Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Đề án hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.55 KB, 45 trang )

Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

1

LỜI MỞ ĐẦU
Tiền mặt đã xuất hiện từ lâu và là một phương thức thanh toán không thể thiếu ở
bất cứ một quốc gia nào. Tuy nhiên, sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển đã kéo
theo các phương thức thanh toán phát triển, phương thức này là sự kế thừa và phát
triển của phương thức trước đó. Khắc phục những nhược điểm của phương thức thanh
toán bằng tiền mặt (TTBTM), thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) là phương
thức thanh toán mới ưu việt hơn, đáp ứng một cách tốt hơn cho yêu cầu của sự phát
triển kinh tế.
Hiện nay ở rất nhiều nước trên thế giới việc TTKDTM đã trở nên quen thuộc với
mỗi người dân, trong khi đó ở Việt Nam khối lượng TTKDTM còn chiếm tỷ lệ rất hạn
chế. TTKDTM chưa được người dân chấp nhận rộng rãi, thậm chí nhiều người còn
chưa nhìn thấy tờ séc, tấm thẻ tín dụng bao giờ. Có thể nói mỗi một chúng ta chưa
phát huy được tính ưu việt của TTKDTM và như vậy chúng ta chưa tận dụng hết các
điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của nền kinh tế.
Hiện nay khi mà thanh toán bằng tiền mặt đang là phổ biến thì việc tìm ra giải
pháp cho sự phát triển của TTKDTM là rất cần thiết tuy rằng điều đó không đơn giản.
Nó đòi hỏi phải có sự quan tâm, nghiên cứu một cách đầy đủ, phải có cái nhìn sâu hơn,
rộng hơn. Với mong muốn các hình thức TTKDTM sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ
hơn nữa tại Việt Nam, tôi đã chọn đề tài :
“Hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp”
Nội dung chính của đề tài bao gồm:
Chương 1: Hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
Chương 2: Thực trạng về các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam
trong thời gian qua
Chương 3:Giải pháp phát trển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt
Nam



Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

2

Chương 1: HÌNH THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
1.1

Lưu thông tiền tệ

1.1.1 Khái niệm lưu thông tiền tệ
Lưu thông tiền tệ là sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế để thực hiện các
quan hệ thương mại, hàng hóa, phân phối thu nhập, hình thành nguồn vốn và phúc lợi
xã hội.
Có thể nói sự lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế đóng vai trò như hệ thống mạch
máu trong một cơ thể sống, nếu hệ thống mạch máu này hoạt động tốt thì cơ thể sẽ
khỏe mạnh và phát triển, ngược lại nếu hệ thống mạch máu này hoạt động trục trặc
hoặc hơn thế nữa là bị tắc nghẽn thì cơ thể sẽ ốm yếu và sẽ không thể phát triển bình
thường.
1.1.2 Hai hình thức lưu thông tiền tệ
- Lưu thông bằng tiền mặt
Khái niệm : Là sự vận động của tiền mặt trong nền kinh tế phục vụ cho các quan
hệ thương mại với quy mô nhỏ và trong nội bộ dân cư là chính.
Đây là hình thức trong đó tiền tệ và hàng hóa đồng thời vận động với nhau.
Ưu điểm: Đấy là hình thức đơn giản, chu chuyển nhanh, không gây ách tắc trong
chu chuyển và nó có hiệu quả kinh tế cao đối với người tham gia lưu thông.
Nhược điểm: Hình thức lưu thông này tốn kém về mặt chi phí lưu thông tiền tệ
như in ấn, bảo quản, tổ chức lưu thông...và gây ra những hiện tượng tiêu cực xã hội
như trộm cắp, rửa tiền, trốn thuế và nạn tiền giả.
- Lưu thông không dùng tiền mặt

Khái niệm: Là hình thức lưu thông trong đó tiền tệ và hàng hóa vận động tương
đối độc lập với nhau, đáp ứng cho nhu cầu thanh toán với quy mô lớn, thông thường là
các doanh nghiệp.
Nhược điểm: Hình thức này đòi hỏi phải có trình độ nhất định mới tham gia
được, mọi thanh toán phải thông qua ngân hàng, trang bị cơ sở vật chất ban đầu khá
tốn kém, ngoài ra vấn đề bảo mật cũng phải quan tâm nhiều.
Ưu điểm: Lưu thông không dùng tiền mặt khắc phục được một phần chi phí lưu
thông, tăng cường khả năng kiểm soát của nhà nước, của ngân hàng, tạo ra sự văn
minh lịch sự trong thanh toán.


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp
1.2

3

Thanh toán tiền tệ
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ thanh toán chi trả lẫn nhau phải dùng

hình thức tiền tệ. Vì vậy, thanh toán tiền tệ là một yêu cầu tất yếu khách quan, là điều
kiện cần thiết để phục vụ cho quá trình tái sản xuất xã hội. Tương ứng với hai hình
thức lưu thông tiền tệ ta có hai hình thức thanh toán tiền tệ: Thanh toán bằng tiền mặt
và thanh toán không dùng tiền mặt.
1.2.1 Thanh toán dùng tiền mặt
- Khái niệm: Thanh toán tiền mặt là việc chi trả trực tiếp bằng tiền mặt trong các
quan hệ thanh toán thu chi giữa nhân dân với nhau, giữa các xí nghiệp, tổ chức kinh tế,
cơ quan nhà nước với nhân dân.
- Đặc điểm
Người tham gia thanh toán là nhân dân, các tổ chức kinh tế, các cơ quan nhà
nước, những người không có tài khoản mở tại ngân hàng, thanh toán bằng tiền mặt

không có sự xuất hiện của nhân vật thứ ba.
Thanh toán tiền mặt thích hợp với vai trò của tiền tệ làm vật mô giới trong quá
trình lưu thông. Sau khi xuất chuyển hàng hóa hay cung ứng dịch vụ cho người mua,
người bán nhận được tiền ngay. Và quá trình thanh toán cũng chấm dứt ngay tại đó.
Khi sản xuất và trao đổi phát triển đến một trình độ cao hơn, thì việc thanh toán
trực tiếp bằng tiền mặt không còn tỏ ra là một phương thức duy nhất nữa. Sự hạn chế
của nó biểu hiện ở chỗ, muốn thực hiện một khối lượng lớn tổng giá cả hàng hóa thì
phải có lượng tiền mặt lớn, điều đó làm cho chi phí lưu thông tiền tệ tăng lên, việc tổ
chức lưu thông tiền mặt thêm phức tạp, tốc độ luân chuyển vốn chậm. Ngược lại, nếu
vì một lý do nào đó không có tiền tệ, thì quá trình thanh toán không giải quyết được, từ
đó quá trình tái sản xuất không thể tiếp tục được.
Những bất tiện của việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán đòi hỏi phải có thêm
những hình thức thanh toán thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, với sự phát triển vượt bậc của
hệ thống ngân hàng, các dịch vụ, các công cụ thanh toán đã được ngân hàng nghiên
cứu đưa ra để khách hàng lựa chọn cho mình một hình thức thanh toán thích hợp thay
cho thanh toán tiền mặt. TTKDTM phát sinh từ đó và ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế.


