Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Quản lý các dự án ODA ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.54 KB, 89 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt Tiếng Việt
ODA Viện trợ phát triển chính thức
ODF Tài chính phát triển chính thức
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GNP Tổng sản phẩm quốc dân
OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
UNDP Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc
DAC Uỷ ban Viện trợ Phát triển
NGOs Các tổ chức Phi Chính phủ
WB Ngân hàng Thế giới
ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á
AfDB Ngân hàng Phát triển Châu Phi
IBRC Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế
JBIC Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản
NIB Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu
IMF Quỹ Tiền tệ quốc tế
UNCDF Quỹ Đầu tư Phát triển của Liên hợp quốc
UNICEF Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
UNFPA Quỹ Dân số Liên hợp quốc
GEF Quỹ môi trường toàn cầu
IFAD Quỹ Phát triển nông nghiệp quốc tế
KFAED Quỹ phát triển kinh tế Ảrập của Côoet
NDF Quỹ Phát triển Bắc Âu
OFID Quỹ Phát triển quốc tế của các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC
UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc
ILO Tổ chức Lao động quốc tế
FAO Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp
WHO Tổ chức Y tế Thế giới
UNODC Cơ quan Phòng chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp quốc


AFD Cơ quan phát triển Pháp
EU Liên minh Châu Âu
EC Ủy ban châu Âu
UNHCR Cao uỷ Liên hợp quốc về người tỵ nạn
OPEC Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
WFP Chương trình lương thực thế giới
UNIDO Chương trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc
UNAIDS Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
USD Đô la Mỹ
CG Hội nghị những nhà tài trợ chính
Bộ KH&ĐT Bộ Kế hoạch và Đầu tư
DN Doanh nghiệp
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
ĐKKD Đăng ký kinh doanh
DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa
TW Trung ương
F/S Văn kiện dự án đầu tư
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Bảng số Tên bảng Trang
1 Bảng 2.1
Cơ cấu ODA ký kết theo ngành, lĩnh vực thời kỳ
2001 - 2005
42

2 Bảng 2.2 Cơ cấu giải ngân vốn ODA thời kỳ 2001 - 2005 44
3 Bảng 2.3
Cơ cấu sử dụng vốn ODA theo ngành, lĩnh vực thời
kỳ 1993 - 2007
46
4 Bảng 2.4
Cơ cấu sử dụng vốn ODA theo vùng lãnh thổ thời
kỳ 1993 - 2007
48
5 Bảng 3.1
Cơ cấu vốn ODA cho các ngành, lĩnh vực thời kỳ
2001 - 2007
69
6 Bảng 3.2
Cơ cấu vốn ODA cho các ngành, lĩnh vực cho đến
năm 2015
70

DANH MỤC CÁC HÌNH
STT Hình số Tên hình Trang
1 Hình 1.1 Chu trình quản lý dự án ODA 20
2 Hình 2.1
Giá trị vốn ODA cam kết tài trợ cho Việt Nam giai
đoạn 2001 - 2007
40
3 Hình 2.2 Các khâu trong chu trình ODA 49
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, bên cạnh đó chúng ta đang tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì vậy nhu cầu về vốn đầu tư là rất
lớn. Tuy nhiên, do trình độ khoa học công nghệ lạc hậu, thu nhập quốc dân bình
quân đầu người thấp, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế gần như không đáng kể nên
vốn đầu tư là một trong những khó khăn lớn đặt ra cho việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế - xã hội hiện nay.
Trong khi khẳng định nguồn vốn trong nước có vai trò quyết định, Việt
Nam đã coi nguồn vốn nước ngoài có vị trí quan trọng. Cùng với vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI), nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là nguồn vốn
quý. Quý bởi thời gian vay thường kéo dài hàng chục năm, thời gian ân hạn dài,
lãi suất thường thấp hơn nhiều so với vay thương mại và có khoảng 10% tổng số
là viện trợ không hoàn lại. Nguồn vốn ODA có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự
phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay, thông qua nguồn
viện trợ này mà chúng ta có thể xây dựng, cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao trình
độ nguồn nhân lực, hỗ trợ cải cách chính sách kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, xoá
đói giảm nghèo… còn các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp cận với khoa học
công nghệ hiện đại, tiếp thu trình độ quản lý tiên tiến.
Tuy nhiên, báo cáo kết quả giám sát lĩnh vực ODA của Uỷ ban Đối ngoại
cũng như đánh giá của Thường trực Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội
cùng thống nhất quan điểm: Việc sử dụng vốn ODA về cơ bản là có hiệu quả
nhưng cơ chế quản lý, giám sát, sử dụng nguồn vốn này còn nhiều vướng mắc
làm hạn chế hiệu quả của việc sử dụng nguồn tài trợ từ bên ngoài. Báo cáo thẩm
tra của Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội đã nêu lên nhiều nhược điểm
trong công tác quản lý nguồn vốn ODA cần sớm khắc phục. Dựa trên ý nghĩa
đó, em lựa chọn đề tài: “Quản lý các dự án ODA ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Thực trạng và giải pháp” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý các dự án
ODA tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ
sau đây:
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về nguồn vốn ODA và vấn đề quản lý
dự án ODA.
- Đánh giá công tác quản lý dự án ODA tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư trên
cơ sở phân tích thực trạng, từ đó chỉ ra những tồn tại và nguyên nhân của những
tồn tại đó.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý các dự án ODA.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là hoạt động quản lý các dự án
ODA.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề chỉ nghiên cứu trong phạm vi sau:
- Về không gian: Chỉ nghiên cứu các dự án ODA do Bộ Kế hoạch và Đầu
tư quản lý thực hiện.
- Về thời gian: Từ năm 2001 đến nay.
- Về giác độ nghiên cứu: Nghiên cứu trên giác độ vi mô những vấn đề
quản lý dự án ODA.
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung của chuyên đề được chia làm 3
chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý các dự án ODA và sự cần thiết phải
thực hiện quản lý các dự án ODA tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Chương 2: Thực trạng quản lý các dự án ODA tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư
thời gian qua.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý các dự án
ODA tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong thời gian tới.
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÁC DỰ ÁN ODA VÀ SỰ CẦN
THIẾT PHẢI THỰC HIỆN QUẢN LÝ CÁC DỰ ÁN ODA
TẠI BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance - ODA) là
một trong những nguồn lực từ bên ngoài có những ưu việt nổi trội (viện trợ
không hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi) rất phù hợp để hỗ trợ các nước đang phát
triển, nhất là các nước nghèo xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội. Từ giữa
thế kỷ 20 việc tranh thủ thu hút và sử dụng nguồn lực ODA đã góp phần tích cực
vào việc giảm hố ngăn cách giàu nghèo giữa các quốc gia và nâng cao đời sống
cho người dân ở các nước nghèo và nước đang phát triển.
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC ODA
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm nguồn vốn ODA
1.1.1.1. Khái niệm
Lịch sử hình thành nguồn vốn ODA: Viện trợ phát triển chính thức đã có từ
rất lâu đời, nhưng sau chiến tranh thế giới thứ II, loại hình viện trợ này mới thực
sự phổ biến và được quốc tế hoá.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, nhiều nước bị tàn phá nặng nề về kinh tế
(chủ yếu là các nước Châu Âu), trong khi đó Mỹ không những không bị suy sụp
bởi chiến tranh mà còn giàu lên trông thấy. Với sức mạnh về mọi mặt của mình,
nổi bật nhất là về kinh tế, Mỹ đã đưa ra kế hoạch Marshall, vừa để trợ giúp các

