Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 2006-2010.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.13 KB, 29 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

CHỦ ĐỀ 2
VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN
KINH TẾ VIỆT NAM 2006-2010
Giáo viên: PGS.TS Lê Thị Tuấn Nghĩa
Nhóm 4 thực hiện: Nguyễn Thị Phương Liên
Phạm Thị Thanh Huyền
Nguyễn Thị Diệu Linh
Vũ Thị Ngọc Yến
Đặng Thu Thủy
Lê Thanh Hằng
Vũ Trung Kiên
Trần Danh Hải
Nguyễn Thị Hà
Phan Thị Hà
Lê Thị Thủy
GIỚI THIỆU CHUNG

Trong nền kinh tế sôi động hiện nay, các ngành kinh tế ngày càng
phát triển thì hoạt động kinh tế không chỉ bao gồm mối quan hệ cung
cầu về hàng hoá, mà còn có mối quan hệ cung cầu về tiền tệ. Quan
hệ này xuất hiện dẫn đến tất yếu sự luân chuyển nguồn vốn từ nơi
thừa vốn đến nơi thiếu vốn, từ các chủ thể thừa vốn đến các chủ thể
thiếu vốn. Hoạt động này diễn ra trên thị trường tài chính, mà chủ thể
chính là các trung gian tài chính. Nhờ có sự hoạt động tích cực của
các trung gian tài chính, nhu cầu vay vốn của các khách hàng đã
được đáp ứng kịp thời về cả số lượng cũng như thời gian sử dụng;
đồng thời cũng giúp giảm bớt rủi ro trong quá trình chuyển giao vốn.
Điều này có được đó là nhờ vào khả năng thu thập và xử lý thông tin
một cách chính xác, cách quản lý và kiểm soát các nguồn vốn một


cách chuyên nghiệp. Ngoài ra các trung gian tài chính còn tiết kiệm
được chi phí chuyển giao vốn bằng cách giúp các chủ thể giảm bớt
được chi phí tìm kiếm đối tác, tìm kiếm các thông tin…. Chính những
vai trò quan trọng đó của các trung gian tài chính ( điển hình là ngân
hàng thương mại), đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế. Vì lý do đó, nhóm thảo luận xin đưa ra đề tài “Vai trò của ngân
hàng thương mại trong nền kinh tế Việt Nam từ năm 2006-2010”
nhằm thảo luận các vấn đề xung quanh hoạt động của các trung gian
tài chính Việt Nam
Mục lục:
Phần 1:Khái quát về hệ thống NHTM Việt Nam
Phần 2: Vai trò của NHTM trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay
Phần 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các NHTM ở VN
Phần 4: Điểm mới trong luật TCTD năm 2009
Dưới đây là bài thảo luận của nhóm về đề tài này.
PHẦN 1: Khái quát về hệ thống NHTM Việt Nam
I. Khái niệm:
Luật NH 1997: NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng được thực
hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ NH với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán
II. Thực trạng nền kinh tế
1. Thị trường chứng khoán khởi sắc
Bức tranh chung của Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2005
có sự khởi sắc, quy mô thị trường được mở rộng, tăng khoảng
55% giá trị chứng khoán niêm yết, số lượng nhà đầu tư tăng 35%,
lòng tin của nhà đầu tư đối với thị trường được nâng lên.
2. Hoạt động của các NHTM sôi động
- Các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất huy động nhằm cạnh
tranh giữ thị phần do áp lực tăng lãi suất đồng đôla của FED