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

4

1.2.2 Thanh toán không dùng tiền mặt
- Khái niệm: TTKDTM là thanh toán qua ngân hàng, là tổng hợp các mối quan hệ
chi trả tiền tệ được thực hiện bằng cách trích chuyển từ tài khoản của người này sang
tài khoản của người khác tại ngân hàng với sự kiểm soát của ngân hàng mà không cần
dùng tiền mặt.
- Đặc điểm: So sánh với thanh toán tiền mặt, TTKDTM có những đặc trưng sau:
Trong TTKDTM, sự vận động của vật tư hàng hóa độc lập với sự vận động của

tiền
tệ cả về thời gian lẫn không gian, thường không ăn khớp với nhau. Nếu như trong
thanh toán bằng tiền mặt, vận động của hàng hóa gắn liền với vận động của tiền tệ, thì
trong TTKDTM người bán có thể thu được tiền trước hoặc sau khi xuất hàng hóa cho
người mua. Sự tách rời về mặt thời gian và không gian trong quá trình thanh toán đặt
ra yêu cầu cho ngân hàng khi tổ chức hệ thống TTKDTM là phải rút ngắn khoảng cách
giữa tiền và hàng.
Trong TTKDTM, vật trung gian trao đổi (tiền mặt) không xuất hiện như thanh
toán bằng tiền mặt theo kiểu hàng - tiền - hàng (H-T-H), mà chỉ xuất hiện dưới hình
thức tiền tệ kế toán (tiền ghi sổ) và được ghi chép trên các chứng từ sổ sách.
Mỗi bên tham gia thanh toán (chủ yếu là người mua) phải mở tài khoản tại ngân
hàng (trừ một vài hình thức thanh toán như ngân phiếu thanh toán của Việt Nam). Vì
một lẽ rất đơn giản, nếu không như vậy thì việc thanh toán không thể tiến hành.
Khác với thanh toán bằng tiền mặt chỉ là quan hệ trực tiếp giữa người mua và
người bán, trong TTKDTM, ngoài chủ thể chịu trách nhiệm thanh toán và chủ thể
được hưởng, còn có sự tham gia của ít nhất một ngân hàng. Quá trình TTKDTM được
diễn ra tại ngân hàng, nên ngân hàng có một vai trò lớn và không thể “vắng mặt” trong
thanh toán qua ngân hàng, vừa là người tổ chức,vừa là người thực hiện các khoản
thanh toán
1.3

Nguồn gốc và vai trò của các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt

1.3.1 Nguồn gốc của thanh toán không dùng tiền mặt
Trong xã hội loài người, nếu còn sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa, thì sự
tồn tại của mối quan hệ Tiền - Hàng là một tất yếu khách quan. Đó là mối quan hệ biện
chứng và tác động lẫn nhau.


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp


5

Theo tiến trình lịch sử hình thành tiền tệ, đồng tiền đã có những bước phát triển
từ thấp đến cao. Trong nền kinh tế tư nhiên khép kín, do nhu cầu còn rất đơn giản, con
người tự sản xuất được những gì mình cần và do đó họ không có nhu cầu trao đổi. Khi
xã hội phát triển và mở rộng hơn, họ thấy rằng mình không thể tự sản xuất mọi thứ mà
mình cần do nhiều lý do, lúc này nhu cầu trao đổi xuất hiện và vấn đề trao đổi là như
thế nào. Vấn đề trùng lặp nhu cầu trao đổi xuất hiện. Nhưng không phải lúc nào và ở
đâu cũng có sự trùng lặp nhu cầu. Muốn trao đổi được hàng hóa thì người ta nghĩ tới
một hàng hóa mà nhiều người cùng cần, đó là vật đứng ra làm vật ngang giá chung hình thức đầu tiên của tiền tệ. Lúc đầu vật ngang gía chung rất đơn giản, nó có thể là
vỏ sò, hến hay con bò miếng đồng ...Do yêu cầu thuận tiện trong trao đổi người ta thấy
rằng cần phải có vật ngang giá chung thế nào đó dễ vận chuyển, dễ chia nhỏ, không
hao mòn và có thể tích trữ dùng cho sau này. Con người đã chọn vàng.
Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, hàng hóa đưa vào lưu thông ngày càng
nhiều đòi hỏi phải có thêm lượng tiền đưa vào đáp ứng nhu cầu của hàng hóa đưa vào
lưu thông. Hơn nữa người ta thấy rằng trong mua bán chịu, tờ giấy ghi nợ cũng có giá
trị như tiền vậy. Tiền giấy ra đời và giúp cho việc trao đổi hàng hóa diễn ra thuận lợi
hơn rất nhiều.
Nhưng sản xuất không ngừng phát triển, khối lượng tiền được đưa vào lưu thông
ngày một lớn, đặc biệt là khi có lạm phát. Tiền giấy bộc lộ những hạn chế nhất định
như chi phí in ấn, bảo quản, tiền giả, kiểm đếm... Hơn nữa, trong nền kinh tế phát triển
như ngày nay khối lượng tiền trong giao dịch là rất lớn, nếu thanh toán bằng tiền mặt
thì rõ ràng là bất tiện. Như vậy, đòi hỏi phải có phương thức thanh toán mới ưu việt
hơn khắc phục được những hạn chế trên, phù hợp với một giai đoạn phát triển kinh tế
mới. TTKDTM xuất hiện như một tất yếu, thể hiện bước phát triển và hoàn thiện ở
đỉnh cao của lịch sử phát triển tiền tệ.
1.3.2 Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt
- Vai trò của TTKDTM đối với nền kinh tế
TĐKDTM góp phần giảm tỉ trọng tiền mặt lưu thông, từ đó có thể tiết kiệm được

chi phí lưu thông như in ấn, phát hành, bảo quản, vận chuyển…Mặt khác, tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác kế hoach hoá và lưu thông tiền tệ.


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

6

TĐKDTM tạo điều kiện tập trung nguồn vốn lớn cho xã hội vào NH để tái đầu tư
cho nền kinh tế, phát huy vai trò điều tiết, kiểm tra của Nhà nước vào hoạt động tài
chính ở tầm vĩ mô và vi mô, góp phần ngăn chặn lạm phát.
- Vai trò của TKDTM đối với các ngân hàng thương mại (NHTM)
Các nhà tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đều
quan tâm đến vấn đề thanh toán là: an toàn - tiện lợi - quay vòng số nhanh. NH trở
thành trung tâm tiền tê - tín dụng – thanh toán trong nền kinh tế. TDKDTM góp phần
không nhỏ vào thành công đó của NH.
TTKDTM tạo điều kiện cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng. TDKDTM
không những làm giảm được chi phí lưu thông mà còn bổ sung nguồn vốn cho NH
thông qua hoạt động mở tài khoản thanh toán của các tổ chức và cá nhân. Như vậy,
NH sẽ luôn có một lượng tiền nhất định tạm thời nhàn rỗi trên các tài khoản này với
chi phí thấp. Nếu
sử dụng nguồn vốn này thi NH không chỉ kiếm được lợi nhuận, giành thắng lợi
trong cạnh
tranh mà còn mang lại lợi ích rất lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
TDKDTM còn thúc đẩy quá trình cho vay. Nhờ có nguồn vốn tiền gửi không kì
hạn, NH còn có cơ hội để tăng lợi nhuận cho mình bằng cách cấp tín dụng cho nền
kinh tế. NH thu hút được nguồn vốn với chi phí thấp nên trên cơ sở đó hạ lãi suất tiền
vay, khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân vay vốn NH để đầu tư, phát triển sản
xuất, kinh doanh có lãi. Mặt khác, thông qua TDKDTM, NH có thể đánh giá được tình
hình sản xuất kinh doanh, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Từ đó giúp NH

an toàn trong kinh doanh, góp phần hạn chế rủi ro và nâng cao được hiệu quả hoạt
động đầu tư tín dụng, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
TDKDTM giúp cho NHTM thực hiện chức năng tạo tiền. Trong thực tế nếu
thanh toán bằng tiền mặt, thì sau khi lĩnh tiền mặt ra khỏi NH, số tiền đó không còn
nằm trong phạm vi kiểm soát của NH. Nhưng nếu TDKDTM thì NH thực hiện trích
chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi của người phải trả sang cho người thụ hưởng hoặc bù
trừ giữa các tài khoản của các NHTM với nhau. Như vậy, thực chất của cơ chế tạo tiền
của hệ thống NH là tổ chức thanh toán qua NH và cho vay bằng chuyển khoản. Vì vậy,
khi TDKDTM càng phát triển thì khả năng tạo tiền càng lớn, tạo cho NH lợi nhuận
đáng kể. TDKDTM góp phần mở rộng đối tượng thanh toán, tăng doanh số thanh toán.