nước Tây Âu phục hồi kinh tế, vừa để chi phối, kiểm soát các nước này và ngăn
chặn việc mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô. Trong thời kỳ từ năm 1947 đến
1951 Mỹ đã rót khoảng 2,5% tổng sản phẩm quốc gia (GNP) của mình vào công
cuộc tái thiết Tây Âu. Để tiếp nhận viện trợ của kế hoạch Marshall, các nước
châu Âu đã đưa ra một chương trình phục hồi kinh tế và thành lập Tổ chức Hợp
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tác kinh tế châu Âu, về sau trở thành Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD).
Được thúc đẩy bởi những tính toán lợi ích về mặt kinh tế và chính trị, Mỹ
tìm cách mở rộng ảnh hưởng của mình thông qua việc tăng cường viện trợ ODA
cho các nước đang phát triển, những quốc gia ở Thế giới thứ ba trong thập niên
1950. Đồng thời, Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRC), tiền thân
của Ngân hàng Thế giới (WB) cũng bắt đầu chuyển trọng tâm từ công cuộc tái
thiết châu Âu sang quá trình phát triển ở Thế giới thứ ba. Các tổ chức chuyên
biệt của Liên hợp quốc, ví dụ như Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO),
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng lớn mạnh cả về số lượng và quy mô trong
các thập niên 1950 và 1960.
Cùng với sự hình thành đông đảo các tổ chức đa phương là sự ra đời của
rất nhiều tổ chức viện trợ tại các nước phát triển Tây Âu cũng như ở các nơi
khác. Trong vòng 20 năm tiếp theo, chương trình viện trợ song phương từ các
nước cung cấp viện trợ khác còn tăng hơn rất nhiều so với của Mỹ. Trong khuôn
khổ hợp tác và phát triển, các nước OECD đã lập ra những uỷ ban chuyên môn,
trong đó có Uỷ ban Viện trợ Phát triển (DAC), nhằm giúp các nước đang phát
triển đẩy nhanh phát triển kinh tế và nâng cao hiệu quả đầu tư.
Thập niên 1970 còn chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của viện trợ nước
ngoài từ các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC mới nổi lên. Trong thập niên 1980,
Nhật Bản tăng nhanh viện trợ nước ngoài, vượt qua Mỹ trở thành nước cung cấp
viện trợ lớn nhất thế giới vào cuối thập niên này. Đầu thập nhiên 1990, viện trợ

cho các nước đang phát triển tăng rất nhanh, tuy nhiên, đến những năm đầu thế
kỷ 21 này, hầu hết các quốc gia phát triển đều liên tục cắt giảm viện trợ do
những khó khăn về kinh tế trên toàn cầu, và thế giới phải liên tục xử lý, đương
đầu với những tình huống cấp bách như viện trợ chống thiên tai (động đất, sóng
thần, sâu bệnh, hạn hán…). Gần đây chủ nghĩa khủng bố đã làm cho thế giới
phải chi tiêu ngày càng nhiều tiền của hơn vào lĩnh vực này.
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hiện nay đồng thời với việc cung cấp ODA song phương (trực tiếp), các
nước còn chuyển giao ODA cho các nước đang phát triển thông qua các tổ chức
viện trợ đa phương. Các tổ chức đó bao gồm: Các tổ chức thuộc hệ thống Liên
hợp quốc như: Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Quỹ Nhi
đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Chương trình lương thực thế giới (WFP), Quỹ
Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Tổ chức Nông
nghiệp và Lương thực (FAO); Liên minh Châu Âu (EU); Các tổ chức Phi Chính
phủ (NGOs); Các tổ chức tài chính quốc tế, gồm: Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng
Phát triển Châu Phi (AfDB), Quỹ Viện trợ của OPEC; Quỹ Côoét…
Các khái niệm ODA:
Theo DAC: “Viện trợ phát triển chính thức ODA là nguồn vốn hỗ trợ
chính thức từ bên ngoài bao gồm các khoản viện trợ và cho vay với các điều
kiện ưu đãi; ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát
triển (và các tổ chức nhiều bên), được các cơ quan thừa hành của Chính phủ, các
tổ chức liên Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ tài trợ. Vốn ODA phát sinh
từ nhu cầu cần thiết của một quốc gia, một địa phương, một ngành - được tổ
chức quốc tế hay nước bạn xem xét và cam kết tài trợ, thông qua một Hiệp định
quốc tế được đại diện có thẩm quyền hai bên nhận và hỗ trợ vốn ký kết. Hiệp
định quốc tế hỗ trợ này được chi phối bởi công pháp quốc tế”.
Theo WB: “ODA là một phần của tài chính phát triển chính thức (ODF)