( Lãi suất cơ bản của VND lên 8,25 %)
- Tốc độ tăng vốn huy động cao hơn tốc dộ tăng dư nợ cho vay
Do tỷ lệ tiền gửi thanh toán, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi ngân
hàng tại các ngân hàng tăng nhanh. Trong khi nhu cầu vay vốn
tập trung vào trung và dài hạn nên dư thừa vồn huy động ngắn
hạn. Hơn nữa, các ngân hàng muốn cơ cấu lại nguồn vốn và tăng
hoạt động vốn trung và dài hạn.
- Hoạt động vốn của hệ thống NH từ dân ngày càng tăng
- Nhóm NHTMNN chiếm gần 76% tổng nguồn vốn huy động và
80% thị phần tín dụng
3. Bắt đầu mở cửa cho các NH nước ngoài
* Vài nét về ảnh hưởng của WTO đối với NHTM Việt Nam
Một “cuộc chơi” hoàn toàn mới
Ngày 1/4/2007: NH nước ngoài chỉ được mở 1 chi nhánh với
100% vốn nước ngoài, được hưởng quy chế đối xử quốc gia
+ Được nhận tiền gửi bằng tiền đồng 1 cách không hạn chế từ
các pháp nhân,được phát hành thẻ tín dụng
+ Khi VN gia nhập WTO, các cty CK nước ngoài sẽ được sở hữu
49% trong các liên doanh. Sau 5 năm sẽ được sở hữu 100% và
được thực hiện các nghiệp vụ quản lý tài sản, tư vấn…
a, Cơ hội:
- Có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ và đào tạo đội ngũ cán
bộ, phát huy lợi thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh
tranh quốc tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Từ đó, nâng
cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi
mới và cải cách hệ thống ngân hàng VN, nâng cao năng lực quản
lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, tăng cường khả năng tổng
hợp, hệ thống tư duy xây dựng các văn bản pháp luật trong hệ
thống ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết

với hội nhập quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế giúp các NHTM VN học hỏi được nhiều
kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng nước
ngoài. Các ngân hàng trong nước sẽ phải nâng cao trình độ quản
lý, cải thiện chất lượng dịch vụ để tăng cường độ tin cậy đối với
khách hàng.
- Hội nhập quốc tế sẽ tạo động lực thúc đẩy cải cách ngành ngân
hàng VN, thị trường tài chính sẽ phát triển nhanh hơn tạo điều
kiện cho các ngân hàng phát triển các loại hình dịch vụ mới…
- Hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng VN từng
bước mở rộng hoạt động quốc tế, nâng cao vị thế của các NHTM
VN trong các giao dịch tài chính quốc tế.
- Mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế giữa các NHTM trong hoạt
động kinh doanh tiền tệ, đề ra giải pháp tăng cường giám sát và
phòng ngừa rủi ro, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống
NHTM VN trong các giao dịch quốc tế. Từ đó, có điều kiện tiếp cận
với các nhà đầu tư nước ngoài để hợp tác kinh doanh, tăng nguồn
vốn cũng như doanh thu hoạt động.
- Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân hàng nước ngoài
tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại VN buộc các NHTM VN
phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị
ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro,
cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới
mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở VN.
b, THÁCH THỨC
- Do khả năng cạnh tranh thấp, việc mở cửa thị trường tài chính
sẽ làm tăng số lượng các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài
chính, công nghệ, trình độ quản lý làm cho áp lực cạnh tranh tăng
dần.

- Áp lực cải tiến công nghệ và kỹ thuật cho phù hợp để có thể
cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài
- Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ,
chưa đồng bộ và nhất quán, còn nhiều bất cập so với yêu cầu hội
nhập quốc tế về ngân hàng.
- Khả năng sinh lời của hầu hết các NHTM VN còn thấp hơn các
ngân hàng trong khu vực, do đó hạn chế khả năng thiết lập các
quỹ dự phòng rủi ro và quỹ tăng vốn tự có.
- Trong quá trình hội nhập, hệ thống ngân hàng VN cũng chịu tác
động mạnh của thị trường tài chính thế giới, nhất là về tỷ giá, lãi
suất, dự trữ ngoại tệ, trong khi phải thực hiện đồng thời nhiều
nghĩa vụ và cam kết quốc tế.
- Các ngân hàng thương mại VN đầu tư quá nhiều vào doanh
nghiệp nhà nước, trong khi phần lớn các doanh nghiệp này đều có
thứ bậc xếp hạng tài chính thấp, và thuộc các ngành có khả năng
cạnh tranh yếu. Đây là nguy cơ tiềm tàng rất lớn đối với các
NHTM.
- Hội nkinh hập tế, quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro
của hệ thống ngân hàng, trong khi cơ chế quản lý và hệ thống
thông tin giám sát ngân hàng còn rất sơ khai, chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế.
- Cấu trúc hệ thống Ngân hàng tuy phát triển mạnh mẽ về chiều
rộng (cả ở khu vực quản lý lẫn khu vực kinh doanh) nhưng còn
quá cồng kềnh, dàn trải, chưa dựa trên một mô hình tổ chức khoa
học làm cho hiệu quả và chất lượng hoạt động còn ở mức kém xa
so với khu vực.
- Việc đào tạo và sử dụng cán bộ, nhân viên còn bất cập so với
nhu cầu của nghiệp vụ mới, đặc biệt còn coi nhẹ hoạt động
nghiên cứu chiến lược và khoa học ứng dụng làm cho khoảng
cách tụt hậu về công nghệ ngân hàng của VN còn khá xa so với

