Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

những hạn chế ,thiếu sót trong việc đưa KTNN lên nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.63 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU
Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) và theo
lý luận của Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ vận dụng vào kinh tế, có
phải nó ý nghĩa là chế độ hiện nay có những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản
(CNTB) lẫn CNXH không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có, song cũng không
phải bất cứ ai cũng thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của
kết cấu kinh tế - xã hội hiện có ở Nga là như thế nào mà tất cả then chốt cả
vấn đề lại chính là ở đó. Áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam, Đảng và Nhà
nước ta đã chủ trương xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đó là một chủ trương
đúng đắn và phù hợp với quy luật phát triển khách quan, bởi thông qua chủ
trương này một nền kinh tế mới được mở ra,các thành kinh tế mới hình thành
được lập ra từ chính nguồn vốn trước đây nằm phân tán trong các tầng lớp
dân cư,do đó mà huy động được tối đa của cải vật chất trong xã hội để xây
dựng đất nước. Từ khi có chính sách đổi mới (1986) đến nay, các thành phần
kinh tế đã đóng góp nhất định của mình vào xây dựng vào nền kinh tế quốc
dân, thúc đẩy sự phát triển của đất nước,qua so sánh giữa hai thời kỳ kinh tế
(Kinh tế cũ kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hóa) ta thấy một bước phát
triển vượt bậc của nền kinh tế nước ta .
Tuy nhiên, theo lý luận Mac: ”Trong bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào
cũng có phương thức sản xuất (PTSX) giữ vị trí chi phối”. Có nghĩa là trong
mỗi chế độ xã hội cần có một thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo, có nghĩa
là trong mỗi chế độ XHCN cần có một thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo,
dẫn dắt các thành phần kinh tế khác đi theo một định hướng xã hội nhất định.
Ngay từ đầu lập nước, đảng ta đã xác định đưa nước Việt Nam tiến lên chủ
nghĩa xã hội, mà cơ sở hình thành nên CNXH đó chính là chế độ công hữu về
tư liệu sản suất (TLSX), tức là TLSX thuộc sở hữu toàn dân. Kinh tế nhà
nước (KTNN) là thành phần kinh tế được hình thành trên hình thức sở hữu
toàn dân vì vậy một tất yếu khách quan là KTNN phải là thành phần kinh tế
nắm vai trò chủ đạo nhằm hướng toàn bộ nền kinh tế đi theo định hướng
XHCN.


Đảng và nhà nước ta đã xác định rằng thời kỳ quá độ lên CNXH đòi hỏi
một thời gian rất lâu dài và sẽ gặp nhiều khó khăn thách thức đặc biệt Việt
Nam lại đi lên từ chế độ phong kiến bỏ qua chế độ TBCN. Ta biết rằng
“chính trị là tập trung của kinh tế”, do đó kinh tế là con đường để hình thành
Trang 1
một thể chế chính trị. Ta định hướng xây dựng CNXH thì phải phát triển
thành phần kinh tế nhà nước thật vững chắc ,làm sao để nó thể hiện vai trò
chủ đạo của KTNN, nắm được quy luật vận động khách quan của kinh tế để
từ đó có cách tác động để KTNN thể hiện được vai trò trọng yếu của nó, để
đất nước ta đi đúng theo định hướng đã chọn.
Việc nhiên cứu (NC), tìm hiểu rồi đến nắm bắt bản chất cũng như vai trò
của KTNN sẽ giúp mỗi chúng ta thấy được tầm quan trọng, tính thiết yếu phải
phát triển KTNN ở nước ta hiện nay nhận thức được những đường lối, chính
sách phát triển mà đảng và chính phủ đưa ra nhằm cải tổ và xây dựng nền
kinh tế XHCN tiến kịp với thế giới, nhưng cũng đồng thời thôi thúc mỗi
chúng ta cần phải góp sức mình vào công cuộc đất nước bằng cách dựa trên
những gì mà ta đã đạt được và chưa làm được để đưa ra những giải pháp kiến
nghị hữu ích cho việc đưa KTNN lên nắm vai trò chủ đạo cũng là để xây
dựng nền kinh tế nước nhà ổn định, phát triển và bền vững.
Đồ án của tôi sẽ đi sâu vào NC về một số vấn đề sau:
Phần I: Khát quát về một số vấn đề lý luận về KTNN, vai trò chủ đạo
của KTNN, giải thích vì sao sự hình thành KTNN là một tất yếu và sự cần
thiết của vai trò chủ đạo của KTNN trong chế độ của chúng ta hiện nay.
Phần II: Thực trạng về vấn đề đưa KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế ở nước ta hiện nay đã đạt được thành quả gì và còn những tồn tại, yếu
kém nào cần khắc phục - nguyên nhân của thực đó.
Phần III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát huy những gì đã đạt
được ,khắc phục những hạn chế ,thiếu sót trong việc đưa KTNN lên nắm vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Do trình độ hiểu biết và lý luận còn rẩt hạn chế , đề án NC của tôi còn rất