trong đó có yếu tố viện trợ không hoàn lại cộng với cho vay ưu đãi và phải
chiếm ít nhất 25% trong tổng viện trợ thì gọi là ODA”.
ODF là tài trợ phát triển chính thức, là tất cả các nguồn tài chính mà
Chỉnh phủ các nước phát triển và tổ chức đa phương dành cho các nước đang và
kém phát triển, loại vốn vay này gồm có ODA và các hình thức ODF khác, trong
đó ODA chiếm tỷ trọng lớn.
Theo định nghĩa của UNDP: “ODA bao gồm tất cả các khoản viện trợ
không hoàn lại và các khản cho vay đối với các nước đang phát triển, cụ thể là:
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Do khu vực chính thức thực hiện, chủ yếu nhằm thúc đẩy kinh tế và phúc lợi,
cung cấp với các điều khoản ưu đãi về mặt tài chính (nếu là vốn vay thì có phần
không hoàn lại ít nhất là 25%)”.
Theo Nghị định số 17/2007/NĐ-CP ngày 04 tháng 05 năm 2001 của
Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển
chính thức định nghĩa: “Hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA) là hoạt
động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam với Nhà tài trợ, bao gồm: Chính phủ nước ngoài và các tổ
chức liên Chính phủ hoặc liên quốc gia”.
Như vậy, có rất nhiều cách định nghĩa về ODA, song tóm lại ta có thể
định nghĩa ODA như sau: “Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là nguồn vốn từ
các cơ quan chính thức bên ngoài cung cấp (hỗ trợ) cho các nước đang và kém
phát triển hoặc các nước đang gặp khó khăn về tài chính (thông qua các cơ quan
chính thức) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội của các nước này”.
1.1.1.2. Đặc điểm
Có thể tổng quát ODA có 5 đặc điểm chính sau:
ODA do Chính phủ của một nước hoặc các tổ chức quốc tế cấp cho các cơ
quan chính thức của một nước.

ODA không cấp cho những dự án mang tính chất thương mại, mà chỉ
nhằm mục đích nhân đạo, giúp phát triển kinh tế, khắc phục khó khăn về tài
chính hoặc nâng cao lợi ích kinh tế - xã hội của nước nhận viện trợ.
ODA là nguồn vốn có nhiều ưu đãi. Tính ưu đãi thể hiện ở: Thời gian vay
thường kéo dài 40 năm, thời gian ân hạn lên tới 10 năm mới phải trả lãi
1
, lãi suất
thường thấp hơn nhiều so với vay thương mại (chỉ khoảng 1,5%/năm) và có
khoảng 10% tổng số là viện trợ không hoàn lại.
1
Thời gian ân hạn là thời gian bên đi vay không phải trả gốc và lãi
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, bản chất của viện trợ ODA mang tính nhân đạo, thể hiện nghĩa
vụ đồng thời là sự quan tâm giúp đỡ của các nước đối với nhau, tăng cường thúc
đẩy mối quan hệ đối ngoại tốt đẹp giữa các quốc gia hoặc giữa các tổ chức quốc
tế với các quốc gia.
Tuy nhiên, ODA không chỉ đơn thuần là việc giúp đỡ hữu nghị mà còn
mang tính ràng buộc, là một công cụ có hiệu quả để thiết lập và duy trì lợi ích
kinh tế và vị thế chính trị cho nước tài trợ.
Các nước viện trợ sử dụng ODA để khuyến khích sự phát triển kinh tế -
xã hội ở các nước đang phát triển theo hình mẫu mà họ mong muốn. Ví dụ,
khuyến khích phát triển kinh tế thị trường, tự dó hoá thương mại, mở cửa đầu
tư… Bên cạnh đó, việc “ràng buộc” viện trợ song phương với việc mua trang
thiết bị từ nước cung cấp viện trợ đã làm giảm bớt giá trị thực sự của những
khoản viện trợ này cho các nước đang phát triển
2
. Mục đích của viện trợ có điều
kiện là cho phép các nhà sản xuất ở nước tài trợ giành được những hợp đồng

trong khoản mua sắm bằng viện trợ nước ngoài. Thông thường, các nhà tài trợ
thường yêu cầu các nước nhận viện trợ phải dùng 50% viện trợ để mua hàng hoá
và dịch vụ của họ. Viện trợ có điều kiện còn mở ra cơ hội đặt hàng trong tương
lai cho các nhà xuất khẩu ở nước cung cấp ODA. Một khi nước tiếp nhận viện
trợ lắp đặt máy móc thiết bị từ một nhà cung cấp nhất định, họ chắc chắn sẽ
quay lại nhà cung cấp này để mua linh kiện, phụ tùng thay thế.
ODA còn như một công cụ để thực hiện ý đồ chính trị đối ngoại, xác định
vai trò và ảnh hưởng chính trị của các nước phát triển tại các quốc gia và khu
vực tiếp nhận. Như Mỹ là một trong các quốc gia thường xuyên sử dụng các
điều kiện chính trị để “mặc cả” với các quốc gia tiếp nhận viện trợ. Nhật Bản
dùng ODA để bình thường hoá quan hệ với các nước Đông Nam Á, mở rộng
2
Trung bình viện trợ có điều kiện làm giảm khoảng 20% giá trị của nó. Hơn nữa, các công ty
của các nước tài trợ được hưởng lợi từ việc viện trợ có điều kiện lại là những nhóm lợi ích luôn
vận động hành lang cho cho các dự án viện trợ cần nhiều đầu vào từ các nước tài trợ cho dù các
dự án này không phải là thích hợp nhất theo quan điểm của nước nhận viện trợ.
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giao lưu chính trị - văn hoá với các nước này nhằm tìm kiếm sự ủng hộ cho
tham vọng trở thành trung tâm văn hoá - chính trị của thế giới.
Ngoài ý đồ chính trị, các quốc gia phát triển còn gắn viện trợ với việc giải
quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường, xoá đói giảm nghèo.
ODA có khả năng tạo thành gánh nợ. Do tính chất ưu đãi của ODA nên
khi sử dụng nó người ta không ý thức ngay được gánh nặng nợ nần trong tương
lai. Nhiều dự án ODA thường không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất, kinh
doanh, nhất là cho xuất khẩu. Chính vì thế, những nước sử dụng ODA không có
hiệu quả có thể có sự tăng trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian sẽ rơi vào
cảnh nợ nần hết sức nặng nề.
1.1.2. Phân loại nguồn vốn ODA