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

7

TDKDTM tạo điều kiện thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ một cách an toàn, hiệu quả,
chính xác, tin cậy và tiết kiệm được thời gian, chi phí. Trên cơ sở đó tạo niềm tin cho
công chúng vào hoạt động của hệ thống NH, thu hút người dân và doanh nghiệp tham
gia thanh toán qua NH. Như vậy, TDKDTM giúp NH thực hiện việc mở rộng đối
tuợng thanh toán, phạm vi thanh toán (trong và ngoài nước) và tăng doanh số thanh
toán, làm tăng lợi nhuận, tăng năng lực cạnh tranh của NH.
- Vai trò của TTKDTM đối với Ngân hàng trung ương (NHTW)
TTKDTM tăng cường hoạt động lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế, tăng cường
vòng quay của đồng tiền, khơi thông các nguồn vốn khách nhau, tạo điều kiện quan
trọng cho việc kiểm soát khối lượng giao dịch thanh toán của dân cư và của cả nền
kinh tế. Qua đó, tạo tiền đề cho việc tính toán lưọng tiền cung ứng và điều hành thực
thi chính sách tiền tệ có hiệu quả.
- Vai trò TDKDTM đối với cơ quan tài chính
Tăng tỉ trọng TDKDTM không chỉ có ý nghĩ tiết kiệm chi phí lưu thông mà còn

giúp cho công tác quản lý tài sản của doanh nghiệp được tốt hơn. Nếu các giao dịch
trong nền kinh tế được thực hiện chủ yếu bằng chuyển khoản thì tiền chỉ chuyển từ tài
khoản người này sang tài khoản người khác, từ tài khoản của doanh nghiệp này sang
tài khoản của doanh nghiệp khác, từ NH này sang NH khác nên tiền tệ vẫn nằm trong
hệ thống NH. Do đó, tổn thất tài sản Nhà nước và tổn thất tài sản của người dân sẽ
được hạn chế.
Như vậy, trên cơ sở tài khoản tiền gửi và các tài khoản thanh toán qua NH đã
giúp cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý như bộ chủ quản, cơ quan thuế…có điều
kiện để kiểm tra, theo dõi doanh thu, chi phí, xác định kết quả kinh doanh chính xác.
Do đó giảm thiểu các tác động tiêu cực của các hoạt động “kinh tế ngầm”, tăng cường
tính chủ đạo của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế và điều hành các chính sác
kinh tế tài chính quốc gia, góp phần làm lành mạnh hoá nền kinh tế – xã hội.
1.4

Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
Theo quyết định 22/NH 21/01/1994 do thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành,

các hình thức TTKDTM được áp dụng trong hệ thống ngân hàng bao gồm: Séc, ủy
nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, ngân phiếu thanh toán, thẻ thanh toán.
Gần đây nhất theo quyết định số 235/2002/QĐ-NHNN ngày 27/03/2002 của
thống đốc ngân hàng nhà nước về việc chấm dứt việc phát hành trái phiếu thanh toán.


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

8

Theo đó kể từ ngày 1/4/2002 NHNN sẽ không phát hành ngân phiếu thanh toán nữa.
Vậy nên nội dung chính của đề tài sẽ không đề cập đến hình thức thanh toán bằng
ngân phiếu thanh toán.

1.4.1 Thanh toán bằng Séc
1.4.1.1

Khái niệm

Séc là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một khách hàng của ngân hàng
ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất định trên tài khoản của mình mở tại ngân
hàng để trả cho người cầm séc hoặc cho người được chỉ đinh trên tờ séc (tổ chức kinh
tế hay cá nhân)
Séc là một mệnh lệnh chứ không phải là một yêu cầu do đó khi nhận được séc
ngân hàng chấp nhận vô điều kiện, trừ trường hợp tài khoản của người phát hành
không đủ hoặc không có tiền trả.
1.4.1.2

Phương thức thanh toán bằng Séc

Có 3 người liên quan đến tờ Séc: - Người phát hành
- Ngân hàng
- Người thụ hưởng séc
Phương thức thanh toán bằng séc được thể hiện qua các sơ đồ sau.
Sơ đồ 1: Vận hành Séc qua một ngân hàng

Người phát
hành

(1)

Người thụ
hưởng


(3)

(2)
Ngân hàng
thụ lệnh

(1) Người phát hành kí phát Séc và giao người thụ hưởng
(2) Người thụ hưởng xuất trình Séc cho ngân hàng thụ lệnh để đòi được trả tiền
(3) Ngân hàng thụ lệnh gửi giấy báo về tình trạng tài khoản cho người phát hành.


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

9

Sơ đồ 2: Lưu thông Séc qua 2 Ngân hàng

Ngân hàng bên
bán

(4)

Ngân hàng bên
mua

(5)
(3)

(7)


(6)

Người bán

(1)

Người mua

(2)

(1) Bán giao hàng cho Mua
(2) Mua phát hành Séc giao cho Bán
(3) Bán nộp Séc vào NH để nhờ thu hộ tiền trên Séc
(4) NH bên bán thu hộ tiền qua ngân hàng bên mua
(5) NH trả tiền cho người hưởng lợi qua NH bên bán
(6) Thanh tóan tiền cho bên Bán
(7) NH quyết toán Séc với người mua
1.4.1.3

Các loại Séc đang áp dụng tại các ngân hàng Việt Nam

Séc chuyển khoản: Là lệnh trả tiền của người phát hành séc đối với NH về việc
trích nộp một khoản tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng
có tên trên tờ séc. Séc chuyển khoản không được phép lĩnh tiền mặt, chỉ được thanh
toán trong phạm vi giữa khách hàng có tài khoản ở cùng một chi nhánh NH (một kho
bạc) hoặc khác chi nhánh NH (khác kho bạc) nhưng các NH, các kho bạc này có tham
gia thanh toán bù trừ (TTBT) trên địa bàn tỉnh thành phố. Thời gian hiệu lực thanh
toán của mỗi tờ séc là 15 ngày kể từ ngày ký phát hành, đến ngày nộp vào NH. Người
phát hành séc phải ghi đầy đủ các yếu tố quy định trên tờ séc. Người thụ hưởng khi
nhận séc phải kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của tờ séc.

