Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

RỦI RO TRONG THỰC HIỆN hợp ĐỒNG MUA bán NGOẠI THƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.81 KB, 41 trang )

Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com

Chương I
Khái quát chung về hợp đồng mua bán
ngoại thương - rủi ro và tranh chấp trong việc
thực hiện hợp đồng.

I. Hợp đồng mua bán ngoại thương.

1. Khái niệm và đặc điểm:
1.1. Khái niệm.
Hợp đồng mua bán ngoại thương (HĐMBNT) hay còn gọi là hợp đồng
mua bán quốc tế hàng hoá hoặc hợp đồng xuất nhập khẩu là hợp đồng trong
đó một bên gọi là người bán có nghĩa vụ chuyển giao vào quyền sở hữu của
bên kia gọi là người mua, một hàng hoá - đối tượng của hợp đồng, còn người
mua có nghĩa vụ nhận hàng và trả cho người bán một số tiền tương đương giá
trị của hàng hoá đó.
Giống như các hợp đồng mua bán khác, hợp đồng mua bán ngoại
thương cũng là sự thoả thuận giữa Ýt nhất hai bên về việc chuyển giao quyền
sở hữu về hàng hoá từ người bán sang người mua và việc thanh toán tiền hàng
từ người mua sang người bán.
Nhưng HĐMBNT có đặc điểm khác với hợp đồng mua bán thông
thường, khác ở chỗ nó mang tính chất quốc tế hay còn gọi là yếu tố nước
ngoài. Tuy vật, pháp luật các nước có quan điểm không giống nhau về nội
dung của tính chất quốc tế này.
Điều 1 của Công ước Lahaye năm 1964 về mua bán quốc tế những
động sản hữu hình quy định răng HĐMBNT là tất cả các hợp đồng mua bán
trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hàng
hoá được chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc là việc ký kết hợp đồng

3




Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
giữa các bên được thực hiện ở những nước khác nhau. Như vậy, theo quy
định của Công ước này thì tính chất quốc tế của HĐMBNT bao gồm:
- Chủ thể ký kết là các bên có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau.
- Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng được di chuyển từ nước này sang
nước khác;
- Chào hàng và chấp nhận chào hàng được lập ở các nước khác nhau.
Trường hợp chủ thể ký kết là các cá nhân, không có trụ sở thương mại
thì sẽ căn cứ vào nơi cư trú của họ. Vấn đề quốc tịch của các bên ký kết
không có ý nghĩa trong việc xác định yếu tố nước ngoài của HĐMBNT.
Công ước Viên năm 1980 của Liên hiệp quốc về HĐMBNT (United
nation Convention on international sales of goods, Vienna 1980) chỉ đưa ra
tiêu chuẩn để khẳng định tính chất quốc tế của HĐMBNT, đó là các bên ký
kết hợp đồng có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau. Tại khoản 3
Điều 1 của Công ước nêu rõ "quy định của các bên, quy chế dân sự hoặc
thương mại của họ, tính chất dân sự hay thương mại của hợp đồng không
được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng Công ước naỳ". Như vậy, cũng
giống như Công ước Lahaye 1964, Công ước Viên 1980 cũng không quan
tâm tới vấn đề quốc tịch của các bên khi xác định yếu tố nước ngoài của
HĐMBNT.
Theo Luật Thương mại của Pháp khi xác định tính chất quốc tế của
HĐMBNT phải căn cứ vào các tiêu chuẩn kinh tế và pháp lý. Theo tiêu chuẩn
kinh tế, một hợp đồng quốc tế là hợp đồng tạo ra sù di chuyển qua lại biên
giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước. Theo tiêu chuẩn pháp lý,
một hợp đồng được coi là có tính quốc tế nếu nó bị chi phối bởi các tiêu
chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch của các bên, nơi cơ trú của
các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán v.v...
Ở Việt Nam trước khi có Luật Thương mại (1997) khái niệm

HĐMBNT (HĐMBQT) được thể hiện trong quy chế tạm thời số 4794/TN-

4


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
XNK, ngày 31-7-1991 của Bộ Thương nghiệp (nay là Bộ Thương mại), theo
đó tích chất quốc tế của hợp đồng này gồm 3 tiêu chuẩn:
- Chủ thể của hợp đồng là các bên có quốc tịch khác nhau;
- Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng thông thường được di chuyển từ
nước này sang nước khác;
- Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ đối với một trong hai
bên ký kết;
Luật Thương mại Việt Nam ban hành tháng 5/1997 không đưa ra các
tiêu chuẩn cụ thể về HĐMBNT mà chỉ đưa ra khái niệm về HĐMBNT với
thương nhân nước ngoài "HĐMBNT với thương nhân nước ngoài là
HĐMBHH được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên
là thương nhân nước ngoài.
Như vậy, cho đến nay luật pháp các nước cũng như các điều ước quốc
tế chưa có quan niệm thống nhất về hợp đồng này. Tuy nhiên, từ các khái
niệm về HĐMBNT nói trên có thể rót ra các đặc điểm của loại hợp đồng này
như sau:
1.2. Đặc điểm.
- Chủ thể của HĐMBNT có thể là tự nhiên nhân (cá nhân) National
pesson hoặc pháp nhân (legal pesson). Muốn tham gia ký kết HĐMBNT tự
nhiên nhân và pháp nhân phải có đủ năng lực pháp lý và năng lực hành vi. Về
nguyên tắc, năng lực hành vi của cá nhân do luật của nước mà họ mang quốc
tịch quy định. Ví dụ, Điều 488 Bộ luật dân sự Pháp và Luật ngày 5/7/1974
quy định: "Tất cả mọi người trên 18 tuổi vẫn được coi là có năng lực hành vi
và đều có thể trở thành thương nhân. Tuy nhiên, những người đã đủ 18 tuổi

trở lên nhưng đang bị kết án, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị
mất trí... thì vẫn không được coi là có năng lực hành vi".
Năng lực hành vi của pháp nhân cũng được xác định theo luật của nước
mà pháp nhân đó mang quốc tịch. Vì vậy, để xác định năng lực hành vi của

5


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
một pháp nhân trước tiên cần xác định pháp nhân mang quốc tịch nước nào,
sau đó căn cứ và pháp luật nước đó để xác định năng lực hành vi cụ thể của
pháp nhân đó.
Nói chung, dù là pháp nhân hay tự nhiên nhân thì chủ thể của các
HĐMBNT cũng thường là các bên có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác
nhau (trừ doanh nghiệp chế xuất).
- Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng có thể chuyển qua biên giới quốc
gia, tức là có thể được chuyển từ nước này sang nước khác.
- Đồng tiền tính giá và đồng tiền thanh toán giữa các bên mua bán
thường là ngoại tệ đối với Ýt nhất một trong các bên ký kết.
Luật điều chỉnh HĐMBNT cũng phức tạp hơn các loại hợp đồng mua
bán trong nước. Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan ngoài việc quy định
trong hợp đồng còn có thể được điều chỉnh bởi các Điều ước quốc tế về
thương mại, tập quán thương mại quốc tế hoặc Luật Thương mại các quốc
gia.
Chính những đặc điểm này đã nói nên tính chất quốc tế của HĐMBNT
và đó cũng là tiêu chí để phân biệt loại hợp đồng này với các loại hợp đồng
mua bán trong nước và các loại hợp đồng khác...
1.3. Các nguồn luật áp dụng trong hợp đồng mua bán ngoại thương.
Hợp đồng mua bán ngoại thương dù được ký kết dưới bất kỳ hình thức
nào, chi tiết đến đâu cũng không thể dự kiến được những vấn đề, những tình

huống phát sinh trong thực tế. Nếu như hợp đồng mua bán trong nước thường
do luật trong nước điều chỉnh, thì luật điều chỉnh HĐMBNT hết sức đa dạng
và phức tạp: Điều ước quốc tế, luật quốc gia, tập quán thương mại, thậm chí
có thể là án lệ. Luật điều chỉnh HĐMBNT bắt buộc các bên phải thực hiện
nghĩa vụ của mình và đó cũng là cơ sở để giải quyết các tranh chấp phát sinh.
* Điều ước quốc tế: Điều ước quốc tế về ngoại thương là nguồn luật
điều chỉnh hợp đồng mua bán ngoại thương. Một khi tranh chấp xảy ra (phát