Có nhiều cách để phân loại nguồn vốn ODA, song dựa vào các căn cứ cụ
thể, ta có cách phân loại như sau:
Căn cứ theo tính chất của khoản viện trợ: Có 2 loại:
+ Viện trợ thông thường: Viện trợ cho các nước cần vốn cho mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội hoặc có nhu cầu cải thiện tình hình tài chính quốc
gia; được thực hiện tại Hội nghị thường niên các nhà tài trợ. Với loại hình viện
trợ này, vai trò của các nhà tài trợ thể hiện ở 2 mặt: Tư vấn và phân tích kỹ
thuật; và tài trợ cho các chương trình, dự án cụ thể.
+ Viện trợ khẩn cấp: Viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế
cho các trường hợp nền kinh tế của một nước bị đe doạ nghiêm trọng do thiên
tai, địch hoạ… hoặc do khủng hoảng đột xuất về kinh tế.
Căn cứ theo phương thức hoàn trả: ODA có 3 loại:
+ Viện trợ không hoàn lại: Bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà
bên nhận không phải hoàn lại) để bên nhận thực hiện các chương trình, dự án
theo sự thoả thuận giữa các bên; có thể coi viện trợ không hoàn lại như một
nguồn thu của Ngân sách Nhà nước, được sử dụng theo hình thức Nhà nước cấp
phát lại cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Viện trợ không hoàn lại được sử dụng ưu tiên cho những chương trình và
dự án thuộc các lĩnh vực kinh tế - xã hội như: Y tế; giáo dục; các vấn đề xã hội
như xoá đói giảm nghèo, phát triển nông thôn và miền núi, cấp nước sinh hoạt…
hoặc hỗ trợ cho các chương trình, dự án phát triển và tăng cường năng lực thể
chế; bảo vệ môi trường môi sinh, quản lý đô thị; nghiên cứu khoa học và công
nghệ; hỗ trợ ngân sách; thực hiện các chương trình nghiên cứu tổng hợp nhằm
hỗ trợ Chính phủ sở tại hoạch định các chính sách hoặc cung cấp thông tin cho
các nhà đầu tư bằng các hoạt động thanh tra khảo sát, đánh giá tài nguyên, hiện
trạng xã hội kinh tế kỹ thuật các ngành, các vùng lãnh thổ.
Ngoài ra ODA không hoàn lại còn hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất

trong một số trường hợp cá biệt, trước hết là các dự án góp phần tạo việc làm;
giải quyết các vấn đề xã hội ở nước nhận viện trợ…
Viện trợ không hoàn lại được thực hiện dưới 2 dạng: Hỗ trợ kỹ thuật (các
tổ chức tài trợ thực hiện việc chuyển giao công nghệ, hoặc truyền đạt những
kinh nghiệm xử lý, bí quyết kỹ thuật… cho nước nhận ODA) và Viện trợ nhân
đạo bằng hiện vật (các nước tiếp nhận ODA dưới hình thức hiện vật).
+ Viện trợ có hoàn lại (còn gọi là tín dụng ưu đãi), chiếm tỷ trọng
cao trong tổng số vốn ODA trên thế giới: Nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một
khoản tiền (tuỳ theo quy mô và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời
gian trả nợ thích hợp. Tín dụng ưu đãi là nguồn thu phụ thêm để bù đắp thâm
hụt Ngân sách Nhà nước, vì vậy nó được sử dụng dưới hình thức tín dụng ưu đãi
đầu tư cho các dự án có khả năng thu hồi vốn, hoàn trả lại cho Nhà nước cả vốn
và lãi để trả nợ nước ngoài.
Tín dụng ưu đãi thường để ưu tiên đầu tư cho các chương trình quốc gia,
đặc biệt là các dự án và chương trình xây dựng hoặc cải tạo cơ sở hạ tầng kinh tế
xã hội thuộc các lĩnh vực: năng lượng, giao thông vận tải, nông nghiệp, thuỷ lợi,
thông tin liên lạc, thúc đẩy đầu tư của tư nhân trong và ngoài nước; bù đắp thâm
hụt cán cân thanh toán quốc tế… hoặc hỗ trợ để Chính phủ nước tiếp nhận quản
lý tốt hơn ngân sách trong giai đoạn cải cách hệ thống tài chính hay chuyển đổi
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hệ thống kinh tế (điều chỉnh cơ cấu) hoặc dùng để xoá đói giảm nghèo, tạo điều
kiện thuận lợi cho nước nhận ODA phát triển mạnh hơn cả về kinh tế và đời
sống kinh tế - xã hội.
Những điều kiện ưu đãi thường là: Lãi suất thấp, thời hạn vay nợ dài (từ
20 – 30 năm), có thời gian không trả lãi hoặc hoãn trả nợ (thời gian ân hạn) từ
10 – 12 năm.
+ ODA cho vay hỗn hợp: Kết hợp một phần ODA không hoàn lại
và một phần tín dụng ưu đãi theo các điều kiện của bên cung cấp; hoặc kết hợp

tới 3 loại hình gồm một phần ODA không hoàn lại, một phần vốn vay ưu đãi và
một phần tín dụng thương mại.
Căn cứ theo mục tiêu sử dụng: Có 4 loại:
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán (thường là viện trợ nhân đạo bằng hiện
vật – còn gọi là viện trợ hàng hoá): Gồm các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ
Ngân sách của Chính phủ, thường được thực hiện qua các dạng: Chuyển giao
tiền tệ trực tiếp cho nước nhận ODA (ít gặp) và hỗ trợ nhập khẩu (Chính phủ
nước nhận ODA tiếp nhận một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với các
khoản cam kết, bán cho thị trường nội địa và thu nội tệ).
+ Tín dụng thương mại: Thông thường nước cung cấp yêu cầu bên
tiếp nhận phải dùng phần lớn hoặc hầu hết vốn vay chỉ để mua hàng ở nước
cung cấp.
+ Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án): Nước cung cấp và
nước nhận viện trợ ký Hiệp định cho một mục đích tổng quát mà không cần xác
định khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào; chẳng hạn viện trợ cho sự phát
triển chung của giáo dục, phát triển khoa học.
+ Viện trợ dự án: Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện
ODA. Điều kiện để được nhận viện trợ dự án là “phải có dự án cụ thể, chi tiết về
các hạng mục sẽ sử dụng ODA”.
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có 2 loại: Viện trợ cơ bản (cấp cho những dự án xây dựng đường xá, cầu
cống, đê đập hoặc kết cấu hạ tầng… thường có kèm thêm một phần của viện trợ
kỹ thuật dưới dạng chuyên gia nước ngoài đến kiểm tra những hoạt động nào đó
hoặc soạn thảo xác nhận các báo cáo cho các tổ chức viện trợ); Viện trợ kỹ thuật
(gồm: Viện trợ cho hoạt động chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ thuật, lập kế
hoạch cố vấn cho các chương trình, hỗ trợ các lớp đào tạo tham quan, khảo sát ở
nước ngoài…)
Căn cứ vào nhà tài trợ: ODA có 2 loại:

+ ODA song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này
đến nước kia (nước phát triển viện trợ cho nước đang và kém phát triển) thông
qua hiệp định được ký kết giữa hai hay nhiều Chính phủ. Tuy nhiên, viện trợ
song phương thường có những ràng buộc về điều kiện cho vay, chẳng hạn bên
viện trợ sẽ đảm nhận việc đào tạo chuyên gia, cố vấn về các vấn đề có liên quan
đến việc tiếp nhận và sử dụng vốn vay cho các nước nhận, ngược lại nước nhận
viện trợ phải mua máy móc, hàng hoá của các nước viện trợ; theo các nhà phân
tích kinh tế những người hưởng lợi từ những khoản viện trợ này là những nhà
sản xuất của nước viện trợ mà các sản phẩm của họ đang mất địa vị cạnh tranh
trên thị trường quốc tế.
Xu hướng hiện nay là loại hình ODA có ràng buộc đang tăng lên, thường
có 3 loại ràng buộc: Ràng buộc về chính trị (nước cung cấp muốn nước tiếp
nhận đi theo đường lối đối nội, đối ngoại mà nước cung cấp đặt ra); Ràng buộc
về điều kiện kinh tế (những điều kiện ràng buộc được đưa ra nhằm mục đích
đảm bảo lợi ích kinh tế của nước cung cấp như: Bên nhận phải ưu tiên cho các
công ty bên cấp ODA trong việc nhận thầu các công trình sử dụng vốn ODA
hoặc nước nhận ODA phải dành phần lớn hoặc hầu hết vốn viện trợ để chi tiêu
cho các khoản ở nước cung cấp như mua hàng hoá, dịch vụ, thiết bị…; Ràng
buộc về điều kiện kinh tế - chính trị (nước cấp ODA đưa ra những điều kiện
nhằm mục đích tác động đến chính sách kinh tế - xã hội của nước nhận theo
chiều hướng mà bên cung cấp mong muốn).
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ ODA đa phương: Là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc
tế (IMF, WB, ADB…) hay tổ chức khu vực (KFAED - Quỹ phát triển kinh tế
Ảrập của Côoet – Kuwait Fund for Arab an Economic Development, EU…)
hoặc của Chính phủ một nước dành cho Chính phủ một nước nào đó, nhưng
thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như UNDP, UNICEF… Có thể các
khoản viện trợ của các tổ chức tài chính quốc tế được chuyển trực tiếp cho bên

nhận viện trợ.
Nguồn ODA đa phương chiếm khoảng 20% trong tổng số ODA trên thế
giới, nhưng được hình thành từ sự đóng góp của các nước thành viện của mỗi tổ
chức. Vì vậy, điều kiện mà các tổ chức đa phương đặt ra chủ yếu có lợi cho các
nước đóng góp (đặc biệt cho những nước có mức đóng góp cao); hầu như các
nhà tài trợ đều dựa vào tỷ lệ đóng góp của mình trong quỹ đa phương để gây áp
lực buộc bên nhận phải thực hiện những đòi hỏi của mình.
1.1.3. Vai trò của ODA đối với các nước đang phát triển
ODA là nguồn vốn rất quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển, đó
là công cụ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thể hiện ở những tác động sau:
- ODA bù đắp sự thiếu hụt vốn trong nước, qua đó tạo điều kiện để nền
kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững. Các nước đang phát triển luôn ở
tình trạng thiếu vốn trầm trọng nên ODA là nguồn vốn bổ sung cho quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. ODA đã trở thành một nguồn vốn quan trọng đáp ứng
những nhu cầu cấp bách về cân đối ngân sách và cán cân xuất nhập khẩu. Tình
trạng thiếu vốn đầu tư được ODA bù đắp để Chính phủ thực hiện những kế
hoạch phát triển. Theo các nhà kinh tế, việc sử dụng viện trợ ở các nước đang
phát triển nhằm loại bỏ sự thiếu vốn và ngoại tệ, tăng đầu tư đến điểm mà ở đó
sự tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho các nước này đạt được đến quá trình tự
duy trì và phát triển.
- Đối với những dự án phát triển hạ tầng cơ sở, ODA giúp các quốc gia
đang phát triển có điều kiện tốt hơn để xây dựng những công trình đòi hỏi vốn
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lớn, mức sinh lời thấp như đường xá, cầu, cảng, sân bay… nhưng lại là những
dự án mang lại lợi ích kinh tế - xã hội lớn, đặt nền móng cho sự phát triển về lâu
dài thông qua lĩnh vực đầu tư chính là xây dựng - nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh
tế, tạo ra sức hấp dẫn mạnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài, nhằm thu hút
cùng một lúc cả 2 nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và ODA cho

công cuộc phát triển kinh tế.
- Đồng thời nguồn ODA cũng góp phần tích cực trong việc phát triển
nông nghiệp, xoá đói giảm nghèo… Những công trình cơ sở hạ tầng về giao
thông nông thôn, điện khí hoá nông thôn, mở rộng mạng điện thoại về nông
thôn… là những dự án phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế nhưng lại mang ý nghĩa
phát triển xã hội một cách sâu sắc nếu chúng được hỗ trợ từ nguồn ODA. Thông
qua ODA, nước tiếp nhận có thể giải quyết rất nhiều việc làm cho người lao
động, một trong những vấn đề xã hội rất nhạy cảm đối với hầu hết các nước
đang phát triển. Đó là do số lượng việc làm được hình thành từ chính quá trình
triển khai các dự án ODA, và nhiều dự án đầu tư trong nước hoặc FDI kèm theo
được triển khai và điều đó dẫn đến nhu cầu tuyển dụng lực lượng lao động của
nước sở tại.
- Thông qua các dự án ODA, các nước đang phát triển có điều kiện trang
bị, tiếp nhận những công nghệ cao ở nhiều lĩnh vực, trong đó có cả những lĩnh
vực mũi nhọn phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mình, làm
tiền đề cho việc phát triển các ngành công nghiệp chế tạo khác. Đây thực sự là
cơ hội lớn cho các quốc gia đang phát triển, bởi lẽ có nhiều loại công nghệ mà
các nước này không thể có được qua phương thức thương mại thuần tuý do các
rào cản bảo vệ công nghệ của các nước phát triển. Đồng thời, hàng loạt bí quyết
công nghệ cũng được chuyển giao.
- ODA hỗ trợ các nước tiếp nhận hoàn thiện các thể chế và chính sách từ
khâu hoạch định đến các biện pháp thực thi. ODA giúp các nước nghèo cải cách
hành chính kinh tế thông qua các chương trình viện trợ dự án, làm cho cơ chế
quản lý kinh tế ở những nước này tiếp cận với những chuẩn mực chung quốc tế.
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- ODA tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội của các
địa phương và vùng lãnh thổ, đặc biệt là ở các thành phố lớn: Nguồn vốn này
trực tiếp giúp cải thiện điều kiện về vệ sinh, y tế, cung cấp nước sạch, bảo vệ