Séc bảo chi: Séc bảo chi là tờ séc chuyển khoản thông thường nhưng được NH
bảo đảm chi trả bằng cách trích trước số tiền ghi trên tờ séc từ tài khoản của bên trả
tiền đưa vào một tài khoản riêng (TK tiền ký gửi bảo đảm thanh toán séc) được NH
làm thủ tục bảo chi và đánh dấu bảo chi séc trước khi giao séc cho KH


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

10

Sổ séc định mức: Là một hình thức bảo chi toàn bộ sổ Séc, tức là không bảo chi
từng tờ séc. Mỗi sổ Séc định mức chỉ được áp dụng để chi trả cho môt hoặc một số
người được thụ hưởng thuộc cùng một đơn vị chủ quản.
Séc chuyển tiền: Loại này tương tự loại séc ngân hàng đang áp dụng trên thế giới.
Loại séc này được dùng để thanh toán chuyển khoản hoặc rút tiền mặt.
Séc cá nhân: được áp dụng đối với khách hàng có tài khoản tiền gửi đứng tên cá
nhân tại ngân hàng để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh tóan khác.
Hiện nay theo quy định của ngân hàng, Séc cá nhân có số tiền trên 5 triệu phải làm thủ
tục bảo chi séc, người thụ hưởng phải yêu cầu người phát séc xuất trình CMTND để
kiểm tra và chi nhận séc do đích thân người có tên trên và sau tờ Séc và phải kí tên tại
chỗ.
Tất cả các loại séc trên đều được áp dụng thanh toán trong phạm vi giữa khách hàng
có tài khoản ở cùng một chi nhánh NH (một kho bạc) hoặc khác chi nhánh NH (khác
kho bạc) nhưng các NH, các kho bạc này có tham gia thanh toán bù trừ (TTBT).
1.4.2 Thanh toán bằng thẻ
1.4.2.1

Khái niệm về thẻ thanh toán

Theo điều 24 thể lệ TTKDTM ban hành theo quyết định 22-QĐ/NH1 ra ngày

21/02/1994, thẻ thanh toán được định nghĩa như sau: “Thẻ thanh toán do ngân hàng
phát hành và bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng hoá dịch vụ, các khoản
thanh toán khác và rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả
tiền mặt tự động”
1.4.2.2

Phân loại thẻ thanh toán

Có nhiều cách để phân loại thẻ thanh toán: phân loại theo công nghệ sản xuất,
theo chủ thể phát hành, theo tính chất thanh toán của thẻ, theo phạm vi lãnh thổ...
- Phân loại theo công nghệ sản xuất: Có 3 loại
Thẻ khắc chữ nổi (EmbossingCard): dựa trên công nghệ khắc chữ nổi, tấm thẻ
đầu tiên được sản xuất theo công nghệ này. Hiện nay người ta không còn sử dụng loại
thẻ này nữa vì kỹ thuật quá thô sơ dễ bị giả mạo.
Thẻ băng từ (Magnetic stripe): dựa trên kỹ thuật thư tín với hai băng từ chứa
thông tin đằng sau mặt thẻ. Thẻ này đã được sử dụng phổ biến trong 20 năm qua ,
nhưng đã bộc lộ một số nhược điểm: do thông tin ghi trên thẻ không tự mã hoá được,


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

11

thẻ chỉ mang thông tin cố định, không gian chứa dữ liệu ít, không áp dụng được kỹ
thuật mã hoá, bảo mật thông tin...
Thẻ thông minh (Smart Card): đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán, thẻ có
cấu trúc hoàn toàn như một máy vi tính.
- Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ: Có 3 loại
Thẻ tín dụng (Credit Card): là loại thẻ được sử dụng phổ biến nhất, theo đó
người chủ thẻ được phép sử dụng một hạn mức tín dụng không phải trả lãi để mua sắm

hàng hoá, dịch vụ tại những cơ sở kinh doanh, khách sạn, sân bay ... chấp nhận loại thẻ
này.
Gọi đây là thẻ tín dụng vì chủ thẻ được ứng trước một hạn mức tiêu dùng mà không
phải trả tiền ngay, chỉ thanh toán sau một kỳ hạn nhất định. Cũng từ đặc điểm trên mà
người ta còn gọi thẻ tín dụng là thẻ ghi nợ hoãn hiệu (delayed debit card) hay chậm
trả.
Thẻ ghi nợ (Debit card): đây là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn liền với tài
khoản tiền gửi. Loại thẻ này khi đợc sử dụng để mua hàng hoá hay dịch vụ, giá trị
những giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ thông qua
những thiết bị điện tử đặt tại cửa hàng, khách sạn ... đồng thời chuyển ngân ngay lập
tức vào tài khoản của cửa hàng, khách sạn... Thẻ ghi nợ còn hay được sử dụng để rút
tiền mặt tại máy rút tiền tự động. Thẻ ghi nợ không có hạn mức tín dụng vì nó phụ
thuôc vào số dư hiện hữu trên tài khoản của chủ thẻ.
Thẻ rút tiền mặt (Cash card): là loại thẻ rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động
hoặc ở ngân hàng. Với chức năng chuyên biệt chỉ dùng để rút tiền, yêu cầu đặt ra đối
với loại thẻ này là chủ thẻ phải ký quỹ tiền gởi vào tài khoản ngân hàng hoặc chủ thẻ
được cấp tín dụng thấu chi mới sử dụng được.
- Phân loại theo chủ thể phát hành:
Thẻ do Ngân hàng phát hành (Bank Card): là loại thẻ do ngân hàng phát hành
giúp cho khách hàng sử dụng một số tiền do Ngân hàng cấp tín dụng.
Thẻ do tổ chức phi ngân hàng phát hành: là loại thẻ du lịch và giải trí của các tập
đoàn kinh doanh lớn hoặc các công ty xăng dầu lớn, các cửa hiệu lớn... phát hành như
Diner's Club, Amex...


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp
1.4.2.3

12


Phương thức thanh toán bằng thẻ thanh toán

Các chủ thể có liên quan đến việc phát hành và sử dụng thẻ:
- Ngân hàng phát hành thẻ
- Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ
- Cơ sở tiếp nhận thẻ
- Chủ sở hữu thẻ
Sơ đồ 3: Thanh toán bằng thẻ thanh toán

Ngân hàng phát
hành

(6)

Ngân hàng đại lý
(NH thanh toán)

(7)
(1a)

(1b)

(8)

Người sử dụng thẻ

ATM

(3)
(2)


(5)

(4)

Cơ sở tiếp nhân
thẻ

(1a) Các đơn vị cá nhân đến ngân hàng phát hành xin được sử dụng thẻ (kí quỹ hoặc
vay)
(1b) Ngân hàng cung cấp thẻ cho người sử dụng và thông báo cho ngân hàng đại lý và
cơ sở tiếp nhận thanh toán thẻ.
(2) Người sử dụng thẻ mua hàng hoá dịch vụ và giao thẻ cho cơ sở tiếp nhận
(3) Rút tiền ở hộp ATM hoặc ở ngân hàng đại lý
(4) Trong vòng 10 ngày, cơ sở tiếp nhận nộp biên lai vào ngân hàng đại lý để đòi tiền
(5) Trong vòng 1 ngày, ngân hàng đại lý trả tiền cho cơ sở tiếp nhận
(6) Ngân hàng đại lý chuyển biên lai để thanh toán, lập bảng kê cho ngân hàng phát
hành
(7) Ngân hàng phát hành thẻ hoàn lại số tiền mà ngân hàng đại lý đã thanh toán
(8) Người sử dụng thẻ muốn sử dụng nữa hoặc sử dụng hết số tiền trên thẻ thì ngân
hàng phát hành hoàn tất quá trình sử dụng thẻ


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp
1.4.3

13

Thanh toán bằng thư tín dụng L/C
1.4.3.1


Khái niệm về thư tín dụng L/C

Thư tín dụng (Letter of Credit - viết tắt là L/C) là một cam kết thanh toán có điều
kiện bằng văn bản của một tổ chức tài chính (thông thường là ngân hàng) đối với
người thụ hưởng L/C (thông thường là người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ)
với điều kiện người thụ hưởng phải xuất trình bộ chứng từ phù hợp với tất cả các điều
khoản được quy định trong L/C, phù hợp với Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng
chứng từ (UCP) được dẫn chiếu trong thư tín dụng và phù hợp với Tập quán ngân
hàng tiêu chuẩn quốc tế dùng để kiểm tra chứng từ trong phương thức tín dụng chứng
từ (ISBP).
1.4.3.2