6


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
sinh) ở hợp đồng liên quan đến vấn đề không được quy định, hoặc quy định
không đầy đủ trong hợp đồng, các bên ký kết hợp đồng có thể dựa vào các
Điều ước quốc tế về ngoại thương. Do đó, Điều ước quốc tế về ngoại ngoại
thương là nguồn luật đầu tiên của HĐMBNT.
Công ước Viên 1980, nó đóng một vai trò quan trọng và được áp dụng
một cách rộng rãi trong thương mại quốc tế. Là nguồn luật điều chỉnh các mối
quan hệ phát sinh từ các hợp đồng mua bán ngoại thương, nếu nó được các
bên dẫn chiếu tới trong hợp đồng. Việt Nam chưa gia nhập Công ước Viên
1980, nhưng khi ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu chúng ta có thể quy định
áp dụng Công ước. Ở Việt Nam các điều ước quốc tế về ngoại thương mà
chúng ta tham gia ký kết công nhận hoặc do các bên dẫn chiếu tới có những
quy định trái với luật của Việt Nam thì theo Điều 11 khoản 6 Pháp lệnh về ký
kết và thực hiện điều ước quốc tế của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa công nghiệp
ngày 17/10/1989, Điều 827 khoản 2 Bộ Luật Dân sự Việt Nam, Điều 4 Luật
Thương mại Việt Nam có thể giải quyết theo hai cách:
Một là, đối với các điều ước quốc tế về ngoại thương mà Nhà nước đã
tham gia ký kết và phê chuẩn, chúng ta sẽ áp dụng những quy định trong điều
ước quốc tế.

Hai là, đối với những điều ước quốc tế mà Nhà nước ta chưa tham gia
và chưa công nhận, chúng ta có quyền bảo lưu, không áp dụng những quy
định trái với luật của Việt Nam.
* Luật quốc gia: Khi các bên chủ thể của một hợp đồng thoả thuận
chọn luật của một nước nào đó thì luật quốc gia đó trở thành nguồn luật điều
chỉnh hợp đồng đó. Luật quốc gia có thể là nước người bán, người mua hoặc
là một nước thứ 3 do các bên tham gia hợp đồng thoả thuận. Ở Việt Nam luật
áp dụng trong HĐMBNT có Luật Thương mại được Quốc hội khoá IX thông
qua và có hiệu lực từ ngày 31/7/1998 và có các văn bản dưới luật như Nghị
định số 57/1998/NĐCP của Chính phủ ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi

7


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý
mua bán hàng hoá cho người nước ngoài.
* Tập quá thương mại quốc tế: Cũng là nguồn luật áp dụng đối với
HĐMBNT. Đó là những thói quen được sử dụng một cách thường xuyên
trong thương mại quốc tế, có nội dung rõ ràng, cụ thể, được nhiều nước công
nhận và áp dụng thống nhất. Nó điều chỉnh một hợp đồng khi có quy định sẽ
áp dụng tập quán quốc tế.
Ngày nay trong số các quán thương mại quốc tế có vai trò quan trọng
của Incoterm (Incoterm 2000) Phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam biên
soạn và ban hành.
Khi áp dụng Incoterm 2000 cần nắm vững 4 nguyên tắc:
1- Incoterm sẽ có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể của hợp đồng.
2- Phải ghi rõ trong hợp đồng là luôn theo Incoterm nào.
3- Incoterm không giải quyết tất cả các vấn đề cho giải quyết 4 vấn đề:
Chuyển rủi ro vào thời điểm nào, ai là người chịu trách nhiệm thông

quan hàng hoá, ai phải trả chi phí bảo hiểm, chi phí vận tải.
4- Incoterm không giải quyết tất cả các mối quan hệ.
Ngoài ra, một số nước phương Tây còn đề cao vai trò của các án lệ, đối
với các HĐMBNT ở các nước này thực tiễn nền tư pháp có vị trí quan trọng
vì khi xảy ra tranh chấp, các bên thường viện dẫn các bản án trước đây, coi
như mẫu mực đối với các tranh chấp. Cơ quan xét xử tham khảo các phán
quyết cũ vì họ căn cứ vào đó để xét xử vụ tranh chấp mới.
2. Phương thức soạn thảo một hợp đồng mua bán ngoại thương.
Việc soạn thảo một hợp đồng xuất nhập khẩu chặt chẽ là rất cần thiết.
Căn cứ vào hợp đồng mà phân định trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên, các
bên lấy đó làm cơ sở để thực hiện hợp đồng. Việc ký kết hợp đồng không chặt
chẽ là những nguyên nhân tạo ra các kẽ hở cho phía đối tác lợi dụng gây khó
khăn.

8


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
Nội dung của bản HĐMBNT:
- Tên hợp đồng, số hiệu hợp đồng.
- Các bên ký kết: phải kiểm tra tư các của người tham gia ký kết hợp
đồng.
* Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng:
- Các điều khoản chủ yếu liên quan đến đối tượng của hợp đồng.
+ Tên hàng: là điều kiện quan trọng của thư chào hàng, thư đổi hàng và
hợp đồng. Nó nói lên chính xác đối tượng mua bán, trao đổi. Tên hàng phải
diễn tả chính xác để các bên có sự hiểu thống nhất, ngoài tên hàng chung cần
phải ngắn với tên thương mại, tên khách hàng, tên hãng, tên địa danh...
+ Phẩm chất: là tổng hợp các chỉ tiêu về tính năng, công suất, hiệu suất,
thẩm mỹ... để phân biệt giữa hàng hoá này với hàng hoá khác. Có rất nhiều

cách xác định phẩm chất hàng hoá (sự miêu tả, mẫu hàng, nhãn hiệu...) và
mỗi cách xác định đó, nếu không tuân thủ có thể phải gánh chịu những hậu
quả pháp lý khác nhau.
+ Số lượng: điều khoản này xác định rõ đối tượng mua bán và liên quan
đến trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên. Việc lựa chọn đơn vị đo lường cần
phải căn cứ vào tính chất hàng hoá và tập quán thương mại về đo lường mặt
hàng đó. Có hai cách xác đinh số lượng hàng hoá: Xác định số lượng chính
xác và xác định số lượng dung sai. Việc xác định số lượng này sẽ làm cho
người bán phải gánh chịu những hậu quả khác nhau nếu vi phạm.
- Điều khoản về giá cả và phương thức thanh toán:
+ Luật pháp của đa số các nước quy định rằng, về nguyên tắc giá hàng
phải được quy định cụ thể trong hợp đồng. Song thực tế, nếu hợp đồng không
quy định giá cụ thể thì phải quy định cách xác định giá, cách tính giá.
Về phương thức thanh toán, các bên cần quy định trong hợp đồng các
phương thức thanh toán bằng tiền mặt, D/A, D/T. T/T. L/C... theo thoả thuận
của các bên.