môi trường…
- ODA giúp các nước đang phát triển đảm bảo một môi trường đầu tư tốt
(cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống chính sách, pháp luật ổn định… ) từ đó
tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tạo điều kiện để mở
rộng đầu tư phát triển trong nước. Các nhà đầu tư khi đầu tư vào các nước đang
và chậm phát triển thường e ngại đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng kinh tế - xã
hội, các dự án cải cách chính sách kinh tế… do các dự án này đòi hỏi vốn lớn,
yêu cầu theo dõi và quản lý trong thời gian dài, lãi suất thấp và thu hồi vốn
chậm; mà họ thường đầu tư vào các lĩnh vực, dự án có quy mô vừa phải, dễ quản
lý, lãi suất cao và thu hồi vốn đầu tư nhanh. Do có nguồn vốn ODA mà môi
trường đầu tư tại các nước đang phát triển được cải thiện, đảm bảo tính ổn định
của dự án đầu tư, chi phí đầu tư thấp, hiệu quả đầu tư cao nên đây sẽ là sức hút
mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài theo tỷ lệ xấp xỉ
2USD/1USD viện trợ phát triển chính thức, đồng thời cũng tạo động lực cho các
nhà đầu tư trong nước.
- Thông qua bên cung cấp ODA, nước nhận viện trợ có thêm cơ hội tham
gia vào các tổ chức tài chính thế giới, đạt được sự giúp đỡ lớn hơn về vốn từ các
tổ chức này. Nước viện trợ ODA đóng vai trò là chiếc cầu nối giữa nước cần
vốn với các tổ chức quốc tế.
1.2. QUẢN LÝ DỰ ÁN ODA
1.2.1. Khái niệm quản lý dự án ODA
Khái niệm dự án: Có nhiều cách định nghĩa dự án. Tuỳ theo mục đích mà
nhấn mạnh một khía cạnh nào đó. Trên phương diện phát triển, có hai cách hiểu
về dự án: Cách hiểu “tĩnh” và cách hiểu “động”. Theo cách hiểu “tĩnh” thì dự án
là hình tượng về một tình huống (một trạng thái) mà ta muốn đạt tới. Theo cách
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiểu thứ hai “động” có thể định nghĩa dự án như sau: “Theo nghĩa chung nhất,
dự án là một lĩnh vực hoạt động đặc thù, một nhiệm vụ cần phải được thực hiện

với phương pháp riêng, nguồn lực riêng và theo một kế hoạch tiến độ nhằm tạo
ra một thực thể mới”.
Trên phương diện quản lý, có thể định nghĩa dự án như sau: “Dự án là
những nỗ lực có thời gian nhằm tạo ra một sản phẩm hoặc dịnh vụ duy nhất”.
Khái niệm quản lý dự án: “Quản lý dự án là quá trình lập kế hoạch, điều
phối thời gian, nguồn lực và giám sát quá trình phát triển của dự án nhằm đảm
bảo cho dự án hoàn thành đúng thời hạn, trong phạm vi ngân sách được duyệt và
đạt được các yêu cầu đã định về kỹ thuật và chất lượng sản phẩm dịch vụ, bằng
những phương pháp và điều kiện tốt nhất cho phép”.
Khái niệm quản lý dự án ODA: “Quản lý ODA là quá trình lập kế hoạch,
tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra việc thu hút và sử dụng ODA nhằm đạt được mục
tiêu của bên tài trợ và bên nhận tài trợ”.
1.2.2. Đặc điểm của quản lý dự án ODA
1.2.2.1. Đặc điểm của quản lý dự án nói chung
Quản lý dự án có một số đặc điểm chủ yếu sau:
- Tổ chức quản lý dự án là một tổ chức tạm thời. Tổ chức quản lý dự án
được hình thành để phục vụ dự án trong một thời gian hữu hạn. Trong thời gian
tồn tại dự án, nhà quản lý dự án thường hoạt động độc lập với các phòng ban
chức năng. Sau khi kết thúc dự án, cần phải tiến hành phân công lại lao động, bố
trí lại máy móc thiết bị.
- Công việc của dự án đòi hỏi có sự tham gia của nhiều phòng chức năng.
Người đứng đầu dự án và những người tham gia quản lý dự án là những người
có trách nhiệm phối hợp mọi nguồn lực, mọi người từ các phòng chuyên môn
nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của dự án. Tuy nhiên, giữa họ thường nảy
sinh mâu thuẫn về vấn đề nhân sự, chi phí, thời gian và mức độ thoả mãn các
yêu cầu kỹ thuật.
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.2.2. Đặc điểm riêng của quản lý dự án ODA

- Có sự tham gia của 2 bên trong quá trình quản lý: Bên tài trợ và bên nhận
tài trợ. Trong đó, bên tài trợ là những quốc gia phát triển với tiềm lực về vốn,
công nghệ mạnh, còn bên nhận tài trợ là những nước đang và kém phát triển.
- Hoạt động của dự án ODA phải tuân thủ các quy định của 2 bên. Mỗi
bên đều có những quy định riêng về việc thu hút, cung cấp, giải ngân và sử dụng
ODA, bên cạnh đó còn có những Hiệp định quốc tế quy định về tài trợ ODA,
Hiệp định được ký kết giữa 2 bên chi phối quá trình quản lý các dự án ODA.
- Các bên liên quan trong vấn đề quản lý dự án ODA thường là những chủ
thể khác nhau về quốc tịch do đó ngôn ngữ, văn hoá, trình độ quản lý cũng khác
nhau. Từ đó dẫn đến những xung đột trong quá trình quản lý.
- Quản lý dự án ODA phải đáp ứng những yêu cầu của chủ đầu tư và nhà
tài trợ, bao gồm:
+ Mục tiêu của chủ đầu tư và nhà tài trợ
+ Thời gian, chi phí và chất lượng của dự án
+ Những yêu cầu xác định (nhu cầu) và những yêu cầu không xác
định (mong muốn).
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý dự án ODA
1.2.3.1. Nhân tố khách quan
Quá trình quản lý các dự án ODA chịu tác động của rất nhiều nhân tố,
khách quan, đó là:
- Chiến lược, mục đích cung cấp ODA trong từng thời kỳ của nhà tài trợ.
Chiến lược cung cấp ODA của các nhà tài trợ cần được phân tích xem xét một
cách tỷ mỷ, vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn vốn cung cấp cũng như lĩnh vực
tài trợ. Mục đích của bên viện trợ khi cấp ODA cũng ảnh hưởng rất nhiều đến
quá trình quản lý, nếu mục tiêu này thay đổi thì sẽ ảnh hưởng đến quốc gia tiếp
nhận về cả các dự án đang được triển khai và chưa được triển khai. Nó có thể
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ảnh hưởng để tỷ lệ giải ngân, làm chậm tiến độ dự án và tác động rất nhiều đến