Phương thức thanh toán thông qua thư tín dụng

Sơ đồ 4: Quy trình nghiệp vụ thư tín dụng thương mại
Đơn vị bán

(3)

(5)

(4)

(4)

Ngân hàng bên bán
(NH thanh toán)

Đơn vị mua


(1)
(2)
(7)

(8)

Ngân hàng bên mua
( NH mở thư tín
dụng)

(1) Bên mua lập giấy mở thư tín dụng gởi vào ngân hàng bên mua
(2) NH bên mua gửi giấy mở thư tín dụng cho NH bên bán
(3) NH bên bán gởi thư tín dụng cho bên bán biết
(4) Sau khi kiểm tra thư tín dụng hợp lệ, bên bán giao hàng hoá cho bên mua
(5) Ngay sau đó, bên bán lập hoá đơn giao hàng gởi NH bên bán (NH thanh toán)
(6) NH bên bán sau khi kiểm tra hoá đơn giao hàng phù hợp với giấy mở thư tín dụng
sẽ ghi tăng tài khoản người bán và báo Có cho người bán biết.
(7) NH bên bán nợ NH bên mua
(8) NH bên mua tất toán thư tín dụng và báo bên mua biết


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

14

1.4.4 Ủy nhiêm thu
1.4.4.1

Khái niệm về uỷ nhiệm thu


Uỷ nhiệm thu là lệnh của người bán viết trên mẫu in sẵn do đơn vị bán lập, nhờ
NH phục vụ mình thu hộ tiền sau khi đã hoàn thành cung ứng hàng hoá, dịch vụ theo
các chứng
từ thanh toán hợp pháp, hợp lệ đã được thoả thuận.
Phạm vi áp dụng của hình thức này là giữa các đơn vị mở TK ở cùng một chi
nhánh NH hoặc các chi nhánh NH khác trong cùng một hệ thống hoặc khác hệ thống.
1.4.4.2

Phương thức thanh toán bằng hình thức uỷ nhiệm thu

Sơ đồ 5: Trường hợp hai bên mua bán có tài khoản ở một NH
Ngân hàng
(4)

(3)
(2)

Đơn vị bán
(người thụ hưởng)

(1)

Đơn vị mua
(người trả tiền)

(1) Đơn vị bán giao hàng cho người mua
(2) Đơn vị bán lập uỷ nhiệm thu kèm theo các hoá đơn chứng từ gởi đến NH nhờ thu hộ
(3) NH ghi nợ tài khoản đơn vị mua và báo nợ cho bên mua biết
(4) NH ghi có và báo có cho bên bán biết

Sơ đồ 6: Trường hợp hai bên mua bán có hai tài khoản ở hai NH khác nhau
Đơn vị bán
(người thụ
hưởng)
(2)

(1)

(7)

Ngân hàng
(bên bán)

Đơn vị mua
(người trả
tiền)
(4)

(6)
(3)

(5)

Ngân hàng
(bên mua)


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

15


(1) Đơn vị bán giao hàng cho người mua
(2) Đơn vị bán lập UNT kèm theo các hoá đơn chứng từ gởi đến NH nhờ thu hộ
(3) NH bán gửi uỷ nhiệm thu và hoá đơn chứng từ về NH bên mua
(4) NH bên mua báo cáo cho người mua biết bên bán có giấy đòi tiền
(5) Bên mua chấp nhận hay từ chối báo cáo cho NH biết
(6) NH bên mua báo có về NH bên bán
(7) NH bên bán chi có tài khoản cho đơn vị bán và báo có cho họ biết
1.4.5

Ủy nhiệm chi
1.4.5.1

Khái niệm uỷ nhiệm chi

Uỷ nhiệm chi là lệnh viết của chủ TK yêu cầu NH phục vụ mình trích một số tiền
nhất định từ TK của mình chuyển vào TK được hưởng, để thanh toán tiền mua bán,
cung ứng hàng hoá, dịch vụ, nộp thuế, thanh toán nợ. UNC được áp dụng để thanh
toán cho người được hưởng có TK ở cùng NH, khác hệ thống NH khác tỉnh
1.4.5.2

Phương thức thanh toán bằng hình thức uỷ nhiệm chi

Sơ đồ 7: Sơ đồ thanh toán uỷ nhiệm chi - trường hợp chủ tài khoản và người thụ
hưởng mở tài khoản tại một ngân hàng
(1)

Chủ tài khoản
(người mua)


Người thụ hưởng
(người bán)

(3)

(4)

(2)
Ngân hàng

Sơ đồ 8: Sơ đồ thanh toán uỷ nhiệm chi - trường hợp chủ tài khoản và người thụ
hưởng mở tài khoản tại hai ngân hàng
Người mua

(2)

(1)

(3)

Ngân hàng phục
vụ người mua

Người bán

(5)
(4)

Ngân hàng phục
vụ người thụ

hưởng


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

16

(1) Người thụ hưởng giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho chủ tài khoản (người
mua) theo hợp đồng kí kết
(2) Chủ tài khoản lập uỷ nhiệm chi gửi khách hàng
(3) Ngân hàng sau khi kiểm tra tính hợp lệ của uỷ nhiệm chi và số dư tài khoản
đơn vị mua, ghi giảm tài khoản đơn vị mua và báo cho người mua biết
(4) a. NH ghi tăng tài khoản người thụ hưởng và báo có cho người thụ hưởng (nếu
chủ tài khoản và người thụ hưởng mở tài khoản tại một NH)
b. NH bên chủ tài khoản (bên mua) báo có về NH phục vụ người thụ hưởng
(NH bên mua) nếu cả hai mở tài khoản tại NH khác
(5) NH bên bán ghi tăng tài khoản người bán và báo có cho họ biết.


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

17

Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN
KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
2.1

Thực trạng chung về các hình thức TTKDTM ở Việt Nam thời gian qua

2.1.1 Những thành tựu trong hoạt động TTKDTM ở Việt Nam thời gian qua

Trong thời gian qua hoạt động TTKDTM tại các ngân hàng có sự chuyển biến
mạnh mẽ. Nhiều phương tiện thanh toán và dịch vụ thanh toán mới, hiện đại, tiện ích
ra đời, đáp ứng được nhiều loại nhu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán, với
phạm vi tiếp cận mở rộng tới các đối tượng cá nhân và dân cư. Những bước phát triển
gần đây trong lĩnh vực TTKDTM tại các ngân hàng thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Những con số biết nói
Tỷ trọng tiền mặt so với tổng phương tiện thanh toán có xu hướng giảm dần qua
các năm, điều này ta có thể thấy rõ qua biểu đồ sau.
Biểu đồ 1: Tỉ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán
Đơn vị tính: %

Nguồn: />
Từ biểu đồ trên ta thấy rằng, tỉ lệ tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán đã
giảm qua các năm, từ mức 32.2% năm 1997, giảm xuống còn 23.7% năm 2001,
22.56% năm 2002, 22.03% năm 2003, 20.3% năm 2004, 19% năm 2005, 18.5% năm
2006, 18% năm 2007, 14.4% năm 2008 và năm 2009 chỉ còn 14%. Đây là một dấu
hiệu tích cực cho nền kinh tế. Điều đó thể hiện được những thành quả mà chúng ta đã
đạt được trong hoạt động TTKDTM thời gian qua.