9


Kho ti liu min phớ ca din n Ketnooi.com
+ Khi qu nh iu khon v giỏ c, cỏc bờn nờn quy nh ng tin
tớnh giỏ, iu kin thanh toỏn v cỏch tớnh, thi im tớnh t giỏ gia hai ng
tin.
- iu khon v thi hn v iu kin giao hng.
+ Thi hn giao hng: Thi hn ny cú th quy nh ngi bỏn phi
giao hng vo mt ngy c th hoc phi giao hng trong mt khong thi
hn nht nh tu theo s tho thun trong hp ng hoc ph thuc v iu
kin giao hng. Mi cỏch quy nh v thi gian giao hng u a ra nhng
hu qu phỏp lý khỏc nhau.

+ iu kin giao hng: Nú phn ỏnh mi quan h gia hng hoỏ vi
iu kin giao hng. iu kin giao hng cú th c cỏc bờn quy nh rừ
rng trong hop ng hoc cỏc bờn dn chiu n cỏc iu kin thng mi
quc t. Do vy cn phi nm vng cỏc iu kin, v nhng khớa cnh phỏp lý
cú trong tp quỏn thng mi quc t nh Incoterm 2000.
+ Ngoi nhng iu khon ch yu thỡ cỏc iu khon khỏc nh: iu
khon bo hnh bo trỡ, iu khon v bt kh khỏng, iu khon v trng ti,
lut ỏp dng cho hp ng... nhng phi tuõn th nhng iu kin hp
ng ngoi thng cú hiu lc phỏp lý.
3. Trỡnh t thc hin hp ng.
- Trỡnh t thc hin hp ng xut khu bao gm cỏc bc:
Dục mở L/C và kiểm
tra L/C (nếu HĐ
quyết định sử dụng ph
ơng thức tín dụng
chứng từ)

Giải quyết
khiếu nại nếu


Xin
giấy
phép
xuất
khẩu

Làm thủ
tục thanh
toán


Chuẩn
bị hàng
hoá

Mua bảo
hiểm

10

Thuê
tàu
hoặc lu
cớc

Giao hàng
lên tàu

Kiểm
nghiệm và
kiểm dịch
hàng hoá

Làm thủ
tục hải
quan


Kho ti liu min phớ ca din n Ketnooi.com


- Trỡnh t thc hin hp ng nhp khu.
Xin giấy
phép
nhập
khẩu

Dục mở L/C (nếu
HĐ quyết định sử
dụng phơng thức tín
dụng chứng từ)

Giải quyết khiếu
nại (nếu có) về
hàng hoá bị thiếu
hụt hoặc tổn thất

Thuê tàu
hoặc lu c
ớc

Làm thủ
tục thanh
toán

Giao cho đơn
vị đặt hàng
nhập khẩu

Mua
bảo

hiểm

Kiểm tra
hàng
hoá

Làm
thủ tục
hải
quan

Nhận
hàng

Kim tra L/C: Sau khi ký hp ng bờn nhp khu s m L/C (nu
thanh toỏn bng L/C) v chuyn n bờn xut khu: bờn nhp khu phi kim
tra k ni dung ca L/C cú khp vi hp ng ó ký khụng, ri tin hnh giao
hng.
Xin giy phộp xut nhp khu: Nu hng thuc danh mc cỏc mt
hng phi xin cp giy phộp xut nhp khu. Cụng ty u n phũng cp giy
phộp ca B thng mi mu l hng mu dch, n Tng cc Hi quan nu
l hng phi mu dch.
M L/C: Nu thanh toỏn bng L/C thỡ bờn nhp khu cn c vo
hp ng ó k kt m L/C s c chuyn n Ngõn hng ngoi thng.
II. Ri ro trong thc hin hp ng mua bỏn ngoi thng.

1. Khỏi nim ri ro.
Ri ro l nhng s c xy ra trong quỏ trỡnh thc hin hp ng gõy
tn tht v hng hoỏ hoc to cho cỏc bờn khụng thc hin ỳng hp ng
gõy thit hi cho mt bờn hoc cỏc bờn tham gia ký kt.

- Ri do cú th xy ra trong mi khõu ca quỏ trỡnh thc hin hp ng.
11


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
- Rủi ro thường kéo theo một loạt các yếu tố tranh chấp, bồi thường đều
có ảnh hưởng đến các bên tham gia.
- Rủi ro có thể do khách quan hoặc chủ quan gây ra.
2. Phân loại rủi ro.
2.1. Rủi ro khách quan.
Là những sự cố ngẫu nhiên, bất ngờ, là những mối đe doạ nguy hiểm
khi xảy ra thì gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm.
* Nguyên nhân của rủi ro: Loại rủi ro này thường xẩy ra trong vận tải
biển. Hàng hoá chuyên chở đường biển chiếm vị trí lớn nhất trong các
phương tiện chuyên chở và thường gặp nhiều rủi ro.
- Thiên tai: Là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra như: Thời tiết
khắc nghiệt, sét, biển động, động đất hoặc núi lửa., lốc... và những tai nạn tự
nhiên khác mà con người không lường trước được.
- Tai nạn bất ngờ ngoài biển: Tầu bị cạn, đắm, đâm, va, mất tích, lật đổ,
đâm phải đá ngầm bị phá huỷ, cháy nổ...
- Tai nạn bất ngờ và các nguyên nhân khách quan bên ngoài như: Hàng
về thiếu hụt, ro cháy, mất trộm, mất cắp...
- Rủi ro các hiện tượng xã hội gây ra như chiến tranh, đình công, bạo
động, nổi loạn...
* Các rủi ro trên được coi là bất khả kháng.
Bất khả kháng là những rủi ro khách quan, xẩy ra mọt cách ngẫu nhiên,
bất ngờ ngoài ý muốn của con người, mà các bên tham gia đã cố gắng tìm mọi
cách khắc phục .
- Các rủi ro khách quan thường gây lên tổn thất về hàng hoá hoặc làm
tăng chi phí vận chuyển do bá chi phí khắc phục sự cố cứu hàng hoá và

phương tiện vận tải.
* Phân định trách nhiệm rủi ro trong trường hợp bất khả kháng.