nhiều hạn chế và thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự thông cảm cùng những
ý kiến đóng góp để mỗi chúng ta sẽ được nâng cao hơn tầm nhận thức hiểu
biết nhằm phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Mai Hữu Thực đã giúp
em rất nhiều từ khâu cung cấp những kiến thức cơ bản nhất cho đề tài, đến
việc hướng dẫn tìm đọc những tài liệu bổ ích để từ đó em có thể hoàn thành
được đề tài NC này.
Trang 2
NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận về KTNN:
1. Một số khái quát chung về KTNN:
1.1 Khái niệm chung về thành phần KTNN:
Để hiểu đầy đủ về thành phần KTNN, trước hết ta phải tìm hiểu thành
phần kinh tế nhà nước là gì và thành phần KTNN xuất hiện ở nước ta khi nào.
Là một nước đi sau trong tiến trình xây dựng CNXH, chúng ta được học
hỏi rất nhiều kinh nghiệm từ những nước đi trước mà tiên phong là Nga (Liên
Xô cũ). Từ luận điển Lenin về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ - đó phải là
nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và nhà nước ta đã áp dụng vào thực tiển ở
nước ta và đưa ra chủ trương xây dựng một nền kinh tế đa phần mang tính đặc
trưng của thời kỳ giao thời giữa kinh tế TBCN và XHCN.
Trước hết ta hiểu thế nào là một thành phần kinh tế? Thành phần kinh tế
hay đơn vị kinh tế hay đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân là một
kiểu tổ chức kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định có quan hệ quản
lý và quan hệ phân phối riêng của nó. Trong nền kinh tế nước ta có ba hình
thức sở hữu cơ bản là: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Từ
đó mà hình thành nên các thành phần kinh tế khác nhau.
Thành phần KTNN đã xuất hiện như thế nào trong nền kinh tế Việt Nam?
Ta sẽ trở lại từ những ngày đầu giai cấp vô sản giành được chính quyền và bắt
tay vào xã hội mới với một nền kinh tế mới. Đảng ta đã lãnh đạo nhân xây

dựng đất nước theo con đường XHCN, thực hiện mục tiêu “Dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Để xây dựng nền chính trị
XHCN thì đòi hỏi phải có nền kinh tế đặc trưng cho hình thái chính trị ấy -
một nền kinh tế có thành phần chính hình thành trên chế độ công hữu. Trong
lúc bấy giờ, nền kinh tế Việt Nam dựa trên chế độ tư hữu, đó là sở hữu tư
nhân của những người sản xuất nhỏ và sở hữu tư nhân của CNTB. Đối với
hình thức này, Nhà nước đã tiến hành cải tổ, sắp xếp để phát triển thành phần
kinh tế cá thể tiểu thủ công nghiệp và thành phần kinh tế tư bản tư nhân - là
đại diện của quan hệ sản xuất cũ CNTB. Vậy để xây dựng một nền kinh tế
mới XHCN, nhà nước đã đầu tư xây dựng các doanh nghiệp của mình trong
các nghành kinh tế, kết quả là hình thành nên một thành phần kinh tế mới –
KTNN.
Từ đó ta khái niệm được thành phần KTNN là gì? Đó là thành phần kinh
tế dựa trên sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước). Việc tổ chức kinh doanh
Trang 3
tiến hành theo nguyên tắc hoạch toán kinh tế và thực hiện phân phối theo lao
động.
Như vậy, đặc điểm cơ bản của thành phần KTNN với các thành phần kinh
tế khác đó là hình thức sở hữu và nguồn vốn hình thành. Có thể toàn bộ vốn
đều thuộc sở hữu nhà nước hoặc có thể phần vốn đóng góp của nhà nước
chiếm tỷ lệ khống chế (>50% vốn).
1.2 Phân loại KTNN:
KTNN bao gồm ba thành phần cơ bản đó là: các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), các tổ chức nhà nước, những tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
*Về Doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
Khái niệm: DNNN là doanh nghiệp 100% vốn của nhà nước hoặc Doanh
nghiệp cổ phần trong đó vốn của nhà nước chiếm tỷ trọng chi phối.
Trong ba nhân tố cấu thành KTNN ở trên thì DNNN là nhân tố (hay
thành phần) giữ tỷ lệ cao nhất và vai trò quan trọng nhất trong việc đảm bảo
cho KTNN giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy khi

