân phát triển đúng hướng,
chính vì vậy hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực có ý nghĩa và tác dụng vô
cùng to lớn đối với các DNNN. Góp phần thu hút vốn đầu tư của nước ngoài,
học hỏi áp dụng được nhiều kinh nhiệm quản lý kinh doanh tiên tiến, khoa
học – công nghệ hiện đại. Đồng thời tìm kiếm được nhiều đối tác kinh doanh
làm ăn phù hợp và thị trường mua bán rộng lớn, tạo điều kiện để phát triển lực
lượng sản xuất, lực lương lao động chất lượng cao và hình thành cơ sở hạ tầng
đồng bộ và tiền tệ chung trên thế gới…
- Mặc dù số DNNN giảm nhưng chất lượng và quy mô của DNNN lại

được tăng lên.
Bảng 2.1: Số doanh nghiệp (cơ cấu doanh nghiệp) đang hoạt động
sản xuất kinh doanh tại thời điểm 31/12 hàng năm phân theo loại hình
doanh nghiệp (tính theo tỷ lệ doanh nghiệp (tỷ lệ %)) [13,tr.181]
Năm

2005

2006

2007

2008

2009

Tổng số

112950
(100 %)

131318
(100 %)

155771
(100 %)

205732
(100 %)


248842
(100%)

4086

3706

3494

3328

3364

(3,62 %)

(2,82 %)

(2,24 %)

(1,62 %)

(1,36%)

105167
(93,11 %)

123392
(93,97 %)

147316

(94,57 %)

196778
(95,65 %)

328932
(96,01%)

4220
(3,21%)

4961
(3,19 %)

5626
(2,73 %)

6546
(2,63%)

DNNN
Doanh nghiệp
ngoài nhà nước

Doanh nghiệp có
3697
vốn đầu tư nước
(3,27 %)
ngoài


(Nguồn niên giám thống kê 2010)

25


×