12


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
Rủi ro xảy ra được luật pháp quốc tế quy định là trường hợp miễn
trách. Tức là rủi ro xẩy ra các bên tham gia hợp đồng không có quyền khiếu
nại đòi bồi thường phía bên kia do không thực hiện đúng hợp đồng.
- Trách nhiệm rủi ro vào bên nào bên Êy chịu, tức là hàng hoá trong
quy trình vận chuyển thuộc quyền sở hữu của bên nào thì bên Êy phải chịu rủi
ro và chi phí khắc phục. Việc phân định quyền sơ hữu hàng hoá tuỳ thuộc vào
từng điều kiện giao hàng trong hợp đồng quy định. Theo Incoterms 90 có 13
điều kiện giao hàng trong hợp đồng cơ sở nêu rõ trách nhiệm chịu chi phí và
phân định rõ danh giới chuyển giao rủi do (tức chuyển giao quyền sơ hữu
hàng hoá) .
- Khi rủi ro xẩy ra một bên có trách nhiệm thông báo cho phía đối tác
biết kịp thời và chứng minh được cho phía bên kia đó là rơi vào trường hợp
bất khả kháng.
* Hạn chế rủi ro:
Các bên tham gia ký kết hợp đồng quốc tế thường có điều khoản bảo
hiểm đề phòng rủi ro gây ra. Tuỳ theo điều kiện giao hàng trong hợp đồng
quy định mà bên nhập khẩu hay bên xuất khẩu phải mua bảo hiểm: trị giá bảo
hiểm hiện nay mà các bên thường mua được tính là:
Giá trị bảo hiểm = (100% + 10%) x CIF
Phí bảo hiểm (F) = (CIF + 10%CIF) - R
Việc mua bảo hiểm thường đực ký kết bằng hợp đồng bảo hiểm.
- Các điều kiện bảo hiểm chính có 3 loại: A, B, C. Nếu trong hợp đồng
không quy định điều kiện nào thì mặc nhiên bên mua bảo hiểm có quyền mua

bảo hiểm ở điều kiện là điều kiện có chi phí bảo hiểm thấp nhất và phạm vi
bảo hiểm hẹp nhất. Nó chỉ bảo hiểm "sự cố bất ngờ quan trọng". Rủi ro bảo
hiểm cụ thể là: Hoả hoạn, nổ, tàu hoặc xà lan va vào đá ngầm, chìm hoặc lật,
phương tiện vận chuyển trên bộ bị lật hoặc chệch đường ray; dỡ hàng tại cảnh
tránh nạn, vứt hàng, hy sinh tổn thất kiểu chung.

13


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
- Khi có bất khả kháng xảy ra bên ký kết hợp đồng bảo hiểm phải có
trách nhiệm báo ngay đến Công ty bảo hiểm. Công ty bảo hiểm sẽ cử người
đến kiểm tra, giám định mức độ thiệt hại để bồi thường.
2.2. Rủi ro chủ quan.
Là rủi ro trong quy trình thực hiện hợp đồng do lỗi các bên gây ra vi
phạm đến điều khoản của hợp đồng. Nó có thể thuộc về người bán, người
mua, người vận tải, ngân hàng...
- Trong buôn bán quốc tế, các bên có thể tìm mọi lỗi nhỏ của nhau để
bắt bí, Ðp buộc phía bên kia phải giảm giá hàng hoá, gây thiệt hại cho nhà
xuất khẩu. Thường các nhà xuất khẩu phải chịu rủi ro lớn hơn so với các nhà
nhập khẩu. Căn cứ để bên nhập khẩu thường gây khó khăn cho bên xuất khẩu
chỉ có thể thu được các loại chứng từ xuất trình cho nhà nhập khẩu. Các căn
cứ để bên nhập khẩu thường gây khó khăn cho bên xuất khẩu là L/C (nếu
dùng phương thức thanh toán L/C). Nhà xuất khẩu chỉ có thể thu được tiền
nếu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của l/C: Sự hợp lệ của các loại chứng từ xuất
trình cho nhà nhập khẩu, không vi phạm các điều khoản của hợp đồng, đây là
điều rất khón khăn với các nhà xuất khẩu.
2.2.1. Rủi ro trong xuất khẩu.
Vì đa số các hợp đồng xuất khẩu là hợp đồng CIF và CFR và thường
dùng phương thức thành toán thư tín dụng, do đó khi thực hiện hợp đồng phải

qua nhiều khâu: chuẩn bị hàng, đục và kiểm kiểm tra thư tín dụng, thuê tàu,
bảo kiểm nghiệm, khai thác hải quan, phương thức thanh toán... những khâu
này bên xuất khẩu không thực hiện nghiêm túc, hoặc quy trình thực hiện mặc
phải những lỗi nhỏ đều có thể dẫn đến vi phạm hợp đồng và phải bồi thường.
Chuẩn bị hàng hoá: Là một khâu quan trọng của quy trình xuất khẩu.
Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam thường là hàng sơ cấp (sơ chế và bán
thành phẩm), hàng thủ công mỹ nghệ, hàng nông lâm, thổ, thuỷ sản. việc thu
gom hàng thường mang mún, phần lớn thu gom từ các cơ sở sản xuất nhỏ, từ
14


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
trong dân, từ các cơ sở thu mua (chân hàng)... Cơ sở để thực hiện thu gom
hàng xuất khẩu là các hợp đồng kinh tế.
- Hợp đồng mua đoạn bán đứt.
- Hợp đồng gia công.
- Hợp đồng đổi hàng.
- Hợp đồng đại lý thu mua.
- Hợp đồng nhạn uỷ thác xuất khẩu.
Từ những đặc điểm trên các đơn vị xuất nhập khẩu phải lường trước
được các rủi ro và có biện pháp đề phòng. Sở dĩ vậy, vì nền kinh tế Việt Nam
vẫn là nền kinh tế nhỏ, các cá thể, các công ty thường nhỏ và do lề thói làm
việc của con người mà các chủ thể của các hợp đồng trên thường vi phạm
như: chậm trễ giao hàng, giao hàng không đủ hàng, chất lượng hàng hoá kém
so với hợp đồng... Chính vì vậy làm cho hàng hoá xuất khẩu cũng dễ chậm về
thời gian, thiếu hàng, không đúng với chất lượng trong hợp đồng xuất nhập
khẩu hoặc trong thư tín.
Mặt khác các mặt hàng xuất khẩu của ta thường khó bảo quản, dễ bị
hao hụt về số lượng và suy giảm về chất lượng trong quá trình lưu kho, vận
chuyển, xếp dỡ... Vì thế bao bì đóng gói hết sức cẩn thận, phải chọn bao bì đủ

các tiêu chuẩn khi ký hợp đồng để đảm bảo được phẩm chất hàng hoá tránh
rủi ro.
* Kiểm nghiệm hàng hoá:
Theo quy định của Nhà nước hoặc theo hợp đồng quy đình phải qua cơ
quan kiểm nghiệm cấp giấy chứng nhận, đây là điều kiện để hải quan cho qua.
Việc xem xét giấy chứng nhận kiểm nghiệm là cần thiết để chứng từ hàng hoá
chính xác với thư tín dụng. Nếu có sai do nội dung của "đơn" viết sai hoặc khi
phía nhập khẩu sửa đổi thư tín dụng dẫn tới quy cách hàng hoá có biến đông,
cần xin sửa đổi tới cơ quan kiểm nghiệm.
* Kiểm tra thư tín dụng:

15


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
Khi thực hiện hợp đồng thanh toán thư tín dụng, việc nắm chắc quản lý
và sử dụng với thư tín dụng có quan hệ trực tiếp đến an toàn trong khâu thu
tiền. Thư tín dụng được mở theo hợp đồng của bên nhập khẩu, để đảm bảo
chắc chắn bên nhập khẩu sẽ thanh toán tiền cho bên xuất khẩu khi nhận được
hàng hoá và các chứng từ về hàng hoá. Nội dung của thư tín dụng giống các
điều khoản chính trong hợp đồng đã ký. Chính sự chặt chẽ của thư tín dụng
quy định về việc trả tiền buộc nhà xuất khẩu phải xem xét cẩn thận trước khi
giao hàng bởi vì trong thực tiễn, do nhiều nhân tố sơ xuất trong công tác, lỗi
trong chuyển điện, tập quán buôn bán kinh nghiệm, tình hình thị trường thay
đổi hoặc hãng nhập khẩu có ý lợi dụng quyền chủ động mở thư để thêm vào
các điều khoản có lợi cho bên mình. Thường luôn xuất hiện tình trạng điều
khoản thư tín dụng được mở không phù hợp, thống nhất với quy định của hợp
đồng. Để đảm bảo thu tiền về an toàn và hợp đồng tiến hành thuận lợi, tránh
dẫn tới những tổn thất không đáng có về kinh tế chính trị, nên khi nhận được
thông báo phía đối tác đưa thư tín dụng, bên nhập khẩu cần tiến hành đối

chiểu, kiểm tra dựa vào hợp đồng nếu không đúng yêu cầu bên mở L/C sửa
lại.
* Kiểm tra tài chính của ngân hàng mở thư:
Nhiều trường hợp thực tế xảy ra do khủng hoảng, do lâm vào tình trạng
phá sản ... ngân hàng mở thư tín dụng không đủ khả năng thanh toán cho nhà
xuất khẩu dẫn đến việc không thu hồi được tiền hàng, vì thế: Nhà xuất khẩu
phải kiểm tra tình hình kinh tế của nước sở tại của ngân hàng mở thư, tác
phong kinh doanh của ngân hàng... nếu xác định được tình hình tài chính của
các ngân hàng này không tốt phải xem xét áp dụng các biện pháp thích hợp.
- Thẩm tra tính chất của thư tín dụng và trách nhiệm thanh toán của
ngân hàng mở thư: Thường do ngân hàng của người xuất khẩu thẩm tra, trong
thư tín dụng không được dụng chữ "có thể huỷ bỏ" phải có cam kết của ngân
hàng mở thư "ngân hàng mở thư đảm bảo thanh toán".
- Thẩm tra số tiền và loại tiền của thư tín dụng.
16


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
- Thẩm tra các điều khoản chất lượng, quy cách, số lượng, bao bì hàng
hoá.
- Thẩm tra kỳ hạn bốc xếp, kỳ hạn có hiệu lực và địa điểm đến kỳ quy
định của thư tín dụng.
- Thẩm tra chứng từ: Nhà xuất khẩu phải phải kiểm tra kỹ các chứng từ
cả về nội dung và hình thức mà thư tín dụng đến yêu câù cung cấp nếu phát
hiện thấy có những quy định không bình thường, chẳng hạn yêu cầu hoá đơn
thương mại hoặc chứng nhận xuất xứ phải do người thứ ba của phía nước
ngoài chứng nhận và phần sau cảng đích ghi trên vận đơn, ghi thêm bến tàu
chỉ định nếu cần xử ký thận trọng.
Ngoài ra việc sửa đổi có thể khắc phục cùng các ngành hữu quan như
ngân hàng, vận tải, thương kiểm... nghiên cứu đưa ra các biện pháp thoả đáng.

• Thuê tàu lựa cước: Tuỳ từng điều kiện giao hàng cụ thể ghi trong
hợp đồng mà quy định bên xuất khẩu hoặc bên nhập khẩu thuê tàu. Thông
thường điều kiện giao hàng của hợp đồng xuất khẩu là CIF hoặc CFR (cảng
đến) thì bên bán phải có trách nhiệm thuê tàu. Đối với các công ty xuất nhập
khẩu thông tin về thị trường thuê tàu có thể uỷ thác cho các đại lý hoặc các
nhà môi giới tàu biển thì chi phí sẽ rẻ và phù hợp với hàng hoá mình định
chở.
• Giao hàng với tàu: Quy trình bốc xếp thường dễ gây hư hại về hàng
hoá nên nhà xuất khẩu phải giám sát và thận trọng bố trí các phương tiện phù
hợp đúng thời gian. Sau khi hàng hoá đã được đưa lên tàu chủ hàng lấy biên
lai thuyền phó rồi đổi lấy vận đơn đường biển. Vận đơn đường biển phải là
vận đơn hoàn hảo, tức không có lời phê xấu của chủ tàu về bề ngoài của hàng
hoá lên vận đơn.
• Các chứng từ hàng hoá: Sau khi bốc xếp hàng hoá xuất khẩu xong,
công ty xuất khẩu cần viết chính xác các loại chứng từ theo quy định của thư
tín dụng, chứng từ sẽ được chuyển đến ngân hàng mở L/C của nước nhập
khẩu, ngân hàng này sẽ căn cứ vào L/C của nhà nhập khẩu đã được mở và các
17


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
chứng từ chuyển đến nếu hợp lệ, qua kiểm tra không sai sót thì sẽ chuyển tiền
đến ngân hàng của nước xuất khẩu.
* Các chứng từ gồm có:
- Hối phiếu, hoá đơn, vận đơn, đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận xuất xứ,
chứng từ chế độ ưu đãi phổ biến, phiếu đóng gói và phiếy trọng lượng, giấy
chứng nhận kiểm nghiệm.
- Việc kiểm tra chứng từ nếu phát hiện những chỗ sai sót do nhân viên
của các cơ quan thành lập chứng từ gây ra, tạo cơ sở cho nhà nhập khẩu vì
những lý do khác nhau: biến động thị trường, muốn trả chậm tiền hàng, gây

khó khăn cho nhà xuất khẩu như không chấp nhận thanh toán, bắt sửa như
tăng chi phí, giảm lợi nhuận...
2.2.2. Rủi ro trong nhập khẩu.
Thông thường người nhập khẩu Ýt bị rủi ro hơn người xuất khẩu.
Nhưng đối với các đơn vị nhập khẩu Việt Nam thường gặp những trường hợp
rủi ro sau:
Ở Việt Nam các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu phục vụ cho sản xuất,
một phần nhỏ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước: máy móc, trang
thiết bị hiện đại, nguyên liệu cao trong nước chưa sản xuất được, các hàng
tiêu dùng chất lượng cao... Việc nhập khẩu thường ở dạng hợp đồng uỷ thác
nhập cho các đơn vị, công ty, cơ quan trong nước.
- Các mặt hàng nhập khẩu thường có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao,
trình độ của người ký kết hợp đồng và cơ quan nghiệm thu hàng hoá chưa
theo kịp. Nên khi hàng hoá nhập khẩu về, hay máy móc đã qua sử dụng chỉ
khi kết thúc hợp đồng, hàng hoá đã được bàn giao cho các đơn vị uỷ thác, thì
trong quá trình sử dụng mới phát hiện được máy móc lỗi thời, có nhiều bộ
phận bị hỏng hóc... Việc thay thế các bộ phận khác thường phải nhập khẩu từ
chính công ty đã bán với giá đắt. Mặt khác hợp đồng đã chấm dứt nên những
rủi ro do những người nhập khẩu phải chịu.

18


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
Ví dụ: ở Việt Nam đã có rất nhiều trường hợp xảy ra như trên, đặc biệt
trong việc mua bán các dây truyền sản xuất xi măng.
Muốn khắc phục chỉ bằng cách các đơn vị nhập khẩu phải tìm các
chuyên gia giỏi am hiểu sâu sắc về thương phẩm hàng hoá định giao dịch để
tìm đối tác ký kết hợp đồng, phải nắm vững được các thông tin về thị trường,
về đối tác và chuyên môn về nghiệm thu hàng.