đề cập đến vai trò chủ đạo của KTNN thì người ta thường đề cập đến DNNN
là chủ yếu. Ngay trong nghị quyết hội nghị lần thứ ba ban chấp hành trung
ương Đảng khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả DNNN. Hội nghị đã khẳng định rõ quan điểm “KTNN có vai trò quan
trọng trong việc giữ vững định hướng XHCN. DNNN giữ vị trí then chốt trong
nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều
tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần quan trọng để KTNN thực hiện
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.
DNNN cũng được chia ra làm hai loại: Doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh và hoạt động công ích. Cả hai loại doanh nghiệp này đều mang các đặc
điểm của các thành phần của KTNN và thông thường chúng được chia làm
hai loại nhỏ: các doanh nghiệp do nhà nước giữ 100% và một loại doanh
nghiệp do nhà nước giữ cổ phần chi phối.
Đối với các DNNN hoạt động kinh doanh: Mục tiêu là nhằm thu lợi
nhuận.Nhà nước sẽ giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
trong các lĩnh vực quan trọng đặc biệt và sẽ cổ phần chi phối hoặc 100% vốn
đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh mà nhà
nước cần nắm nhằm bảo đảm ổn định nền kinh tế. Các doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh thông thường là những doanh nghiệp có quy mô lớn có
đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, phải luôn luôn đi đầu trong ứng dụng
kỹ thuật - công nghệ hiện đại, đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân.
Trang 4
Còn các doanh nghiệp hoạt động công ích là những doanh nghiệp hoạt
động không vì mục đích lợi nhuận, có thể không có thu mà nhà nước cấp kinh
phí - đó là những doanh nghiệp cung cấp các hàng hoá công cộng, dịch vụ
công như : An ninh, quốc phòng, giao thông, giáo dục, ytế…..
*Về các tổ chức KTNN:
Các tổ chức KTNN là các tổ chức hoạt động gắn với chức năng quản lý
(kiểm tra, kiểm soát) như tài chính ngân hàng, bảo hiểm, kho bạc nhà nước,
các quỹ dự trữ quốc gia…các tổ chức này có thể do nhà nước cung cấp 100%

vốn hoặc giữ một phần vốn cố định để đảm bảo sự hoạt động ổn định cho các
tổ chức này. Thành phần này cũng có nột vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân.
*Về các tài sản thuộc sở hữu nhà nước:
Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước) được xem là
thành phần của kinh tế nhà nước. Khi Nhà nước nhận được lợi ích kinh tế do
quuền sở mang lại như: đất đai, tài nguyên thiên nhiên,…
2. Sự cần thiết của kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước trong nền kinh tế
2.1. Sự cần thiết có kinh tế Nhà nước trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội
của đất nước.
Với mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước từ ngày bắt tay vào xây dựng Chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc cho đến hôm nay, kinh tế Nhà nước đã được hình
thành, phát triển với những vcị trí khác nhau trong nền kinh tế nhằm thực hiện
những nhiệm vụ kinh té nhất định của từng giai đoạn. Tuy vậy, trong suốt cả
thời kỳ lịch sử ấy, kinh tế nhà nước luôn luôn là lực lượng chủ đạo, nòng cốt,
là công cụ duy nhất để Nhà nước đưa đất nước đi lên theo con đường Xã hội
chủ nghĩa(1955).
Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc(1955), đảng và nhà nước đã chủ
trương xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc theo cơ chế kế hoạch hoà tập
trung bao cấp để tạo cơ sở ban đầu cho một Nhà nước xã hội chủ nghĩa tương
lai khi giải phóng miền Nam và thống nhất nước nhà. Xuất phát điểm từ một
nền kinh tế được xây dựng trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, vì vậy bước
đầu tiên khi bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hiện công cuộc cải
tạo xã hội chủ nghĩa với nhiệm vụ thủ tiêu kinh tế tư nhân, xây dựng kinh tế
quốc doanh (Kinh tế quốc dân) và kinh tế tập thể. Từ đây một loạt các xí
Trang 5
nghiệp quốc doanh (XNQD) được ra đời bằng nhiều cách khác nhau: do Nhà
nước đầu tư xây dựng mới, hoặc quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân. Đến
cuối thời kỳ cải tạo và khôi phục kinh tế, XNQD đã chiếm ưu thế tuyệt đối