quản lý dự án.
- Môi trường thực hiện dự án: Môi trường tự nhiên, văn hoá xã hội, môi
trường chính sách và quốc tế. Các yếu tố này ảnh hưởng đến cấu trúc tổ chức dự
án, do đó nó cũng ảnh hưởng tới quản lý dự án.
- Hệ thống chính sách, pháp luật của các bên tham gia và các Hiệp định
được ký kết. Nếu hệ thống chính sách, pháp luật của các bên có nhiều điểm
tương đồng và Hiệp định ký kết cuối cùng đạt được sự nhất trí cao giữa các bên
thì sẽ giúp cho việc quản dễ dàng hơn, ít có xung đột. Tuy nhiên, nếu hệ thống
pháp luật giữa các bên có điểm mâu thuẫn thì dễ dấn đến việc dự án bị tạm
ngừng, treo dự án nếu không tìm được cách giải quyết thoả đáng.
- Mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội giữa các bên. Nếu mối quan hệ này
tốt đẹp, ổn định thì sẽ góp phần thúc đẩy công tác quản lý tốt các dự án ODA và
ngược lại, sẽ làm ảnh hưởng rất nhiều đến công tác quản lý theo chiều hướng
không tốt.
1.2.3.2. Nhân tố chủ quan
Bên cạnh những nhân tố khách quan thì quá trình quản lý các dự án ODA
còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan sau:
- Mô hình tổ chức, quản trị, điều hành nguồn vốn ODA của các bên. Tuỳ
theo trình độ quản lý, nguồn nhân lực của mỗi bên, tuỳ vào từng dự án mà sử
dụng các mô hình quản lý khác nhau. Bên tài trợ là những chuyên gia nước
ngoài được cử đi công tác làm nhiệm vụ quản lý, do đó thường sử dụng mô hình
cấu trúc dạng dự án vì đơn giản và huy động nguồn lực ở mức tối thiểu mà đạt
được hiệu quả công việc cao. Còn bên nhận tài trợ có thể áp dụng một trong ba
mô hình là mô hình cấu trúc dạng chức năng, dạng dự án và dạng ma trận. Mỗi
một loại cấu trúc thì cách thức tổ chức quản lý lại khác nhau.
- Quá trình quản lý cần phải tính đến mức độ hấp thụ vốn của nước nhận
viện trợ. Mức độ hấp thụ vốn ảnh hưởng trực tiếp tới tiến độ thời gian của dự án,
giải ngân nhanh hay chậm là phụ thuộc vào yếu tố này.
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
21

Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Năng lực và trình độ quản lý của cán bộ dự án. Đây là một yếu tố quan
trọng quyết định đến chất lượng của quản lý. Các cán bộ quản lý cần phải nhận
thức đầy đủ tầm quan trọng và tính chất của ODA để thực sự làm chủ việc khai
thác và sử dụng nguồn vốn ODA.
- Công tác quản trị rất cần sự hỗ trợ của công nghệ thông tin để có thể ra
các quyết định kịp thời và chính xác nhằm đốc thúc thực hiện công việc, xử lý
các vướng mắc, điều chỉnh những sai lệch. Có một hệ thống thông tin liền mạch,
thông suốt giữa các bộ phận, các cấp quản lý của các bên hay của các bên lẫn
nhau sẽ giúp cho việc quản lý chính xác và ít xung đột. Do đó cơ sở hạ tầng và
khoa học công nghệ được sử dụng để giúp cho quá trình quản lý ảnh hưởng rất
nhiều đến chất lượng quản lý.
1.2.4. Nội dung quản lý dự án ODA
Dự án là một thực thể thống nhất, thời gian thực hiện dài và có độ bất
định nhất định nên các tổ chức, đơn vị thường chia dự án thành một số giai đoạn
để quản lý thực hiện. Mỗi giai đoạn được đánh dấu bởi việc thực hiện một hoặc
nhiều công việc. Tổng hợp các giai đoạn này được gọi là chu kỳ của dự án. Chu
kỳ dự án xác định thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc và thời hạn thực hiện dự
án. Chu kỳ dự án xác định những công việc nào sẽ được thực hiện trong từng
pha và ai sẽ tham gia thực hiện. Nó cũng chỉ ra những công việc nào còn lại ở
giai đoạn cuối sẽ thuộc về và không thuộc về phạm vi dự án.
Quản lý dự án ODA bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu. Đó là việc lập kế
hoạch, điều phối thực hiện mà nội dung chủ yếu là quản lý tiến độ thời gian, chi
phí và thực hiện giám sát các công việc dự án nhằm đạt được những mục tiêu
xác định.
Các giai đoạn của quá trình quản lý dự án ODA hình thành một chu trình
năng động từ việc lập kế hoạch đến điều phối thực hiện và giám sát, sau đó phản
hồi cho việc tái lập kế hoạch dự án như trình bày ở hình 1.1 sau:
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
22