khu vực. Nền văn minh tiền tệ của nước ta do đó chưa thoát ra
khỏi một nền kinh tế tiền mặt.
- Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra cơ hội tiếp cận và huy động
nhiều nguồn vốn mới từ nước ngoài nhưng đồng thời cũng mang
đến một thách thức không nhỏ cho các NHTM VN là làm như thế
nào để huy động vốn hiệu quả. Vì khi đó, NHTM VN thua kém các
Ngân hàng nước ngoài về nhiều mặt như công nghệ lạc hậu, chất
lượng dịch vụ chưa cao… sẽ ngày càng khó thu hút khách hàng
hơn trước.
- Thách thức lớn nhất của hội nhập không đến từ bên ngoài mà
đến từ chính những nhân tố bên trong của hệ thống ngân hàng
VN. Vấn đề cần quan tâm hàng đầu là nguồn nhân lực và các cơ
chế khuyến khích làm việc tại ngân hàng hiện nay. Chảy máu chất
xám là vấn đề khó tránh khỏi khi mở cửa hội nhập. Các NHTM VN
cần có các chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ hợp lý để lôi
kéo và giữ chân các nhân viên giỏi.
3. Hoạt động của các ngân hàng trong năm 2007:
Tính đến nay, hệ thống ngân hàng nước ta có 6 ngân hàng
thương mại nhà nước (NHTMNN), 37 NHTMCP, 31 chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, 6 ngân hàng liên doanh, 6 công ty tài
chính và 10 công ty cho thuê tài chính, 926 tổ chức tín dụng nhân
dân và 46 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài.
Hơn nữa, hiện nay NHNN đã chấp nhận về nguyên tắc cho ra đời
thêm 4 NHNN cổ phần, càng chứng tỏ hệ thống ngân hàng đang
vững mạnh hơn. Nếu so với cách đây hơn chục năm thì đây quả
là một sự trưởng thành vượt bậc.
Hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn
khá lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16-
18% GDP, gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Tăng trưởng tín dụng
liên tục tăng trong các năm và năm 2006 ước tăng khoảng 24%,

cao hơn mức 19% năm 2005. Tuy nhiên, trong năm 2006, 2007,
do tốc độ tăng trưởng “nóng” của nền kinh tế đã dẫn đến lượng
cung tiền tăng nhanh, kéo theo tăng trưởng nóng tín dụng, trong
khi tiết kiệm sụt giảm. Sở dĩ điều này xảy ra là do các NHTMCP
đã tận dụng quá mức nguồn vốn vay lien ngân hàng với chi phí
huy động thấp để cho vay bất động sản và chứng khoán. Việc này
đã góp phần thúc đẩy tốc độ tín dụng lên cao trong năm 2007,
đồng thời tạo sự mất cân đối trong cơ cấu nguồn vốn và tiềm ẩn
rủi ro thanh khoản trong hệ thống ngân hàng.
4. Cái giá của tăng trưởng “nóng” tín dụng:
( Cho vay hết cỡ năm 2007 tăng gần 130%)
* Trả giá cho sự phiêu lưu:
- Các ngân hàng khan hiếm VND để cho vay ( nhất là các
NHTMCP ở trong tình trạng căng thẳng VND)
- Những ngân hàng đang căng thẳng về vốn phải vay với lãi suất
cao trên thi trường lien ngân hàng phần lớn là các ngân hàng đã
tăng trưởng tín dụng VND cao quá mức năm 2007
VD: ngân hàng ACB
- Nhiều ngân hàng đã sử dụng tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn để
cho vay dài hạn khá lớn
( Tháng 8/ 2007, nhiều ngân hàng đã đua nhau đưa ra các
chương trình cho vay bất động sản từ 1 đến 20 năm)
Khi NHNN sử dụng công cụ tiền tệ thắt chặt, nhu cầu vốn của nền
kinh tế tăng, nguồn vốn tiền đồng thị trường liên ngân hàng trở
nên khan hiếm. Vì thế các ngân hàng ( mà NHTMCP là tổ chức
vay mượn nhiều nhất trên thị trường lien ngân hàng có tỷ lệ cho
vay trung và dài hạn căng thẳng tiền đồng)
5. Với sự trưởng thành vượt bậc của hệ thống ngân hàng thì nó
có đóng góp quan trọng đối với việc phát triển TTCK Việt Nam
ntn???