trên nền kinh tế quốc dân. Kết quả là kinh tế tư bản tư nhân bị xóa bỏ để
chuyển sang một nền kinh tế mà kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể giữ vị
trí độc tôn. Đến năm 1960, kinh tế quốc doanh vươn lên trở thành lực lượng
kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân nước ta lúc bấy giờ. Và với chủ
trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi lên xã hội chủ nghĩa, kinh tế
quốc doanh được giao cho vai trò chủ đạo của nền kinh tế từ đây.
Giai đoạn 1960 đến 1985:
Đây là giai đoạn khá dài mà lịch sử đất nước đã trải qua những bước
thăng trầm về chính trị, xã hội và kinh tế.
Từ 1960 đến 1975: Vẫn là cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, ở giai
đoạn này Đảng ta chủ trương công nghiệp hoá hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa
miền Bắc và đấu tranh giảu phóng miền Nam. Để tiến hành công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương “ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý”, và do đó các xí nghiệp quốc doanh càng được đầu tư
nhiều hơn và phát triển hơn cả về số lượng và quy mô, đặc biệt là trong ngành
công nghiệp nặng. Một loạt các khu công nghiệp mới được hình thành như:
Việt Trì, Thái Nguyên, Vinh, Đông Anh(Hà Nội)… đây là cơ sở để kinh tế
quốc doanh được mở rộng và phân bổ được khắp các vùng kinh tế lớn, nó sẽ
làm hạt nhân, là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các vùng. Kinh Tế
quốc doanh trong giai đoạng này có vai trò vừa là công cụ quan trọng để nhà
nước tiến hành công nghiệp hoá XHCN ở miền Bắc nhưng lại vừa là tấm
gương phản ánh sự hành công của quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, nó
khẳng định con đường mà Đảng ta đã lựa chọn là đúng đắn.Trên phương diện
chính trị xã hội, thì KTQD luôn là lực lượng tiến bộ xã hội, là đội quân tiên
phong trong việc mở rộng QHSX XHCN.
Từ năm 1975 đến 1980: Cơ chế kế hoạch hoá tập trung thuần tuý vẫn
được duy trị. Sau khi thống nhất đất nước. với định hướng đưa cả nước đi lên
XHCN, nhưng có sự chênh lệch giữa hai miền Nam-Bắc, vì vậy Đảng ta chủ
trương tiếp tục mở rộng QHSX XHCN và công nghiệp hoá XHCN ở miền
Bắc, đồng thời tiến hành công cuộc cải tạo XHCN ở miền Nam. Thi hành chủ