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hình 1.1: Chu trình quản lý dự án ODA
1.2.4.1. Lập kế hoạch
Lập kế hoạch dự án là giai đoạn chứa đựng những công việc phức tạp và
quan trọng nhất của một dự án. Lập kế hoạch tốt cho phép hoàn thành các mục
tiêu đề ra và thực hiện dự án thành công. Trong giai đoạn này bên tiếp nhận
ODA phải trải qua các bước sau:
- Tổ chức và tham dự Hội nghị những nhà tài trợ chính (CG - Consultance
Group), tại đây đại biểu của nước xin viện trợ sẽ nêu những yêu cầu về viện trợ
của nước mình, đồng thời cam kết một số vấn đề theo yêu cầu của bên tài trợ.
Thời gian và địa điểm tổ chức Hội nghị CG do bên tiếp nhận phối hợp với WB
đề nghị.
- Thẩm định dự án: Quá trình thẩm định dự án có khi do phía nhận viện
trợ thực hiện, nhưng cũng có khi cả 2 bên cung cấp và tiếp nhận cùng phối hợp
thẩm định.
- Đàm phán và ký kết các Hiệp định cấp Chính phủ về viện trợ.
- Thoả thuận và ký kết Hiệp định khung về chi tiết (nguồn cung cấp, hình
thức viện trợ, vốn đối ứng trong nước…).
- Lập dự án: Có thể bên nhận viện trợ lập dự án; nhưng thường các nhà tài
trợ muốn quản lý nguồn vốn cho vay nên sẽ tự lập dự án hoặc tư vấn cho bên
nhận viện trợ lập dự án. Lập dự án bao gồm các công việc: Thành lập nhóm dự
án, xác định cấu trúc tổ chức của nhóm dự án; phân tích công việc của dự án; lập
kế hoạch tiến độ thời gian; lập kế hoạch ngân sách; lập kế hoạch thực hiện dự án;
lập kế hoạch nguồn lực cần thiết; lập kế hoạch chi phí và dự báo dòng tiền thu.
Kết thúc giai đoạn này, tiến trình thực hiện dự án có thể được bắt đầu.
Thành công của dự án phụ thuộc vào chất lượng và sự chuẩn bị kỹ lưỡng của
các kế hoạch trong giai đoạn này.
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
23
Lập kế hoạch

- Thiết lập mục tiêu
- Dự tính nguồn lực
- Xây dựng kế hoạch
Điều phối thực hiện
- Bố trí tiến độ thời gian
- Phân phối nguồn lực
- Phối hợp các hoạt động
- Khuyến khích động viên
Giám sát
- Đo lường kết quả
- So sánh với mục tiêu
- Báo cáo
- Giải quyết các vấn đề
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.4.2. Thực hiện dự án
Giai đoạn thực hiện là giai đoạn quản lý dự án bao gồm các công việc cần
thực hiện như giải phóng mặt bằng, xét thầu xây lắp và mua sắm trang thiết bị,
báo cáo tiến độ thực hiện dự án và rút vốn. Đây là giai đoạn chiếm nhiều thời
gian và nỗ lực nhất. Những vấn đề cần xem xét trong giai đoạn này là những yêu
cầu kỹ thuật cụ thể, vấn đề so sánh, đánh giá lựa chọn nhà thầu thực hiện từng
gói công việc của dự án.
Quản lý trong giai đoạn này chính là quá trình phân phối nguồn lực bao
gồm tiền vốn, lao động, thiết bị và đặc biệt quan trọng là điều phối và quản lý
tiến độ thời gian. Giai đoạn này chi tiết hoá thời gian, lập lịch trình cho từng
công việc và toàn bộ dự án (khi nào bắt đầu, khi nào kết thúc), trên cơ sở đó, bố
trí tiền vốn, nhân lực và thiết bị phù hợp.
Quản lý thời gian và tiến độ dự án là quá trình quản lý bao gồm việc thiết
lập mạng công việc, xác định thời gian thực hiện từng công việc cũng như toàn
bộ dự án và quản lý tiến trình thực hiện các công việc dự án trên cơ sở các
nguồn lực cho phép và những yêu cầu về chất lượng đã định. Mục đích của quản

lý thời gian là làm sao để dự án hoàn thành đúng thời hạn trong phạm vi ngân
sách và nguồn lực cho phép, đáp ứng những yêu cầu đã định về chất lượng.
Quản lý thời gian là cơ sở để giám sát chi phí cũng như các nguồn lực khác cần
cho công việc dự án.
Nguồn lực sử dụng cho dự án bao gồm tiền vốn, lao động, máy móc thiết
bị, nguyên vật liệu… và trong quản lý dự án, yếu tố thời gian được xem là một
loại nguồn lực rất quan trọng, đặc biệt, khi xem xét mối quan hệ của thời gian
với các yếu tố nguồn lực khác. Một trong những mục tiêu quan trọng nhất của
quản lý dự án là đúng tiến độ, tiến độ thời gian sẽ được thực hiện đúng nếu có
đủ quy mô nguồn lực cần thiết.
Ngân sách dự án trình bày kế hoạch chi và thu của dự án. Nó được chi tiết
theo các khoản mục và từng công việc của dự án. Bằng việc lập ngân sách, cán bộ
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quản lý dự án có thể cụ thể hoá mục tiêu dài hạn, các kế hoạch để thực hiện mục
tiêu đó và phân phối các nguồn lực cần thiết. Trên cơ sở so sánh giữa chi phí và
kết quả có thể kiểm soát và điều phối các hoạt động dự án. Đồng thời, cán bộ
quản lý dự án có thể điều chỉnh ngân sách cho phù hợp mục tiêu và nguồn lực.
Kết thúc giai đoạn này, các hệ thống được xây dựng và kiểm định, dự án
được vận hành.
1.2.4.3. Giám sát, đánh giá dự án
Giám sát là quá trình theo dõi kiểm tra tiến trình dự án, phân tích tình
hình thực hiện, báo cáo hiện trạng và đề xuất biện pháp giải quyết những vướng
mắc trong quá trình thực hiện. Cùng với hoạt động giám sát, công tác đánh giá
dự án giữa kỳ và cuối kỳ cũng được thực hiện nhằm tổng kết rút kinh nghiệm,
kiến nghị các pha sau của dự án.
Quản lý dự án trong giai đoạn này là việc đo lường, thu thập, ghi chép, so
sánh đối chiếu và phân tích thông tin về tiến độ thời gian, chi phí và tiến trình
thực hiện nhằm đánh giá thường xuyên mức độ hoàn thành và đề xuất những

biện pháp và hành động cần thiết để thực hiện thành công dự án. Giám sát được
thực hiện ở cấp độ điều hành và thực hiện liên tục.
Đánh giá dự án là quá trình xác định, phân tích một cách hệ thống và
khách quan các kết quả, mức độ hiệu quả và các tác động, mối liên hệ của dự án
trên cơ sở các mục tiêu của chúng.
Kết thúc toàn bộ chu trình dự án là việc thanh toán và nghiệm thu công
trình.
1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CÁC DỰ ÁN ODA Ở BỘ KẾ
HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
1.3.1. Từ phía các nhà tài trợ
Thuần tuý về mặt kinh tế, ODA là khoản đầu tư ra nước ngoài của các
nước cung cấp ODA với mục đích có lợi cho họ, dù là đầu tư trực tiếp hay gián
SV: Trần Thị Thu Trang Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
25

×