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

18

Trước sự phát triển không ngừng của hình thức TTKDTM thời gian qua, Chính
phủ đã đưa ra đề án phát triển TTKDTM giai đoạn 2006-2010 với mục tiêu như sau:
* Đến năm 2010 tỷ lệ tiền mặt/tổng phương tiện thanh toán không quá 18%. Đến
năm 2020 tỷ lệ này phấn đấu khoảng 15%.
* Đạt mức 80% các khoản thanh toán giữa các doanh nghiệp với nhau thực hiện
qua tài khoản tại Ngân hàng đến cuối năm 2010 và đạt 95% đến năm 2020

Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy rằng TTKDTM của nước ta đã về đích sớm so với
đề án TTKDTM giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ
tướng phê duyệt, đây là một tín hiệu đáng mừng đối với nền kinh tế.
- Từ nền tảng thanh toán hoàn toàn thủ công (mọi giao dịch thanh toán đều dựa
trên cơ sở chứng từ giấy) chuyển dần sang phương thức xử lý bán tự động sử dụng
chứng từ điện tử, đến nay các giao dịch thanh toán được xử lý điện tử chiếm tỷ trọng
khá lớn. Thời gian xử lý hoàn tất một giao dịch được rút ngắn từ hàng tuần trước đây,
nay chỉ còn vài phút (đối với các khoản thanh toán khác hệ thống, khác địa bàn), chỉ
trong vòng vài giây hoặc tức thời (đối với các khoản thanh toán trong cùng hệ thống,
hoặc cùng địa bàn);
- Dịch vụ tài khoản cá nhân của hệ thống NHTM phát triển khá nhanh. Trong
năm 2008, toàn hệ thống ngân hàng có khoảng 15 triệu tài khoản cá nhân, tăng 36% so
với cuối năm 2007. Số lượng thẻ trong lưu thông đạt khoảng 13,4 triệu thẻ, tăng 46%
so với cuối năm 2007 với 142 thương hiệu thẻ thuộc 39 tổ chức phát hành thẻ. Hệ
thống máy ATM có 7.051 máy, tăng 2.238 máy so với cuối năm 2007; mạng lưới chấp
nhận các phương tiện thanh toán đạt 24.760 thiết bị.
Có được kết quả như trên là do nhiều yếu tố tác động như: môi trường pháp lý
trong lĩnh vực thanh toán ngân hàng có những thay đổi theo hướng phù hợp hơn, mạng
lưới điểm giao dịch phục vụ khách hàng của các ngân hàng được mở rộng, thanh toán
điện tử liên ngân hàng được triển khai có hiệu quả,… Nhưng có một số lý do chính
trực tiếp thúc đẩy sự gia tăng tài khoản cá nhân trong thời gian qua, đó là: các NHTM
đã có nhiều nỗ lực trong quá trình phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thanh toán của khách hàng; chú trọng phát triển đa dạng và phong
phú các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, đặc biệt là các dịch vụ ngân hàng bán lẻ
với những ứng dụng công nghệ tin học tiên tiến; bắt đầu quan tâm đến công tác tiếp
thị, tuyên truyền quảng cáo, khuyến mãi cho các sản phẩm dịch vụ của mình khi đưa


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp


19

ra thị trường. Một số ngân hàng còn chủ động tiếp cận với các doanh nghiệp có đông
nhân viên với mức thu nhập ổn định để thực hiện dịch vụ trả lương qua tài khoản ngân
hàng
- Đối tượng tham gia cung ứng dịch vụ thanh toán không còn giới hạn ở các ngân
hàng, Kho bạc Nhà nước mà còn có cả các tổ chức khác không phải ngân hàng như
Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện. Thị trường dịch vụ thanh toán trở nên cạnh tranh
hơn, không chỉ giữa các ngân hàng mà còn giữa ngân hàng và các tổ chức không phải
ngân hàng làm dịch vụ thanh toán. Mỗi một mô hình tổ chức có những đặc trưng riêng,
lợi thế riêng và chiến lược khách hàng riêng, theo đó mà các nhu cầu khác nhau của
từng loại đối tượng khách hàng được đáp ứng.
- Xu hướng liên doanh liên kết giữa các ngân hàng đã hình thành, giúp cho nhiều
ngân hàng thương mại nhỏ vượt qua những hạn chế về vốn đầu tư vào công nghệ và
trang thiết bị phục vụ cho hệ thống thanh toán. Việc liên doanh liên kết trong phát
hành và thanh toán thẻ trở thành một yếu tố không nhỏ góp phần vào sự tăng trưởng
lượng thẻ phát hành ra lưu thông gần đây. Đặc biệt, vào năm 2008 chúng ta đã kết nối
thành công hai hệ thống thẻ liên ngân hàng là Banknetvn và Smartlink trở thành một hệ
thống thẻ thống nhất trên toàn quốc. Đây là nền tảng cơ bản để hướng tới xây dựng và
phát triển một hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt theo đúng chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ. Khi đi vào hoạt động, hai hệ thống này sẽ hỗ trợ lẫn nhau trong việc
cung cấp dịch vụ tới khách hàng, đảm bảo tính ổn định và thông suốt với chất lượng
dịch vụ tốt nhất
2.1.2 Những hạn chế trong thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam và các
nguyên nhân
2.1.2.1

Hạn chế trong thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam

- Nhìn chung, thanh toán bằng tiền mặt còn rất phổ biến trong nền kinh tế. Tiền

mặt vẫn là phương tiện thanh toán chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực doanh nghiệp và
chiếm đại đa số trong các giao dịch thanh toán của khu vực dân cư. TTKDTM tuy
được cải thiện, nhưng thực tế cho thấy khối lượng tiền mặt ngoài lưu thông ngày càng
tăng. Theo báo cáo kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2009 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
cho thấy: dư nợ tín dụng 6 tháng đầu năm 2009 tăng 17,01% so với năm 2008, kéo
theo lượng tiền mặt trong lưu thông cũng tăng lên 19,3%, tiền mặt lưu thông ngoài
ngân hàng ước đạt 306 ngàn tỷ đồng, đây là con số đầu tiên được công bố từ một cơ


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

20

quan không phải là NHNN. Đúng như ông Bùi Quang Tiên, trưởng ban thanh toán
NHNN nhận định “Tiền mặt vẫn là phương thức thanh toán chủ yếu, chiếm tỷ trọng
lớn trong khu vực công, doanh nghiệp và dân cư. Chất lượng, tiện ích mới trong
TTKDTM còn hạn chế, các tiện ích thiết thực và phổ biến (như thanh toán tiền điện,
nước, điện thoại, truyền hình cáp) chưa được triển khai mạnh trên thực tế. Các dịch vụ
thanh toán trực tuyến như Mobile Banking, Internet Banking, Ví điện tử… mới chỉ
dừng lại ở quy mô nhỏ hẹp, chưa triển khai trên diện rộng để đáp ứng nhu cầu thanh
toán nhỏ lẻ của khách hàng”.
- Thời gian qua, tuy tỷ trọng TTKDTM hàng năm đã giảm nhưng còn ở mức cao
hơn so với thế giới. Tỷ trọng này ở các nước tiên tiến như Thụy Điển là 0,7%, Na Uy
là 1%, còn Trung Quốc là nước phát triển trung bình nhưng cũng chỉ ở mức là 10%.
- Số người sử dụng dịch vụ ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, lao động
ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhân viên công sở có thu nhập cao và ổn định.
Đại đa số dân cư, công chức, viên chức thuộc khu vực chính phủ, lao động thuộc các
doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa tiếp cận với các phương tiện và dịch vụ thanh toán.
- Hạ tầng cơ sở và trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh toán còn
nghèo nàn và kém hiệu quả. Năm 2009, nước ta có 7.051 ATM số lượng phân bổ chủ