trương đó số lượng các XNQD trên tất cả các lĩnh vực kinh tế (Công nghiệp,
nông nghiệp, thương nghiệp) tăng lên một cách nhanh chóng trên khắp cả
nước. Mặc dù so với giai đoạn trước đó sức đóng góp của KTQD trong giai
Trang 6
đọan này đã giảm sút, song KTQD vẫn đóng vai trò chủ đạo, tuyệt đối quan
trọng công cuộc xây dựng và phát triển QHSX mới CNXH.
Từ 1980-1985: Giai đoạn này nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, năng
lực sản xuất của KTQD không được sử dụng tối đa do thiếu vật tư một cách
nghiêm trọng. Với quan điểm định hướng xây dựng CNXH nên KTQD vẫn
được nhà nước rất chú trọng tìm giải pháp tháo gỡ giai đoạn này cơ chế kế
hoạch hoá tập trung đã cải tiến dần sang phi tập trung hoá trong quản lý kinh
tế, tuy vậy KTQD vẫn giữ vai trò quan trọng tuyệt đối, trong sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, thể hiện ở chỗ các XNQD vẫn nắm giữ các
ngành then chốt như điện, hoá chất, luyện kim, xi măng…
Giai đoạn từ1986 đến nay:
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đưa ra chính sách kinh tế mới làm
nên một bước ngoặt trong lịch sử phát triển kinh tế ở nước ta, đó là chính sách
đổi mới cơ chế kinh tế : xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN. Trong quá trình hình thành cơ chế kinh tế
mới, công tác quản lý KTQD vẫn còn tiếp tục được cải tiến theo hướng phi
tập trung hoá, kế hoạch hoá và quản lý và quản lý đối với KTQD, đồng thời
các thành phần kinh tế khác được hình thành và chú trọng phát triển, đó là
kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và các thành phần khác. Từ đây KTQD
mất vị trí độc tôn trong nền kinh tế quốc dân. Song không có nghĩa là nó
không còn giữ vai trò chủ đạo nữa, mà ngược lại hơn bao giờ hết vai trò chủ
đạo của kinh tế quốc doanh – đã đổi thành kinh tế nhà nước - được xem là
quan trọng và cần thiết nhất. Trên giác độ kinh tế thì KTNN luôn nắm giữ
những lĩnh vực then chốt, những ngành trọng yếu của nền kinh tế như: CN
năng lượng (dầu mỏ, than, điện), công nghiệp luyện kim, công nghiệp vật liệu
xây dựng…

Như vậy cùng với tiến trình lịch sử xây dựng và phát triển QHSX mới
XHCN của nước ta, KTNN đã khẳng định được vai trò chủ đạo mà chỉ có nó
mới thực hiện được những nhiệm vụ mà lịch sử phát triển đưa ra KTNN đã
nắm được những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò mở
đường hướng dẫn nền kinh tế phát triển đúng định hướng đã chọn suốt cả một
thời kỳ lịch sử phát triển kinh tế.
2.2 Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Để hiểu đúng vai trò của một thành phần kinh tế trong một cơ chế kinh tế
nhất định thì ta phải hiểu được cơ chế vận hành và đặc trưng cơ bản của cơ
Trang 7
chế kinh tế đó. Vì vậy ở đây ta nghiên cứu về kinh tế nhà nước trong cơ chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thì trước hết ta sẽ tìm hiểu qua về cơ
chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Ta có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá
do sự tác động của các quy luật vốn có của nó (đó là quy luật giá trị, quy luật
cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tê…), cơ chế đó giải
quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ
chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường.
Vậy nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN mà nước ta đang vận dụng là gì? Đó là nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường, tức là bất kể thành phần kinh tế nào (hay đơn vị kinh tế nào)
của nền kinh tế cũng phải chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường, nhưng đồng
thời phải tuân thủ các nguyên tắc của chế độ XHCN dưới sự quản lý của nhà
nước XHCN. Từ khái niệm này ta có thể hiểu nôm na rằng, xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tức là xây đựng một nền kinh tế thị
trường hướng tới chế độ XHCN, hướng tới thực hiện mục tiêu của XHCN đó
là mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh.
Đặc điểm cơ bản của cơ chế thị trường là cơ chế tự phát, các nhân tố kinh