- Rủi ro do không thực hiện đúng hợp đồng của bên nhập khẩu. Vì
những ký do khác nhau như bất khả kháng, do phương tiện vận tải, do nhà
xuất khẩu làm xho hàng hoá bị mất mát, không đúng thời gian quy định, chất
lượng không đúng hợp đồng. Mặt khác công ty nhập khẩu lại ký hợp đồng với
các đơn vị trong nước để bán hàng hoá nhập khẩu của công ty. Tức trong
nghiệp vụ này có sự bàn giao tay ba về hàng hoá, do sù vi phạm của nhà xuất
khẩu hoặc phương tiện vận tải dẫn đến việc nhà nhập khẩu vi phạm hợp đồng
với các đơn vị trong nước.
- Để giải quyết tranh chấp cũng như những tổn thất về hàng hoá trong
trường hợp này nhà nhập khẩu phải chứng minh cho chủ thể mua hàng của
mình biết là nguyên nhân do bên thứ ba vi phạm hợp đồng và chứng minh cho
bên xuất khẩu biết vì sự vi phạm hợp đồng của họ dẫn đến việc nhà nhập khẩu
phải bồi thường cho thoả đáng các bên trên cơ sở này căn cứ là điều khoản
thưởng phạt trong các hợp đồng đã ký.
2.3.3. Rủi ro trong phương thức thanh toán.
Trong phần rủi ro trong xuất khẩu đã trình bày về rủi ro trong phương
thức thanh toán thư tín dụng. Nhưng đây là vấn đề rất quan trọng vì phương
thức thanh toán sẽ quyết định các bên có cố gắng thực hiện hợp đồng, cũng
như thắng thua trong tranh chấp khi xảy ra rủi ro. Vì người cầm tiền thường
nắm phần thắng trong tay và Ýt bị chịu rủi ro hơn.
* Đồng tiền thanh toán.

19


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
Đồng tiền thanh toán phổ biến thường là các tiền tệ mạnh: Franch,
Mác. Yên Nhật, Bảng Anh... nhưng bản thân việc sử dụng các đồng tiền này
vẫn phải chịu các rủi ro nhất định do giá trị của các đồng tiền thường xuyên
thay đổi (do thả nổi tiền tệ của Chính phủ). Mặt khác trong thanh toán quốc

tế, tiền tín dụng được sử dụng rất phổ biến bao gồm: hối phiếu, ký phiếu,
ngân phiếu, séc, đó là những giấy chứng nhận xác định nợ, xác định thanh
toán bản thân nó chức một đồng tiền quốc gia nhất định để thanh toán vì vậy
tiền tín dụng so với các đồng tiền quốc gia được thừa nhận là được phép lưu
hành quốc tế thì Ýt có sự bảo đảm hơn cho nên khả năng rủi ro còng cao hơn
nhưng do tính thuận tiện và tính dễ vận chuyển mà do đó tiền tín dụng được
sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. Những đấy chỉ là rủi ro do đồng
tiền thanh toán mang lại, các bên phải chấp nhận việc hạn chế rủi ro chỉ bằng
cách thoả thuận với nhau một đồng tiền mạnh để thanh toán và áp dụng một
số biện pháp bảm đảm, ví dụ như: lấy vàng làm thước đo giá trị để khi thanh
toán quy đoỉo ra tiền... Còn tín dụng các bên khithanh toán nên kiểm tra kỹ về
tính pháp lý, tính hợp pháp của các tiền tín dụng, khả năng bảo đảm chắc chắn
của tiền tệ, khả năng thanh toán của các bên...
- Các phương thức thanh toán chủ yếu hiện nay trong buôn bán quốc tế
tuỳ thuộc vào mối quan hệ của các chủ thể ký kết hợp đồng mà chọn cho
mình phương thức thanh toán thích hợp.
a. Gửi tiền:
Gửi tiền bằng M/T, T/T, D/D là bên thanh toán chủ động gửi số tiền
cho người nhận thông qua ngân hàng hoặc các con đường khác. Trong buôn
bán quốctế thường áp dụng phương thức này trong các nghiệp vụ như thanh
toán trước tiền hàng, thanh toán cùng đơn đặt hàng, bán chịu. Đặc điểm là đề
cao thiện chí của các bên với sự tin tưởng cao, thủ tục đơn giản, nhanh gọn,
đây là phương thức Ýt chắc chắn nhất. Trong trường hợp bên nhận tiền trước,
giao hàng sau thì có lợi cho bên bán: vốn không bị ứ đọng. Ngược lại, bên
mua chịu sự rủi ro rất cao. Nếu bên bán cố tình trì hoãn việc giao hàng hoặc
20


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
có tranh chấp xảy ra bên mua thường bất lợi. Tức bên mua không có một sự

đảm bảo trong trường hợp này.
Trong trường hợp buôn bán chịu đối với bên bán, tức là giao hàng
trước nhận tiền sau, bên bán không những bị chậm vốn mà còn chịu rủi ro do
bên mua không thanh toán. Do đó bó bất lợi cho bên bán, có lợi cho bên mua.
Phương thức này chỉ áp dụng trong các trường hợp các bên cực kỳ tin
tưởng nhau như có quan hệ liên doanh. Trên thực tế phương thức này Ýt áp
dụng.
b. Uỷ thác nhận tiền (nhờ thu).
Là một phương thức thanh toán trong đó người chủ nợ (người xuất
khẩu) đưa hối phiếu uỷ thác ngân hàng tính tiến hàng từ phía người nợ (nhập
khẩu), có hai loại uỷ thác: Nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
Trong phương thức thanh toán này nhà xuất khẩu phải chịu rủi ro nếu hàng
nhập khẩu phá sản hoặc mất khả năng thanh toán nợ, người xuất khẩu có thể
không thu được về hoặc thu về chậm tiền hàng, sau khi người nhập khẩu từ
chối thanh toán nợ, nếu người nhập khẩu không muốn nhận hàng. Khi đó
hàng hoá của người xuất khẩu đã đến nơi, nộp thuế quan nhập khẩu, kho bãi,
bảo hiểm, chuyển bán dẫn tới bán đấu giá với thấp, hoặc bị gửi về trong nước.
Trong trường hợp giao hoá đơn chấp nhận, sau khi người nhập khẩu nhận
được hàng, việc đến kỳ hạn người nhập khẩu không thanh toán, người xuất
khẩu sẽ bị tổn thất toàn bộ tiền hàng, do đó rủi ro của giao hoá đơn chấp nhận
lớn hơn so với giao hoá đơn thanh toán. Ngược lại, trong phương thức này
người nhập khẩu thì rất có lợi, anh ta không những được thủ tục xin mở thư
tín dụng, không cần đặt tiền thanh toán ngân hàng trước, giảm chi phí mà còn
có lợi cho lưu thông và chu chuyển vốn. Chính từ những đặc điểm trên
phương thức này rất được nhiều công ty xuất khẩu áp dụng, nó kích thích
được việc bán hàng tức khuyến khích việc mua hàng của các hãng nhập khẩu.
Đây là phương pháp của các hãng xuất khẩu tiêu thụ hàng tồn kho và tăng
cường cạnh tranh đối ngoại.
21



Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
c. Thanh toán thư tín dụng (được trình bày ở phần trên)
III. Tranh chấp.