yếu ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Với dân số nước ta hiện nay là hơn 85
triệu dân thì bình quân 12.055 dân có 1 ATM. Lượng ATM như vậy quá thấp nếu so
với các quốc gia láng giềng ( Singapore: 2.638 dân/ATM). Hơn nữa, các máy ATM lại
chỉ có khả năng phục vụ cho một nhóm nhỏ ngân hàng, chứ không có khả năng sử
dụng chung cho nhiều ngân hàng như thực tế ở nhiều nước hiện nay, làm cho mạng
lưới máy rút tiền tự động càng hạn chế phạm vi phục vụ. Với các thiết bị tại điểm bán
(POS) cũng chung tình trạng như vậy. Luôn có tình trạng một đơn vị chấp nhận thẻ
cùng tồn tại nhiều thiết bị POS của các ngân hàng khác nhau để phục vụ cho các giao
dịch bằng thẻ. Điều này thu hẹp đáng kể phạm vi sử dụng các phương tiện TTKDTM
so với nhiều quốc gia trong khu vực hiện nay, ngay cả khi mật độ thiết bị tương đương
như ở các nước đó.
- Chất lượng, tiện ích và tính đa dạng về dịch vụ TTKDTM chưa phong phú. Khả
năng đáp ứng nhu cầu của nhiều loại đối tượng sử dụng còn hạn chế. Các phương tiện
TTKDTM chưa đạt được tính tiện ích và phạm vi thanh toán để có thể thay thế cho
tiền mặt. Phương thức giao dịch chủ yếu tiếp xúc trực tiếp và mặt đối mặt. Để được


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

21

nhận một sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, các chủ thể tham gia thường phải đến các
điểm giao dịch của ngân hàng. Phương thức giao dịch từ xa, dựa trên nền tảng công
nghệ thông tin hiện đại như giao dịch qua internet, qua mobile, homebanking... chưa
phát triển hoặc mới chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ hẹp.
- Tính cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ở mức thô sơ và phát triển dưới mức
tiềm năng. Cạnh tranh bằng thương hiệu, chất lượng dịch vụ chưa phổ biến. Các tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán, thay vì sáng tạo ra sản phẩm mới hoặc tạo ra giá trị
gia tăng trên sản phẩm cùng loại trên thị trường, lại chỉ tập trung vào yếu tố giá cả
nhằm đánh bại đối thủ cạnh tranh. Điều này không chỉ làm tổn hại tới chính lợi nhuận

của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán trong hoạt động dịch vụ thanh toán, mà
còn tổn hại tới sự gắn kết giữa chính bản thân ngân hàng và khách hàng, khi mà khách
hàng không nhận thấy sự khác biệt giữa các sản phẩm của những ngân hàng khác
nhau, vì vậy mà họ dễ dàng từ bỏ một sản phẩm dịch vụ mang thương hiệu này để đến
với một sản phẩm có thương hiệu khác.
- Phí dịch vụ thanh toán còn khá cao và khó chấp nhận đối với những giao dịch
thanh toán mức trung bình, đặc biệt đối với các giao dịch liên ngân hàng và liên tỉnh.
Ngoài ra, một số phương tiện thanh toán khi sử dụng khách hàng còn phải trả thêm
phụ phí so với việc sử dụng tiền mặt.
- Hệ thống thanh toán cốt lõi là hệ thống thanh toán liên ngân hàng của Ngân
hàng Nhà nước, mặc dù được cải thiện rất nhiều sau khi hoàn tất giai đoạn I của Dự án
hiện đại hệ thống thanh toán, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu gia tăng về hoạt
động thanh toán giữa các ngân hàng. Theo thiết kế ban đầu, hệ thống thanh toán liên
ngân hàng có khả năng xử lý 4.500 giao dịch/ngày. Nhưng từ khi đi vào hoạt động đến
này, hệ thống thường xuyên lâm vào tình trạng quá tải với số lượng giao dịch bình
quân lên tới 10.000 giao dịch/ngày.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn trong lĩnh vực thanh toán chưa đáp
ứng được yêu cầu về trình độ chuyên môn, tác phong phục vụ và đạo đức nghề nghiệp.
2.1.2.2

Nguyên nhân

Xa hoi- Thói quen và nhận thức: Sau đổi mới ngành ngân hàng, toàn bộ những
yêu cầu quản lý tiền mặt áp dụng trước đó được loại bỏ. Tiền mặt trở thành một công
cụ thanh toán không hạn chế về đối tượng và phạm vi sử dụng. Hầu hết chi phí liên
quan đến tiền mặt trong lưu thông như in ấn, phát hành, thu huỷ, vận chuyển, bảo


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp


22

quản, an ninh là chi phí xã hội và do Nhà nước phải chịu. Cá nhân người thanh toán
chỉ phải chịu phần chi phí nhỏ trong đó (kiểm đếm, vận chuyển), trong khi đó tiền mặt
có điểm ưu việt rất lớn là thanh toán tức thời và vô danh, thủ tục đơn giản. Vì vậy, tiền
mặt đã trở thành một công cụ rất được ưa chuộng trong thanh toán và từ lâu đã trở
thành thói quen khó thay đổi của người tiêu dùng và nhiều doanh nghiệp. Thói quen sử
dụng tiền mặt trong thanh toán hiện nay là lực cản lớn trong việc phát triển TTKDTM.
- Thiếu động cơ kinh tế đủ mạnh để khuyến khích TTKDTM: đối với nhiều đối
tượng giao dịch, các công cụ và dịch vụ TTKDTM không chứng tỏ có lợi ích hơn hẳn
về kinh tế so với tiền mặt. Ngược lại, TTKDTM còn phải trả phí cho ngân hàng, thậm
chí còn bị tính giá cao hơn (đối với một số đơn vị chấp nhận thẻ), không được chào
đón tại các quầy thanh toán...
- Kinh tế không chính thức phát triển: nước ta có một nền kinh tế xuất phát từ đặc
điểm sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo quy mô nhỏ, lẻ, với loại hình này thì khả năng
tiếp nhận phương tiện TTKDTM là rất khó khăn. Ngoài ra, một bộ phận rất lớn của
nền kinh tế không chính thức là kinh tế ngầm liên quan tới hoạt động buôn lậu, trốn
thuế, gian lận thương mại, tham nhũng..., luồng luân chuyển tiền tệ phục vụ các hoạt
động này có thể rất lớn. Đối với những người tham gia các giao dịch này, cho dù
phương tiện TTKDTM có thuận tiện thì đó vẫn không phải là phương tiện thanh toán
được lựa chọn, xuất phát từ nhu cầu che dấu nguồn gốc giao dịch và danh tính của đối
tượng tham gia.
- Hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán chưa hoàn thiện, mặc dù trong
thời gian vừa qua hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán đã cải thiện nhiều, song
vẫn được đánh giá là chưa đầy đủ và đồng bộ, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến
thanh toán điện tử và thương mại điện tử. Ví dụ như đối với giao dịch điện tử, chưa đủ
cơ sở để các ngân hàng tổ chức triển khai các kênh giao dịch điện tử vì chưa tạo được
một cơ chế tổng hợp điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử trong ngành ngân hàng,
chưa có sự chấp nhận đồng bộ giao dịch điện tử, chứng từ điện tử giữa các cơ quan
quản lý Nhà nước có liên quan (như Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan,…). Ngày 19

tháng 11 năm 2005 vừa qua Luật Giao dịch điện tử đã được Quốc hội thông qua, đây
là một bước tiến mới mang tính đột phá của Việt Nam trong ứng dụng công nghệ
thông tin để phát triển kinh tế xã hội. Nó tạo nên một nền tảng hành lang pháp lý cho
các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia sâu