tế của cơ chế đó tự tác động qua lại theo quy luật kinh tế khách quan mà dẫn
đến sự biến đổi, phát triển của nền kinh tế. Đặc điểm đó vừa là ưu điểm, vừa
là hạn chế của cơ chế này. Nó có thể mang lại một nền kinh tế phát triển với
tốc độ nhanh, nhưng đồng thời mang lại những khuyết tật về xã hội đó là phân
biệt giàu nghèo, bất công, tệ nạn xã hội gia tăng…
Đảng và nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường theo
hướng XHCN dưới sự quản lý của nhà nước tức là muốn dựa trên ưu điểm
của cơ chế thị trường để khắc phục những khó khăn của nền kinh tế kém phát
triển của nước ta, đồng thời đảm bảo tiến được mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ ,văn minh.
Ở các phần trên ta đã rút ra được rằng để xây dựng một nền kinh tế theo
chế độ XHCN thì nhất định kinh tế nhà nước phải luôn nắm vai trò chủ đạo,
bởi nó là lực lượng kinh tế đại diện cho quan hệ sản xuất mới XHCN, nó là
công cụ để nhà nước dẫn dắt toàn bộ nền kinh tế đi đúng hướng đã chọn, nó
đóng vai trò quan trọng trong việc mở đường và hướng đẫn cho nền kinh tế
phát triển. Còn trong cơ chế kinh tế thị trường thì sao?
Trang 8
Nếu nền kinh tế thị trường được để phát triển một cách tự do, không sự
quản lý của nhà nước thì sẽ bộc lộ rõ ngay những hạn chế, yếu kém, những
khuyết tật vốn có của nó. Bởi vậy với định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản
lý của nhà nước thì nền kinh tế thị trường của chúng ta đạt được thành quả cả
về mặt xã hội và kinh tế. Muốn như vậy, mối quan hệ mới XHCN càng phải
được củng cố và phát triển hơn nữa – mà đại diện của nó là thành phần kinh tế
nhà nước phải được tổ chức làm sao ngày càng hoàn thiện và nắm được vai
trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường. Đó là đòi hỏi khách quan do
những đặc điểm của cơ chế kinh tế mới.
Thứ nhất, kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở, theo xu hướng hội
nhập với khu vực và quốc tế, nhưng để có thể hội nhập vào nền kinh tế thế
giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải có cơ sở vật chất, kỹ thuật có quy mô,
công nghệ hiện đại ngang tầm với các nước khác trên thế giới. Bởi có như vậy

Việt Nam mới có thể phát huy được những lợi thế so sánh so với các nước
khác và đứng vững để cạnh tranh được với nền kinh tế vốn lớn mạnh của các
nước trong khu vực và thế giới.
Nhưng một đặc điểm rất nổi bật của các thành phần kinh tế cá thể và tư
bản tư nhân là quy mô sản xuất của chúng rất nhỏ bé, lượng vốn đầu tư xây
dựng cơ sở sản xuất ban đầu rất nhỏ chúng chỉ đủ khả năng tham gia vào một
số ngành, lĩnh vực mà có khả năng tạo lợi nhuận nhiều nhất, đầu tư ít vốn
nhưng chu kì quay vòng vốn nhanh và chỉ có thể cạnh trong nước, hơn một lý
do rất đơn giản là quy mô quá nhỏ hep, vốn quá ít không đủ điều kiện để hội
nhập với các nước bạn.
Trong điều kiện đó thì kinh tế nhà nước với các doanh nghiệp nhà nước
có quy mô lớn và vừa mới có khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế với
các nước trên thế giới. Bởi chỉ có Nhà nước mới có đủ nguồn vốn để xây
dựng được các doanh nghiệp nhà nước đủ lớn trong các ngành, lĩnh vực then
chốt, các ngành kinh doanh mà Việt Nam có lợi thế so sánh so với các nước
khác. Do đó mà kinh tế nhà nước trở thành lực lượng giữ vai trò dẫn dắt, làm
hạt nhân để các danh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân dân có thể tham
gia vào nền kinh tế hội nhập.
Một lý do thứ hai khiến kinh tế nhà nước trở thành lực lượng đầu tàu
trong việc dẫn dắt nền kinh tế nước ta hiện nay là vì trong nền kinh tế luôn
luôn có những ngành, lĩnh vực rất khó có khả năng sinh lời hoặc còn rất nhiều
vùng kinh tế có cơ sở hạ tầng thấp kém khó đầu tư sản cuất, do đó mà các
thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng kinh doanh thì
Trang 9
kinh tế nhà nước phải tham gia vào hoạt động trong các ngành kinh tế hay các
vùng kinh tế để tạo dựng được những cơ sở vật chất ban đầu, thu hút dần các
phần tử kinh tế khác cùng tham gia vào hoạt động. Có như thế thì mới hình
thành nên một cơ chế kinh tế hợp lý trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta đó là tạo nên một nề kinh tế có các ngành, lĩnh vực
được đầu tư, phát triển một cách cân bằng, có các vùng kinh tế phát triển song