1. Tranh chấp:
Thuật ngữ “tranh chấp” nói chung được hiểu là sự mâu thuẫn, bất
đồng về quyền và nghĩa vụ phát sinh giữa người mua và người bán. Những
bất đồng đó liên quan đến việc giải thích không giống nhau về nội dung các
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, hoặc liên quan đến việc thực
hiện các nghĩa vụ của một bên (người bán hoặc người mua).
Nhìn chung các nhà kinh doanh đều coi thị trường và khách hàng là các
yếu tố sống còn đối với hoạt động kinh doanh của mình, vì thế họ luon mong
muốn tạo được và duy trì chữ "tín" với khách hàng. Song, các tranh chấp từ
HĐMBNT trên thực tế là điều khó tránh khỏi do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Trong số các nguyên nhân dẫn đến tranh chấp có thể chia làm hai nhóm
chính là nguyên nhân khách quan và các nguyên nhân chủ quan.
a. Các nguyên nhân khách quan: Đây là các nguyên nhân xảy ra nằm ngoài
ý muốn chủ quan của các bên ký kết. Các nguyên nhân đó thường là:
+ Yếu tố văn hoá: Truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc cũng như đời
sống văn hoá hiện tại ảnh hưởng rất lớn đến nhạan thức, hành vi và cách xử
sự của con người. Trong kinh doanh quốc tế cũng vậy, các nhà kinh doanh
thường ở xa nhau, Ýt có điều kiện gặp gỡ thường xuyên và nếu có dịp gặp
nhau thì lại bị những khó khăn về văn hoá ứng xử ngăn trở. Kinh nghiệm của
nhiều thương gia cho thấy lời hứa trong kinh doanh có mức độ tin cậy khác
nhau tuỳ thuộc vào nguồn gốc văn hoá. Lời hứa của giới kinh doanh Mỹ được
coi là lời cam kết thực sự. Người Mỹ hứa điều gì thì đều hoàn toàn có thể tin
tưởng rằng họ sẽ thực hiện bằng mọi cách. Điều này xuất phát từ lối sống
thực dụng và tự tin của họ. Nhưng đối với các thương gia Pháp và các nước
Châu Âu khác thì lời hứa chỉ mang tính xã giao.


22


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
+ Yếu tố ngôn ngữ: Sự bất đồng về ngôn ngữ trong kinh doanh làm cho
sự hiểu biết của các bên không giống nhau, là nguyên nhân thưỡng xuyên dẫn
đến các tranh chấp xảy ra. Trong kinh doanh thương mại quốc tế các thứ tiếng
Anh, Pháp được sử dụng khá phổ biến để làm cầu nối giữa các nhà kinh
doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các ngôn ngữ này trong giao dịch thông
thường đôi khi cũng còn gây ra những hiểu nhầm, hiểu sai ý tưởng của nhau
huống chi là trong kinh doanh cần phải sử dụng thứ ngôn ngữ thương mại và
luật pháp chặt chẽ, chính xác, nhiều khi còn cầu kỳ, khó hiểu như các cụm từ
chuyên môn, thuật ngữ rút gọn theo tập quán, các từ viết tắt v.v. làm cho các
thương gia hiểu không chính xác nội dung giao dịch. Và không phải tất cả các
nhà kinh doanh đều sử dụng thành thạo ngoại ngữ , thậm chí họ còn phải sử
dụng cả “ ngôn ngữ ” điệu bộ.
+ Yếu tố thông tin: Thông tin mà các nhà kinh doanh quan tâm là
những tin tức liên quan đến thị trường, giá cả, khách hàng. Hiện nay thông tin
không còn là vấn đề nan giải trên thế giới. Tuy nhiên , vẫn còn có sự cách biệt
về mạng lưới thông tin sẵn có giữa các nước. Không phải ở đâu các nhà kinh
doanh cũng đều có điều kiện tiếp cận đầy đủ mọi thông tin chính xác mà họ
cần. Hiện tượng công ty ma, công ty đang lâm vào tình trạng khó khăn về tài
chính, hàng hoá vận chuyển lòng vòng hay hàng hoá kém phẩm chất v.v. khá
phổ biến nhưng các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu lại chỉ phát hiện ra khi
thực hiện hợp đồng, một phần là do thông tin không kịp thời hoặ thiếu chính
xác.
+ Yếu tố luật pháp và tập quán thương mại: Luật pháp điều chỉnh
HĐMBNT ngày càng đầy đủ , song mỗi hệ thống pháp luật lại có những đặc
điểm riêng. Hệ thống luật lục địa, điển hình là Pháp, Đức đều được văn bản

hoá tỉ mỉ, chính xác và không nhấn mạnh vai trò của tiền lệ pháp. Trái lại, hệ
thống của luật Anh − Mỹ Ýt được pháp điển hoá nhưng lại nhấn mạnh vai trò
của tiền lệ pháp. Vì vậy, cùng một vấn đề liên quan đến HĐMBNT nhưng
luật mỗi quốc gia có thể có những quy định , có cách giải thích khác nhau .
23


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
Các văn bản luật (đạo luật, Bộ luật ) thì Ýt thay đổi nhưng các văn bản dưới
luật thường hay thay đổi. Bên cạnh đó các tập quán thương mại trên thế giới
cũng như ở các khu vực cũng rất phong phú và phức tạp. Do vậy, nếu các bên
ký kết không nắm bắt kịp thời và đầy đủ sự thay đổi của các quy phạm pháp
luật, các tập quán thương mại thì sẽ khó tránh khỏi các tranh chấp phát sinh.
+ Yếu tố cung cầu trên thị trường: Quan hệ cung cầu trên thị trường có
liên quan chặt chẽ tới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì thế khi
quan hệ cung cầu biến động theo chiều hướng bất lợi cho mét trong các bên
ký kết thì rất có thể đẩy họ vào tình thế chấp nhận vi phạm hợp đồng. Do vậy,
đây cũng là nguyên nhân dẫn đến phát sinh tranh chấp giữa các chủ thể của
HĐMBNT.
b. Nguyên nhân chủ quan:
Xét về mặt chủ quan thì sự khác biệt về quyền lợi giữa người mua và
người bán chính là nguyên nhân cơ bản làm phát sinh tranh chấp giữa các
bên. Những điều có lợi cho người bán thì có thể trở thành bất lợi đối với
ngườoi mua và ngược lại. Trong kinh doanh các bên ký kết đều muốn đạt
được hiệu quả cao nhất trong mỗi thương vụ. Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng
mà các bên mong đợi trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng. Mặt khác,
để tận dụng cơ hội kinh doanh nhiều khi các nhà kinh doanh dám chủ động vi
phạm các điều khoản trong hợp đồng và sẵn sàng vi phạm nghĩa vụ đã cam
kết khi cân nhắc hiệu quả kinh doanh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Nói
cách khác, chính các bên đã chủ động gây ra tranh chấp.

Như vậy các tranh chấp từ HĐMBNT có thể phát sinh do các nguyên
nhân khác nhau. Để bảo vệ quyền và lợi Ých hợp pháp của mình các bên phải
tìm ra các biện pháp giải quyết có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, trước khi lựa
chọn các phương pháp giải quyết tranh chấp cần phải hiểu rõ các loại tranh
chấp có thể phát sinh từ HĐMBNT.