* Quan hệ ngân hàng- chứng khoán: Xin đừng dẫm chân nhau
- Trước đây 20 năm, lạm phát phi mã, lên tới 3 con số người ta
giữ giá trị của mình bằng hàng hóa, vàng và 1 ít đôla Mỹ. Có lúc
người dân còn lấy thóc gạo làm căn cứ tính toàn trao đổi. Khi đó
chưa có thị trường chứng khoán
- Nếu như trước đây, khi chưa có thị trường bất động sản và
chứng khoán, thì vấn đề lại chỉ dồn vào một, đó là hệ thống ngân
hàng. Nhưng hiện nay, vấn đề lạm phát đã ở mức rộng lớn hơn ở
chỗ, người dân quan tâm đến cảthị trường bất động sản, thị
trường chứng khoán, thị trường vàng và cả thị trường ngoại tệ.
Vậy, một câu hỏi lớn đặt ra là căn nguyên từ đâu dẫn đến những
động thái hiện nay trên thị trường tiền tệ, chứng khoán và bất
động sản hiện nay ở Việt Nam.
- Bắt nguồn tự những tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế.
Trong đó có sự quá nóng của thị trường chứng khoán bắt nguồn
từ những tháng đầu năm 2007. Nhiều người đã gặt hái được
nhiều lợi nhuận từ những vụ mua đi, bán lại chứng khoán để rồi
chuyển sang hiện thực hóa lợi nhuận bằng cách đầu cơ bất động
sản và mua xe ô-tô. Những cơn hưng phấn thái quá đó đã kéo
theo “hiệu ứng bầy đàn”, dẫn dắt hàng ngàn người đổ tiền của vào
thị trường chứng khoán, đến nay đã có khoảng 350.000 tài khoản
gồm cả cá nhân và tổ chức. Nhưng điều đáng nói ở đây là mạnh
dạn vay tiền ngắn hạn để đầu tư dài hạn (đầu tư chứng khoán là
trung hạn và dài hạn, vì giá trị thực của nó là hưởng lợi nhuận từ
cổ tức và sự thịnh vượng của công ty cổ phần trong tương lai, tuy
nhiên trong cuộc chạy đua để chiếm hữu tỷ phần trong tài sản của
công ty cổ phần làm cho giá chứng khoán tăng lên tùy theo quan
hệ cung - cầu đối với mỗi loại cổ phiếu. Thường công ty làm ăn tốt
thì giá cao, làm ăn kém thì giá thấp hơn, nhưng tuyệt đại đa số là
cao hơn mệnh giá.

- Điều đáng nói nữa là trong cơn hưng phấn của xã hội, thì các
ngân hàng thương mại mạnh tay cấp phát tín dụng với khối lượng
lớn... Ở đây có phần mang những đặc điểm quán tính của kinh tế
thị trường, giống như sản xuất hàng loạt để dẫn đến sản xuất thừa
của các nền kinh tế thị trường tự do. Cứ thế,vay ngân hàng mua
cổ phiếu, lấy cổ phiếu thế chấp để rồi lại tiếp tục vay ngân hàng
đầu tư cổ phiếu để chờ giá lên là bán lấy lãi. Quy trình đó đã làm
cho giá trị cổ phiếu tăng vọt nhanh chóng, vượt lên khỏi giá trị
thực của nó nhiều lần tạo thành “bong bóng đầu cơ”.
- Nếu cứ thế tiếp diễn, thì bong bóng có thể tiếp tục phình to, độ
phình của bong bóng có thể lên nữa và lên nữa cho đến khi hết
khả năng chịu đựng của nền kinh tế thì xì hoặc nổ - tạo ra nguy
cơ khủng hoảng.
- Trước những động thái đó, thì Ngân hàng nhà nước đã đưa ra
biện pháp đầu tiên là siết chặt tỷ lệ cho vay đầu tư chứng khoán
của các ngân hàng thương mại bằng Chỉ thị 03/NHNN. Ngoài ra,
Ngân hàng nhà nước thi hành chính sách mạnh trong thắt chặt
tiền tệ bằng cách nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, huy động 20.300 tỷ
đồng tín phiếu bắt buộc. Trước thực tế đó các ngân hàng thương
mại đã rơi vào thế bí, lấy đâu ra tiền mặt để đáp ứng yếu cầu của
Chính phủ và Ngân hàng nhà nước? Có nhận định cho rằng
nó như cái van xiết lại dòng vốn cung ứng vào thị trường chứng
khoán, bất động sản. Nhưng trên thực tế, nếu không có Chỉ thị đó,
thì thị trường chứng khoán như đang ăn phải thức ăn độc mà
không biết lại cứ tiếp tục ăn nữa để đến chỗ nguy hiểm hơn. Bởi
vậy, Chỉ thị 03 chính là “liều thuốc đắng”, ngăn lại quá trình nguy
hiểm của ngân hàng, cứu cánh cho thị trường chứng khoán, chỉ
tiếc rằng nó ra hơi muộn, để các ngân hàng thương mại đã cho
vay kinh doanh chứng khoán nhiều, có thời điểm đã lên khoảng
20.000 tỷ đồng. Theo Ngân hàng nhà nước, con số này chiếm