song với nhau.
Thứ ba, để xây dựng nền kinh tế phát triển đúng hướng XHCN thì đòi hỏi
phải có sự quản lý của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế bằng pháp luật.
Những nhà hoạt động sản xuất kinh doanh luôn hướng tới mục tiêu quan
trọng nhất đó là làm sao tối đa hoá được lợi nhuận. Nhưng tình hình nước ta
hiện nay, các chủ thể kinh hoanh có thể có trình độ hiểu biết về ý thức, về
quản trị kinh doanh rất khác nhau, có người tham gia vào kinh doanh chỉ vì họ
có vốn nhưng lại thiếu hẳn các ý thức và kiến thức cần thiết, điều đó dễ dẫn
đến những sai phạm về pháp luật và thường chỉ vì lợi nhuận các nhân mà
quyên mất lợi ích của xã hội. Kinh tế nhà nước với lực lượng kinh tế luôn
được nhà nước chú trọn về khâu đào tạo cán bộ có ý thức pháp luật, do đó
trong giai đoạn hiện nay đương nhiên kinh tế nhà nước phải là thành phần
gương mẫu để các thành phần kinh tế khác học tập để hoạt động có hiệu quả
hơn.
Từ ba lý do trên mà ta thấy kinh tế nhà nước đương nhiên phải là thành
phần kinh tế nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế với tư cách là lực lượng đi
đầu trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, là đội quân mở
đường cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia mở rộng hoạt động sản
xuất, kinh doanh tạo một cơ cấu kinh tế phát triển cân đối hợp lý, là lực lượng
gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện pháp luật, hướng dẫn các thành phần
kinh tế khác cùng thực hiện theo luật pháp trong cơ chế kinh tế mới đảm bảo
phát triển một nền kinh tế thị trường lớn mạnh với một xã hội phát triển đúng
định hướng đã chọn của Đảng.
3. Nội dung vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Để đảm bảo thực hiện được vai trò là thành phần kinh tế chủ lực của nền
kinh tế trong giai đoạn hiện nay thì kinh tế nhà nước phải thực hiện được bốn
nội dung hay là bốn chức năng của nó trong kinh tế nhiều thành phần của
nước ta hiện nay.
Trang 10

* Thứ nhất, kinh tế nhà nước mà thành phần chính là các doanh nghiệp
nhà nước, phải đi đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
Là lực lượng kinh tế được nhà nước chú trọng đầu tư, phát triển, do Nhà
nước nắm giữ nguồn vốn chi phối do đó quy mô hoạt động của các kinh tế
nhà nước và đặc biệt là thành phần doanh nghiệp nhà nước rất rộng lớn, và
đang ngày càng được tổ chức sắp xếp lại theo hướng hiện đại nhằm hoạt động
có hiệu quả hơn. Bởi nguồn vốn đầu tư lớn, chủ yếu trong các doanh nghiệp
nhà nước có 100% vốn của nhà nước hoặc nhà nước giữ cổ phần chi phối)
nên các doanh nghiệp nhà nước có điều kiện đầu tư trang thiết bị kỹ thuật,
công nghệ hiện đại. Có khả năng tạo ra năng xuất, chất lượng các loại hàng
hoá, dịch vụ cao, sử dụng tối đa và tận dụng được các nguyên nhiên vật liệu
đầu vào, tiết kiệm được chi phí sản xuất nhưng mang lại hiệu quả sản xuất
cao, đóng góp ngân sách lớn. Chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới có khả năng
đi đầu trong việc việc ứng dụng ác công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao để có
thể đưa kinh tế đất nước theo kịp với nền kinh tế thế giới.
Kinh tế nhà nước phải tạo được động lực thúc đẩy, tạo đà và dẫn dắt các
thành phần kinh tế khác mà cơ bản nhất là thành phần kinh tế tư bản tư nhân
và thành phần kinh tế cá thể (mà chủ yếu là các doanh nghiệp dân doanh)
cũng đóng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Muốn thực hiện được chức
năng này thì kinh tế nhà nước phải cần được chú trọng tron các ngành lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế - bởi chỉ khi các ngành kinh tế này được phát
triển thì mới đủ khả năng đưa nền kinh tế phát triển theo. Tuy nhiên, trong
mỗi thời kỳ phát triển các lĩnh vực, ngành then chốt sẽ có sự thanh đổi, luân
chuyển từ ngành này sang ngành khác, do đó việc xác định ngành lĩnh vực
then chốt cho từng thời kỳ mà phải tính đến cả xu hướng hội nhập cũng như
tiềm năng kinh tế của đất nước là quan trọng. Khi nhà nước đầu tư phát triển
đúng hướng thì kinh tế nhà nước sẽ hoạt động có hiệu quả, thu hút dần các
thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào – như thế là kinh tế nhà nước đã
tạo đà và dẫn dắt được các thành phần kinh tế phát triển, cùng góp phần vào

