LỜI MỞ ĐẦU
Những năm gần đây nền tài chính toàn cầu phát triển mạnh mẽ, cùng với xu hướng ấy
nền tài chính Việt Nam phát triển nhanh nhanh của các ngân hàng thương mại, công ty tài
chính, công ty bảo hiểm, thi trường chứng khoán…Nhưng trong đó sự phát triển mạnh mẽ
và quan trọng hơn cả là hoạt động của những ngân hàng thương mại. Sự phát triển về cả
quy mô, nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại đã góp phần rất lớn trong sự phát triển
chung của nền kinh tế nước ta, hoàn thành nhiệm vụ hiện đại hóa đất nước.
Ngân hàng thương mại là hệ thần kinh, trái tim của nền kinh tế, là dấu hiệu báo hiệu
trạng thái sức khỏe của nền kinh tế. Các ngân hàng mạnh, nền kinh tế mạnh. Ngược lại, các
ngân hàng yếu, nền kinh tế sẽ yếu kém. Thậm chí nếu ngân hàng đổ vỡ nền kinh tế sẽ lâm
vào khủng hoảng và sụp đổ.
Với tư cách là tổ chức trung gian tài chính nhận tiền gửi và tiến hành hoạt động cho
vay và đầu tư, ngân hàng thương mại đã xâm nhập mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội như là
người mở đường, người tham gia, người quyết định đối với mọi quá trình sản xuất kinh
doanh. Ngân hàng thương mại ngày càng đóng vai trò là trung tâm tiền tệ, tín dụng và thanh
toán của các thành phần kinh tế là định chế quan trọng nhất của nền kinh tế. Tại các nước
đang phát triển như Việt Nam, ngân hàng thương mại đóng một vai trò rất quan trọng vì nó
đảm nhận vai trò giữ cho dòng vốn của nền kinh tế được lưu thông.
Với sự quản lý của ngân hàng nhà nước, các ngân hàng thương mại như ngân hàng
Nông nghiệp phát triển nông thôn, ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng ngoại
thương…đã và đang có những thành tựa cũng như khó khăn trong tiến trình hội nhập.
Nhưng từng bước đã cho thấy sự trưởng thành của mình trong nền tài chính toàn cầu.
Với mong muốn giúp các bạn sinh viên hiểu rõ hơn về các hoạt động cũng như tình
hình các ngân hàng thương mại ở nước ta trong những năm vừa qua nên nhóm chúng tôi
xây dựng bài tiểu luận này nhằm cung cấp cho các bạn sinh viên các khái niệm cơ bản về
Ngân hàng thương mại, cái nhìn khái quát về các hoạt động, tình hình của ngân hàng
thương mại ở Việt Nam trong thời gian gần đây và các biên pháp kiến nghị nhằm đẩy mạnh
phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại.
Vì hạn chế về mặt thời gian và kiến thức, cũng như các điều kiện khác nên bài tiểu
luận không tránh khỏi những thiếu sót, Kính mong cô cùng các bạn góp ý để bài tiểu luận
hoàn thành tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHTM: ngân hàng thương mại
NHTW: ngân hàng trung ương
TNHH: trách nhiệm hữu hạn
TCTD: tổ chức tín dụng
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Bảng cân đối kế toán của NHTM
Bảng 2: Phân biệt NHTM và TCTD phi ngân hàng
Bảng 3: Một số chỉ tiêu chính của một số ngân hàng đang niêm yết
Chương 1 Cơ sở lý luận
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1 Các quan niệm về ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát
triển của nên sản xuất hàng hóa: các ngân hàng thương mại xuất hiện trong nền
kinh tế với tư cách là các tổ chức trung gian nhận tiền gửi của các tổ chức kinh
tế có dư thừa và trên cơ sở đó cấp tín dụng cho các cơ sở khác có nhu cầu tức là
luân chuyển vốn một cách gián tiếp. Hệ thống ngân hàng thương mại có hoạt
động phạm vi rộng rãi vì nó cung cấp các dịch vụ tài chính cho tất cả các lĩnh
vực của nền kinh tế và các tầng lớp dân cư. Tùy theo cách tiếp cận mà có các
quan điểm khác nhau về ngân hàng thương mại, điều đó còn phụ thuộc vào tính
chất và mục tiêu của nó trên thị trường tài chính của từng nước.
- Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại:
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp: Một doanh nghiệp đặc
biệt hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng.
- Theo quan điểm của các nhà kinh tế Hoa Kỳ:
Ngân hàng thương mại là một công ty chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt
động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. [2]
- Theo quan điểm của các nhà kinh tế Pháp:
Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường
xuyên nhận được của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các
số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ
tài chính. [2]
- Theo quan điểm của các nhà kinh tế Anh:
Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính trực tiếp giao dịch với công chúng
để huy động tiền gửi,cho vay và cung cấp các hoạt động tài chính khác cho công
chúng. [2]
- Theo quan điểm của các nhà kinh tế Ấn Độ:
Ngân hàng thương mại là cơ sở nhận ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư.
- Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam:
Trang 5
Chương 1 Cơ sở lý luận
Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện kinh doanh tiền tệ
và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi sử dụng số
tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán, và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan. [2]
- Mặc dù có những quan điểm khác nhau về ngân hàng thương mại nhưng
tựu chung lại có thể hiểu tổng quát:
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoạt động
trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chính là huy động tiền gửi dưới các hình thức
khác nhau của khách hàng, trên cơ sở nguồn vốn huy động này và vốn chủ sở
hữu của ngân hàng để thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư, chiết khấu đồng
thời thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, môi giới, tư vấn và một số dịch vụ khác
cho các chủ thể trong nền kinh tế.
1.2.1 Chức năng của ngân hàng thương mại
1.2.1.1 Chức năng trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại (NHTM). Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng,
NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn.
Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa
đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi
suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham
gia: người gửi tiền và người đi vay... [2]
Hoạt động của NHTM mang tính chất kinh doanh bởi vì khi cho vay
NHTM đặt ra một mức lãi suất cao hơn so với khi huy động vốn. [2]
Như vậy, với chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã hổ trợ khắc phục
những hạn chế của cơ chế phân phối vốn trực tiếp, tạo ra một kênh chuyển vốn
rất quan trọng. Kết quả của những hoạt động đó góp phần nâng cao hiệu quả
trong việc điều chuyển vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo
thêm nhiều việc làm cho người lao động. [2]
Trang 6
Chương 1 Cơ sở lý luận
1.2.1.2 Chức năng trung gian thanh toán
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân,
thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản
tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền
gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.
[2]
Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi
như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng…
Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù
hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền
để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng
một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể
kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an
toàn. Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh
tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. [2]
Qua chức năng này, NHTM cũng đã góp phần giám sát kỷ luật tài chính,
giữ gìn kỷ cương phép nước trong toàn xã hội.
1.2.1.3 Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân
NHTM. Với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn
tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc
thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. [2]
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM
là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian
tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay
ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi
số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ
phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ…
Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán
trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. [2]
Trang 7
Chương 1 Cơ sở lý luận
Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của
ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với NHTM. do vậy ngân hàng trung ương
có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn. [2]
1.3.1 Nghiệp vụ của ngân hàng thương mại
1.3.1.1 Nghiệp vụ nguồn vốn (Tài sản Nợ - NGUỒN VỐN)
Nghiệp vụ huy động nguồn vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với
bản thân ngân hàng cũng như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng
thương mại được phép sử dụng những công cụ và biện pháp cần thiết mà luật
pháp cho phép để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội làm nguồn vốn
tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế.Đây là nghiệp vụ hình thành nguồn vốn
của NHTM. Nguồn vốn của NHTM gồm có:
* Vốn tự có và coi như tự có (vốn chủ sở hữu) gồm:
- Vốn pháp định: Là mức vốn tối thiểu phải có khi thành lập ngân hàng, nó
được hình thành tuỳ theo tính chất sở hữu của các ngân hàng.
- Quỹ dự trữ: Gồm hai loại là: Quỹ dự trữ để bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự
trữ đặc biệt để bù đắp rủi ro.