khoảng 2,6% tổng dư nợ và 7,5% tổng giá trị thị trường của 22/52
các công ty được niêm yết trên các sở giao dịch chứng khoán.
- Trong trường hợp: Chứng khoán lien tục tăng ( bong bong đang
căng lên) chưa có biểu hiện gì trước mắt. Mặc dù các nhà phân
tích chuyên sâu đã cảnh báo trước thì nhiều người vẫn nghĩ “ đến
đó còn xa”; bây giờ cứ mua là được lời, bất chấp công ty cổ phần
làm ăn ra sao. Tiếc rằng trên thực tế, cỉ số chứng khoán cả 2 sàn
HÓE và HSATC đều giảm và giảm sâu dần đến mức như ngày
25-3-2008. Và hầu hết các NHTM, đặc biệt là ngân hàng cổ phần
cho vay đầu tư chứng khoán với 30% -70% giá trị của các chứng
khoán niêm yết; 30% -60% giá trị của CK trên sàn giao dịch OTC)
Sự giảm sút như vậy có 2 tác động xảy ra đối với khoản vay của
ngân hàng
(1): Nếu giá chứng khoán giảm xuống 30 % thì các khoản vay
dưới cận cho phép của ngân hàng sẽ mất trắng. Người đi vay
( đặc biệt là người đầu tư) sẽ không có khả năng thanh toán,
khoản vay của ngân hàng sẽ trở thành nợ xấu
(2): Gía trị chứng khoán làm tài sản thế chấp giảm mạnh sẽ tạo
ảnh hưởng kép đối với chất lượng hoạt động của ngân hàng. Dẫn
đến tỷ lệ nợ xấu tăng và tỷ lệ thâm hụy vốn tự có tăng. ngân hàng
và các công ty chứng khoán càng bán tháo cổ phiếu cầm cố (giải
chấp), thì thị trường chứng khoán càng đi xuống, phá hết đáy này
đến đáy khác, và đã có nhận định rất bi quan là “chứng khoán Việt
Nam không có đáy nữa!”.
- Trên thị trường chứng khoán còn có yếu tố tâm lý có tác động rất
mạnh đến trạng thái của thị trường, khi nhà đầu tư mua hôm nay mai
lỗ hàng chục, hàng trăm triệu đồng, không bán ra mà để đầu tư lâu
dài cũng thấy giá cổ phiếu lao dốc không phanh, nên tính ra cũng
mất hàng chục hàng trăm triệu. Hiệu ứng bầy đàn không cưỡng lại
được, người người đua nhau bán tháo, tháo chạy khỏi thị trường