việc tăng trưởng kinh tế.
Để tạo động lực, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển thì kinh tế
nhà nước phải đi đầu trong việc chuyển giao công nghệ, áp dụng công hiện
đại và sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong các lĩnh vực mà trước đây ít được
đầu tư do ít có khả năng sinh lời, nhưng là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện
về vốn, lao động nên doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu về cải tiến kỹ thuật
Trang 11
công nghệ sản xuất để từđó mở đờng cho các doanh nghiệp dân doanh mạnh
dạn cùng tham gia đầu tư phát triển.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày nay còn gắn liền
với việc bảo vệ môi trường hạn chế việc gây ô nhiễm môi trường, do đó đay
cũng là mọt tiêu thức của phát triển mà doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu,
làm gương để các thành phần kinh té khác đi theo. Việc giảm thiểu ô nhiễm
môi trườngcó liên quan đến vấn đề công nghệ và vấn đề lợi nhuận của các
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp dân doanh thường với số vốn ít ỏi thì công
nghệ cũng lạc hậu, tuy nhiên vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận mà các doanh
nghiệp bỏ qua vấnđề môi trường. Doanh nghiệp nhà nước cũng phải thể hiện
vai trò chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề này đó là khi nhạp và cung cấp
các thiết bị công nghệ cho các doanh nghiệp dân doanh thì doanh nghiệp nhà
nước phải chú trọng đến các thiết bị bảo đảm chống ô nhiễm môi trường và
doanh nghiệp nhà nước phải luôn đi đầu trong việc thực hiện luật bảo vệ môi
trường để các doanh nghiệp khác đi theo.
* Thứ hai, bằng nhiều hình thức, kinh tế nhà nước hỗ trợ các thành phần
kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.
Muốn xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN đương nhiên
phải xây dựng một lực lượng kinh tế đóng vai trò chủ đạo, làm tâm điểm ảnh
hưởng tới các lực lượng khác của nền kinh tế, hướng dẫn, hỗ trợ các lực
lượng kinh tế khác cùng phát triển theo cùng một định hướng đã chọn và đó
chính là KTNN. Trên cơ sở xác định, không một nền kinh tế nào phát triển mà
chỉ dựa trên một thành phần kinh tế mà đó phải là sự phát triển đồng bộ của

nhiều thành phần kinh tế có thể phát huy được mọi tiềm năng của đất nước.
Tuy nhiên như đã phân tích ở các phần trên chúng ta biết rằng quy mô của các
thành phần kinh tế tư nhân của nước ta còn rất nhỏ hẹp, mặt khác thời gian
phát triển còn ngắn nên các doanh nghiệp dân doanh chưa thể tích luỹ để mở
rộng quy mô lớn hơn đẻ làm nguồn cốt cho việc phát triển kinh tế nước ta.
Trong điều kiện đó, chỉ các doanh nghiệp nhà nước có đủ điều kiện để trở
thành lực lượng nguồn cốt, tạo choõ dạ cững chắc cho để dẫn dắt các doanh
nghiệp dân doanh cùng phát triển. Muốn làm được điể đó thì kinh tế nhà nước
phải xác định được cơ cấu thành phần kinh tế của mình một cách hợp lý.
Luôn giữ được vị trí, vai trò xứng đáng, phát huy được lợi thế, khai thác được
khả năng đóng gốp thiết thực vào sự phát triển của kinh tế đất nước, kinh tế
nhà nước phải tích luỹ được vốn để phát triển trong các lĩnh vực then chốt, chi
phối nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trở thành xương sống của nền
Trang 12

×