24


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
2. Phân loại tranh chấp
2.1. Các tranh chấp có liên quan đến việc ký kết hợp đồng mua bán
ngoại thương.
2.1.1 Tranh chấp liên quan đến cơ sở pháp lý hợp đồng:
Việc ký kết HĐMBNT trước hết phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện,
theo đó hợp đồng trước tiên phải thể ý chí thực, ý chí tự nguyện của các bên
ký kết, đó chính là sự thuận mua vừa bán. Bên bán tự nguyện thoả thuận bán
và bên mua tự nguyện mua. Để đảm bảo nguyên tắc tự nguyện đó thì hợp
đồng chỉ có hiệu lực pháp lý khi nó không vi phạm các trường hợp pháp luật
ngăn cấm như sau:
a. Hợp đồng ký kết do có sự cưỡng bức hoặc đe doạ:
Cưỡng bức, đe doạ là sự tác động về thể chất hoặc tinh thần làm cho
đối phương buộc phải ký kết hợp đồng ngoài ý muốn của họ. Sự cưỡng bức
đó có thể là sự tác động về thể chất như chuốc rượu cho người giao kết bị say
để họ ký kết hợp đồng trong tình trạng mất tỉnh táo, hoặc dùng áp lực tinh
thần buộc đối phương phải chấp nhận ký hợp đồng với những cam kết bất lợi
cho họ. Khi đó dù hợp đồng được thành lập với đầy đủ mọi yếu tố hợp pháp
khác thì vẫn bị coi là vô hiệu.
b. Có sự lừa dối:
Lừa dối là hành vi có tính chất gian trá cố ý như bịa đặt công ty giả,

đưa ra các chứng từ, tài liệu giả về khả năng tài chính của công ty hoặc cố ý
dấu giếm khuyết tật của hàng hoá để làm cho đối phương ký kết hợp đồng, Ví
dụ, máy móc thiết bị đã qua sử dụng nhưng người bán tân trang lại để lừa dối
người mua đó là máy móc thiết bị mới. Những hành vi lừa dối như vậy cũng
sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu.
c. Có sự nhầm lẫn:
Nhầm lẫn là hành vi có tính khách quan (vô ý) khiến cho một hoặc cả
hai hai bên hiểu sai lệch bản chất của vụ việc, do vậy cũng không thể dẫn đến
25


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
một sự thoả thuận tự nguyện , không thể coi là ý chí thực hai bên. Ví dụ, theo
quy ước ở các nước phương Tây thì dấu chấm (.) được sử dụng để phân biệt
các chữ số hàng thập phân, chẳng hạn :1.00, thì ở Việt Nam dấu chấm lại
được dùng để tách biệt giữa chữ số hàng ngàn trở lên với chữ số hàng trăm,
chẳng hạn:1.000, nên rất có thể gây nhầm lẫn khi ký kết và thực hiện hợp
đồng. Vì thế khi ký kết hợp đồng để tránh sự nhầm lẫn này các bên thường
phải ghi thêm bằng chữ.
2.1.2. Tranh chấp về địa vị pháp lý của các chủ thể:
Chủ thể của HĐMBNT có thể là các tự nhiên nhân hay các pháp nhân
có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau, trong khi luật cac nước quy định
không giống nhau về địa vị pháp lý của họ. Vì thế khi đàm phán ký kết hợp
đồng cần xác định xem địa vị pháp lý của họ như thế nào, người tham gia ký
kết hợp đồng với mình có đủ thẩm quyền hay không, người đó nhân danh
mình hay đại diện cho người khác .
Tự nhiên nhân (Natural Person) muốn tham gia quan hệ HĐMBNT
phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo quy định của pháp luật .
Năng lực pháp luật của tự nhiên nhân thường bắt đầu từ khi sinh ra và chỉ kết
thúc khi họ chết đi. Còn năng lực hành vi của tự nhiên nhân chỉ bắt đầu phát

sinh khi công dân đến tuổi thành niên theo quy định của pháp luật. Bởi vì đó
chính là khả năng hửong quyền và thực hiện theo quy định thông qua hành vi
của chính bản thân họ.
Pháp nhân (Legal Person) là một tổ chức thành lập theo luật pháp và
được dùng danh nghĩa riêng cuả mình trong quan hệ kinh doanh. Thông
thường theo quy định của pháp luật một tổ chức muốn thừa nhận là pháp nhân
phải có đủ 4 điều kiện:
- Đó phải là tổ chức thống nhất , được thành lập một cách hợp pháp
- Tổ chức đó phải có tài sản riêng;
- Tổ chúc đó phải có khả năng chịu trách nhiệmmbằng tài sản riêng;

26


Kho tài liệu miễn phí của diễn đàn Ketnooi.com
- Tổ chức đó phải có quyền hành động với danh nghĩa riêng của mình,
có thể ra trước toà với tư cách nguyên đơn hoặc bị đơn
Khi có đủ 4 điều kiện trên thì các pháp nhân được coi là có năng lực
chủ thể đẻ ký kết các HĐMBNT. Tuy nhiên, trong quan hệ mua bán quốc tế
thì địa vị pháp lý của các pháp nhân cũng là vấn đề khá phức tạp. Nhìn chung
luật pháp các nước đều quy định địa vị pháp lý của cac pháp nhân được xác
định theo luật quốc tịch. Tức là, pháp nhân mang quốc tịch nước nào thì địa vị
pháp lý của nó do pháp luật nước đó quy định. Thế nhưng, việc xác định quốc
tịch cho pháp nhân lại được quy định không giống nhau trong luật pháp các
nước. Theo luật của Pháp, Đức và một số nước khác, pháp nhân đặt trung tâm
quản lý ở nước nào thì mang quốc tịch của nước đó, không phân biệt nơi đăng
ký thành lập hay tiến hành hoạt động của pháp nhân.
Khác với luật của Pháp, Đức, pháp luật của Anh và Mỹ lại quy định
rằng quốc tịch của pháp nhân tuỳ thuộc vào năng đăng ký điều lệ của pháp
nhân khi thành lập, bất kể nơi đặt trụ sở chính hoặc nơi hoạt động của nó.

Pháp luật của một số nước Trung Cận Đông như Ai Cập, Xiri v.v. lại
quy định áp dụng nguyên tắc quốc tịch pháp nhân tuỳ thuộc vào nơi có trung
tâm hoạt động của pháp nhân, bất kể nơi đặt trụ sổ chính hay nơi đăng ký điều
lệ của chính pháp nhân khi thành lập .
Ở Việt Nam, các pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam,
đồng thời cũng đặt trụ sở và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Những pháp
nhân đó được công nhận là mang quốc tịch Việt Nam. Tất cả những pháp
nhân không mang quốc tịch Việt Nam đều được coi là pháp nhân nước ngoài .
Do quy định của các nước về nguyên tắc xã định quốc tịch của pháp
nhân không giống nhau nên trong thực tiễn khó tránh khỏi trường hợp một
phấp nhân được hai hay nhiều nước coi là pháp nhân mang quốc tịch nước
mình. Vì vậy trong việc giao kết HĐMBNT rất dễ xảy ra tranh chấp về địa vị
pháp lý pháp lý của các chủ thể nói chung và của các pháp nhân nói riêng.
2.1.3. Các tranh chấp về nội dung của hợp đồng:
27


×