chứng khoán để cố giữ lấy phần giá trị còn lại bằng tiền (có lúc chỉ
còn 50 - 40% so với giá mua ban đầu).
Kết luận:
- Muốn thị trường ổn định, trước mắt và trong một thời gian nữa
đừng để tiếp diễn cảnh chứng khoán và ngân hàng “dẫm chân” lên
nhau. Bởi vì, theo kinh nghiệm của các thị trường phát triển, chứng
khoán là một kênh huy động vốn và chia sẻ rủi ro rất hiệu quả. Khác
với hệ thống ngân hàng, nơi hàng triệu người dân gửi tiền và niềm
tin của mình cho một hoặc một nhóm người, trao họ quyền quyết
định tài sản của mình, thì trên sàn chứng khoán - mỗi nhà đầu tư là
một chủ thể riêng. Còn nếu chúng dẫm chân lên nhau thì hậu quả sẽ
khó lường, không những gây thiệt hại cho cả chứng khoán và ngân
hàng, mà còn làm hỏng môi trường thu hút vốn đầu tư gián tiếp từ
bên ngoài.
- Muốn thị trường ổn định, trước mắt và trong một thời gian nữa
đừng để tiếp diễn cảnh chứng khoán và ngân hàng “dẫm chân” lên
nhau. Bởi vì, theo kinh nghiệm của các thị trường phát triển, chứng
khoán là một kênh huy động vốn và chia sẻ rủi ro rất hiệu quả. Khác
với hệ thống ngân hàng, nơi hàng triệu người dân gửi tiền và niềm
tin của mình cho một hoặc một nhóm người, trao họ quyền quyết
định tài sản của mình, thì trên sàn chứng khoán - mỗi nhà đầu tư là
một chủ thể riêng. Còn nếu chúng dẫm chân lên nhau thì hậu quả sẽ
khó lường, không những gây thiệt hại cho cả chứng khoán và ngân
hàng, mà còn làm hỏng môi trường thu hút vốn đầu tư gián tiếp từ
bên ngoài.
- Với sự trưởng thành vượt bậc của hệ thống ngân hàng, thì nó có
vai trò quan trọng đối với việc phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam. Thị trường chứng khoán hình thành và phát triển sẽ cùng với
thị trường tiền tệ tạo ra một thị trường tài chính vận hành có hiệu quả
cao hơn, góp phần đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước.
- Là một cấu thành của thị trường tài chính, sự phát triển của thị
trường chứng khoán sẽ kém bền vững nếu thiếu sự gắn kết của hệ
thống ngân hàng. Từ kinh nghiệm của các nước đã cho thấy, “ nếu
thị trường chứng khoán là một cạnh cắt của thị trường tài chính, thì
ngân hàng vừa là nền móng, vừa là xi măng”.Như vậy, có thể thấy hệ
thống ngân hàng và thị trường chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, kết hợp và tác động củng phát triển.
6. Vai trò của các NHTM trong việc phát triển hệ thống thanh toán
không dùng tiền mặt năm 2010
Có nhiều nguyên nhân làm chậm tiến độ việc triển khai hệ thống
thanh toán không dùng tiền mặt hiện tại, nhiều người đưa ra các lý
do như do thói quen của người dân, hoặc do khuôn khổ pháp lý, hay
cơ sở hạ tầng của hệ thống thanh toán của Ngân hàng nhà nước.
Nhưng vấn đề hiện tại cơ bản đang làm chậm tiến độ của việc triển
khai hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt nằm ở định hướng phát triển
và hợp tác giữa các NHTM.
a, Tác dụng của thanh toán không dùng tiền mặt: ?
- Ngân hàng tiết kiệm được chi phí hoạt động trong việc vận chuyển,
kiểm đếm và bảo quản tiền mặt
- Khách hàng không cần phải để tồn quỹ, để trong nhà nhiều tiền mặt
vừa mất an toàn, không tiện lợi và tốn kém khi thanh toán;
- Nền kinh tế tiết kiệm nhiều nguồn lực cho việc in ấn, phát hành tiền
mặt, và thanh toán không dùng tiền mặt là cơ sở để phát triển, đẩy
mạnh các dịch vụ giao dịch thanh toán trực tuyến tiện lợi, nhanh
chóng, chính xác, và an toàn với chi phí thấp.
b, Thực trang thanh toán không dùng tiền mặt tại VN:
Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt hiện tại vẫn còn khá cao - chiếm
khoảng 14% (tỷ lệ này ở các nước có nền kinh tế phát triển đều dưới
1 con số), đặc biệt trong khu vực chi tiêu cá nhân, số người sử dụng

dịch vụ ngân hàng để thanh toán chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp,
lao động ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhân viên công sở có
thu nhập cao và ổn định. Tuy chính phủ và Ngân hàng NN đã có
nhiều giải pháp và khá tích cực trong xây dựng hệ thống thanh toán
không dùng tiền mặt tại VN nhưng hiện tại quá trình này vẫn đang
còn diễn ra chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu.
c, Vai trò của các Ngân hàng thương mại trong việc phát triển hệ
thống thanh toán không dùng tiền mặt:

×