- Vốn coi như tự có gồm: Lợi nhuận chưa chia hoặc các quỹ chưa sử dụng
như quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng, quỹ khen thưởng, quỹ phúc
lợi, khấu hao tài sản cố định.
* Vốn huy động: Ngân hàng huy động tiền gửi với các hình thức:
- Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử
dụng bất kỳ lúc nào. Bộ phận tiền gửi này bao gồm: tiền gửi thanh toán được
bảo quản trên hai tài khoản là tài khoản séc và tài khoản vãng lai. Ngoài ra còn
có tiền gửi không kỳ hạn để đảm bảo an toàn tài sản của khách hàng và tiền gửi
tiết kiệm không kỳ hạn của các tầng lớp dân cư với tính chất là các khoản tiền để
dành.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có quy định cụ thể về thời gian rút
tiền của khách hàng.
Cùng với việc huy động tiền gửi, ngân hàng còn huy động vốn bằng các
hình thức khác như: phát hành chứng chỉ tiền gửi, phát hành trái phiếu.
* Vốn đi vay: Gồm có:
- Vay NHTM và các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng.
- Vay ngân hàng trung ương mà cụ thể là xin tái cấp vốn tại ngân hàng
trung ương.
Trang 8
Chương 1 Cơ sở lý luận
- Vay nước ngoài và các tổ chức tín dụng khác.
* Các nguồn vốn khác: Vốn thanh toán và vốn phát sinh từ các
nghiệp vụ đại lý, vốn nhận ủy thác .
Trong cơ cấu nguồn vốn của NHTM, vốn tự có và coi như tự có chiếm tỷ
trọng nhỏ nhưng mang tính chất ổn định và là cơ sở cho việc thu hút các nguồn
vốn khác. Vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhưng thường xuyên biến động,
nhất là bộ phận tiền gửi không kỳ hạn, nhưng nó lại là bộ phận vốn quan trọng
trong hoạt động của ngân hàng, do đó, ngân hàng phải thường xuyên tìm mọi
biện pháp để mở rộng phần vốn này.
Bảng 1: Bảng cân đối kế toán của NHTM
Trang 9
Chương 1 Cơ sở lý luận
1.3.1.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn [Tài sản Có – TÀI SẢN] ( cấp tín dụng
và đầu tư):
Nghiệp vụ cho vay và đầu tư là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất,
quyết định đến khả năng tồn tại và hoạt động của ngân hàng thương mại. Đây là
các nghiệp vụ cấu thành bộ phận chủ yếu và quan trọng của tài sản Có của ngân
hàng. Thành phần TS Có của ngân hàng bao gồm:
Trên cơ sở hình thành các nguồn vốn, NHTM sử dụng vốn vào các nghiệp vụ
sau:
* Nghiệp vụ ngân quỹ
- Duy trì một mức tiền mặt tại quỹ để đáp ứng yêu cầu chi trả tiền mặt thường
xuyên cho khách hàng.
- Tiền gửi của NHTM tại ngân hàng trung ương (NHTW) gồm tiền gửi dự trữ
bắt buộc và tiền gửi thanh toán để phục vụ các khoản thanh toán giữa các ngân
hàng qua vai trò trung gian thanh toán của NHTM.
- Tiền gửi tại các NHTM để có thể thực hiện nghiệp vụ thanh toán, chuyển tiền
cho khách hàng.
* Nghiệp vụ cho vay của NHTM
- Nghiệp vụ chiết khấu: Thực chất đây là nghiệp vụ cho vay ngắn hạn nhưng
khoản cho vay mang tính chất đặc biệt vì người vay chuyển quyền đòi nợ trên
thương phiếu sang ngân hàng.
- Cho vay ứng trước: Thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng trong đó khách
hàng được sử dụng tiền vay trong một thời hạn nhất định.
- Cho vượt chi trên tài khoản vãng lai: là hình thức cấp tín dụng đặc biệt, trong
đó khách hàng được phép dư nợ trên tài khoản vãng lai theo một hạn mức tín
dụng trên cơ sở hợp đồng tín dụng.
- Tín dụng ngân quỹ
- Tín dụng bằng chữ ký
- Tín dụng thuê mua
- Tín dụng trả góp
Trong các nghiệp vụ tài sản có thì nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ sinh lời
chủ yếu đối với NHTM nhưng cũng là nghiệp vụ có khả năng gặp rủi ro nên
ngân hàng phải hết sức chú ý khi thực hiện nghiệp vụ này. Nghiệp vụ ngân quỹ
không có khả năng sinh lời nhưng lại đảm bảo duy trì khả năng thanh toán.
* Nghiệp vụ đầu tư
Trang 10
Chương 1 Cơ sở lý luận
- Đầu tư theo dự án ngân hàng
- Đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán: chứng khoán nhà nước, cổ phiếu, trái phiếu
công ty.
+ Dự trữ (Reserves)
+ Cho vay (loans)
+ Đầu tư (Investment)
+ Tài sản Có khác (Other Assets)
1.3.1.3 Nghiệp vụ Trung gian
Những dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng
kể cho nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra
thu nhập cho ngân hàng bằng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí… có vị trí xứng
đáng trong giai đoạn phát triển hiện nay của ngân hàng thương mại. Các hoạt
động này gồm:
– Các dịch vụ thanh toán thu chi hộ cho khách hàng (chuyển tiền, thu hộ séc,
dịch vụ cung cấp thẻ tín dụng, thẻ thanh toán..)
– Nhận bảo quản các tài sản quí giá, các giấy tờ chứng thư quan trọng của công
chúng.
– Bảo quản, mua bán hộ chứng khoán theo uỷ nhiệm của khách hàng.
– Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng bạc đá quí.
– Tư vấn tài chính, giúp đỡ các công ty, xí nghiệp phát hành cổ phiếu, trái
phiếu…
– Dịch vụ tài khoản.
– Dịch vụ chuyển tiền và thanh toán trong nước và quốc tế.
– Môi giới chứng khoán.
– Phát hành cổ phiếu, trái phiếu cho doanh nghiệp.
– Dịch vụ ngân quỷ.
– Dịch vụ cho thuê két sắt.
– Dịch vụ tư vấn tài chính và đầu tư.
– Khác….
Trang 11
Chương 2 Thực trạng diễn biến hiện nay của các ngân hàng thương mại
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG _ DIỄN BIẾN HIỆN NAY
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1 Hệ thống ngân hàng thương mại
2.1.1 Hệ thống NHTM trên thế giới
Căn cứ vào các tiêu thức sau đây mà NHTM được phân thành các loại:
Căn cứ vào tiêu thức sở hữu vốn và tài sản:
- NHTM công là NHTM do nhà nước cấp toàn bộ vốn điều lệ và bộ máy lãnh đạo do Nhà
nước bổ nhiệm. [1]
- NHTM tư là NHTM do tư nhân hùn vốn dưới hình thức đóng góp cổ phần. [1]
Căn cứ theo tiêu thức quốc tịch:
- NHTM bản xứ là NHTM do Nhà nước hoặc công dân của nước sở tại sở hữu. [1]
- NHTM nước ngoài là NHTM do nhà nước hoặc công dân nước ngoài sở hữu. [1]
Căn cứ vào tiêu thức cơ quan cấp giấy phép hoạt động
- NHTM toàn quốc ( hay còn gọi là NHTM liên bang ở những nước theo thể chế liên bang)
là loại hình NHTM do Chính phủ trung ương hoặc do một cơ quan quản lý trung ương
(thường là NHTW) cấp giấy phép hoạt động. [1]
- NHTM địa phương (hay còn gọi là Ngân hàng bang ở những nước theo thể chế liên bang)
là NHTM do chính quyền địa phương cấp giấy phép hoạt động. [1]
Căn cứ vào tiêu thức số lượng chi nhánh
- NHTM duy nhất là NHTM chỉ có một hội sở hoạt động duy nhất trên phạm vi toàn bộ
lãnh thổ quốc gia. [1]
- NHTM mạng lưới là NHTM có hội sở trung ương và phân chi nhánh hoạt động trên phạm
vi toàn bộ lãnh thổ quốc gia và nhiều khi ở nước ngoài. [1]
Căn cứ vào doanh số hoạt động, người ta phân biệt NHTM nhỏ, NHTM lớn và
NHTM siêu lớn. Doanh số hoạt động làm cơ sở để phân loại các NHTM tùy thuộc
vào tình trạng tài chính của mỗi quốc gia. [1]
2.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM
2.1.2.1 Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục sản phẩm dịch vụ
Trang 12
Chương 2 Thực trạng diễn biến hiện nay của các ngân hàng thương mại
Ngày nay, các ngân hàng đang mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ tài chính mà họ
cung cấp cho khách hàng. Qúa trình mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ đã tăng tốc trong
những năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài chính khác, từ sự
hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng, và từ sự thay đổi công nghệ. [2]
2.1.2.2 Sự gia tăng cạnh tranh
Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở nên quyết liệt khi
ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ. Các ngân hàng
địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn tài chính
cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang phải đối mặt với sự
cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín dụng, ngân hàng đầu tư Merrill
Lynch, các công ty tài chính như GE Capital và các tổ chức bảo hiểm như Prudential. Áp
lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai. [2]
2.1.2.3 Sự gia tăng chi phí vốn
Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng chi phí trung bình thực
tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Với sự nới lỏng các luật lệ,
ngân hàng buộc phải trả lãi do thị trường cạnh tranh quyết định cho phần lớn tiền gửi.
Đồng thời, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn – một
nguồn vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản của mình. Điều đó buộc họ phải tìm cách cắt
giảm các chi phí hoạt động khác như giảm số nhân công, thay thế các thiết bị lỗi thời bằng
hệ thống xử lý điện tử hiện đại. Các ngân hàng cũng buộc phải tìm các nguồn vốn mới như
chứng khoán hóa một số tài sản, theo đó một số khoản cho vay của ngân hàng được tập hợp
lại và đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán; các chứng khoán được đảm bảo bằng các món vay
được bán trên thị trường mở nhằm huy động vốn mới một cách rẻ hơn và đáng tin cậy hơn.
Hoạt động này cũng có thể tạo ra một khoản thu phí không nhỏ cho ngân hàng, lớn hơn so
với các nguồn vốn truyền thống (như tiền gửi). [2]
2.1.2.4 Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất
Các qui định của Chính phủ đối với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách hàng khả
năng nhận được mức thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng chỉ có công chúng mới làm cho
các cơ hội đó trở thành hiện thực. Và công chúng đã làm việc đó. Hàng tỷ USD trước đây
được gửi trong các tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài khoản giao dịch không sinh
lợi kiểu cũ đã được chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài khoản
có tỷ lệ thu nhập thay đổi theo điều kiện thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra rằng họ
Trang 13
Chương 2 Thực trạng diễn biến hiện nay của các ngân hàng thương mại
đang phải đối mặt với những khách hàng có giáo dục hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các
khoản tiền gửi “trung thành” của họ có thể dễ tăng cường khả năng cạnh tranh trên phương
diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và nhạy cảm hơn với ý thích thay đổi của xã hội
về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm. [2]
2.1.2.5 Cách mạng trong công nghệ ngân hàng
Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và
đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho hệ thống dựa
trên lao động thủ công, đặc biệt là trong công việc nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp
tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các máy rút tiền tự động ATM, cho phép khách
hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ; Máy thanh toán tiền POS được lắp đặt
ở các bách hóa và trung tâm bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hóa
dịch vụ bằng giấy; và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách
nhanh chóng trên toàn thế giới. [2]
2.1.3 Hệ thống NHTM ở Việt Nam
2.1.3.1 Khái niệm:
Ngân hàng thương mại đã hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển
của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại đã có tác động rất
lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng
hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao của nó - kinh tế thị trường - thì ngân hàng
thương mại cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không
thể thiếu được.
Luật các tổ chức tín dụng: NHTM là tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo
quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. (Nghị định số
59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM)
Theo Luật Ngân hàng nhà nước:
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch
vụ thanh toán.
Trang 14