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

23

rộng vào các hoạt động thương mại điện tử, cung cấp các dịch vụ thanh toán cho các
chủ thể tham gia kinh doanh trực tuyến trên mạng trong phạm vi toàn xã hội. Tuy
nhiên, để luật này đi vào cuộc sống là cả một quá trình phấn đấu không chỉ của riêng
ngành ngân hàng mà của toàn xã hội. Hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến lĩnh vực
thanh toán vẫn còn những điểm cần phải tiếp tục được chỉnh sửa, thay thế để có thể
phù hợp với thông lệ quốc tế và nhu cầu của người sử dụng. Một số văn bản còn thể
hiện nhiều bất cập và chưa phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Ngoài
ra, với tốc độ phát triển mạnh mẽ về công nghệ thông tin và sự ra đời của hàng loạt các
sản phẩm dịch vụ ngân hàng, nền tảng pháp lý cần được hoàn chỉnh gấp để bao hàm cả
các loại hình tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không phải là ngân hàng, các tổ
chức công nghệ thông tin cung ứng những sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ cho các ngân
hàng, các tổ chức làm dịch vụ thanh toán, chẳng hạn như những công ty cung cấp giải
pháp công nghệ qua mạng Internet, các công ty kinh doanh dịch vụ thẻ, các tổ chức
chuyên làm dịch vụ thanh toán bù trừ...
- Thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành hữu quan, chính quyền địa
phương các cấp trong việc tạo ra môi trường kinh tế, xã hội thuận lợi cho việc phát
triển TTKDTM.
-ngan hang Vốn đầu tư vừa thiếu, vừa được sử dụng kém hiệu quả: từ giác độ
các ngân hàng thương mại, vấn đề lớn nhất trong phát triển hoạt động thanh toán là
những hạn chế về vốn đầu tư. Vốn đầu tư đòi hỏi phải rất lớn và thời gian thu hồi vốn

dài hạn. Vì vậy, chỉ có những ngân hàng lớn, có tiềm lực mạnh về tài chính, chủ yếu là
các ngân hàng thương mại Nhà nước hiện nay mới có khả năng tập trung đầu tư lớn về
trang thiết bị phục vụ cho hoạt động thanh toán. Các ngân hàng nhỏ chủ yếu chọn cách
chia sẻ mạng lưới với các ngân hàng lớn. Tuy nhiên, khả năng chia sẻ mạng lưới và hạ
tầng kỹ thuật khác giữa các ngân hàng còn hạn chế, do các ngân hàng chưa tìm được
tiếng nói chung để đi đến thoả thuận kết nối thống nhất nhằm chia sẻ hạ tầng kỹ thuật.
- Cơ cấu tính phí dịch vụ thanh toán còn bất hợp lý, thể hiện ngay cả các giao
dịch thanh toán qua ngân hàng nhà nước, cũng như trong nội bộ tổ chức tín dụng.
- Trình độ cán bộ phục vụ cho hoạt động thanh toán rất bất cập, chủ yếu do công
tác đào tạo cơ bản cũng như chuyên sâu trong lĩnh vực thanh toán chưa đáp ứng được
yêu cầu. Thực tế này không chỉ phổ biến ở các ngân hàng thương mại, mà ngay cả ở


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

24

Ngân hàng Nhà nước là cơ quan chịu trách nhiệm về quản lý Nhà nước trong thanh
toán;
- Thông tin tuyên truyền chưa được định hướng đúng đắn: công tác thông tin
tuyên truyền chưa được quan tâm, chú trọng. Những mục tiêu chiến lược, định hướng
và các chính sách lớn để phát triển hoạt động thanh toán chưa được công bố đầy đủ
cho công chúng. Vì vậy, không chỉ người dân mà thậm chí nhiều doanh nghiệp còn rất
ít hiểu biết hoặc hiểu biết mơ hồ về các dịch vụ thanh toán và phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt. Ngoài ra, các phương tiện thông tin đại chúng đôi khi còn phản
ánh thiên lệch, khai thác những yếu điểm, lỗi kỹ thuật hoặc những yếu tố tiêu cực
mang tính cá biệt để đưa lên công luận, khiến cho thông tin đến với những người tiêu
dùng thường một chiều, thậm chí sai lạc, gây mất lòng tin vào một công cụ thanh toán
nào đó ngay từ khi mới bắt đầu phát triển
cac don vi chap nhan the con han che do phai ke khai tinh trang tai chinh cua

doanh nghiep,
su lien ket giua cac ngan hang chua duoc nang cao trong viec
2.2

Thực trạng của từng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt

2.2.1 Tình hình thanh toán bằng Séc
Ngày 9/5/1996, Chính phủ đã ban hành nghị định 30 về phát hành và sử dụng
Séc. Ngày 27/12/1996 Ngân hàng nhà nước đã ban hành thông tư 07 hướng dẫn thi
hành nghị định trên của chính phủ. Những văn bản pháp quy về phát hành và sử dụng
Séc có hiệu lực hơn 5 năm nay. Nhưng Séc vẫn chưa đi vào cuộc sống. Ta có thể thấy
rõ điều này qua các con số thống kê về TTKDTM tại thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố HCM là một thành phố lớn có tốc độ phát triển và thu nhập bình quân
đầu người cao nhất cả nước. Nhưng các hình thức TTKDTM cũng phát triển rất ì ạch.
Thanh toán bằng ủy nhiệm chi được ưa chuộng nhất trong khâu thanh toán do thủ tục
đơn giản, hiện đang chiếm vị trí tuyệt đối trong khâu thanh toán giữa các thể nhân và
pháp nhân khác nhau trong nền kinh tế. Tính hết 6 tháng đầu năm nay, thể thức này
chiếm tỷ trọng 90,97% tổng doanh số TTKDTM. Trong khi đó, tỷ trọng thanh toán
bằng Séc qua ngân hàng còn rất khiêm tốn, tỷ trọng này chỉ là 0,31% trong tổng doanh
số TTKDTM tại Tp. HCM tính đến 6 tháng đầu năm nay. Còn ủy nhiệm thu, tỷ trọng
thanh toán cũng rất thấp, chỉ bằng 2,07% tổng doanh số không dùng tiền mặt. Vậy vì
sao các công cụ TTKDTM ở một đô thị lớn như thành phố HCM lại phát triển chậm và


Đề án: Hình thức TTKDTM ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp

25

lệch lạc như vây? dẫu rằng không phải chúng ta không thấy được tác động tích cực của
nó.

Thanh toán bằng séc thuận lợi và nhanh chóng trong giao dịch mua bán. Nhưng,
ra đời đã lâu mà séc vẫn chưa phát triển được như mong đợi ở Việt Nam. Ở các ngân
hàng thương mại, hình thức thanh toán bằng séc chiếm tỷ lệ rất thấp (khoảng 2%)
trong tổng thanh toán phi tiền mặt; trong đó chủ yếu là thanh toán giữa các doanh
nghiệp với nhau, còn thanh toán giữa doanh nghiệp với cá nhân, giữa cá nhân với cá
nhân rất ít.
- Những khó khăn khi thực hiện thanh toán bằng Séc
Việc thanh toán séc gặp không ít phiền phức. Hiện nay, khách mua và khách bán
hàng có tài khoản ở cùng một ngân hàng thì khi khách bán đến ngân hàng để nộp séc,
ngân hàng sẽ ghi có trên tài khoản khách bán và ghi nợ trên tài khoản khách mua.
Nhưng khi khách mua và khách bán không có tài khoản ở cùng một ngân hàng, các
ngân hàng thương mại phải thông qua hệ thống thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà
nước. Mỗi ngày chỉ có 2 phiên thanh toán bù trừ (vào lúc 10 giờ sáng và 15 giờ) và
việc kiểm tra séc ở Ngân hàng Nhà nước vẫn chủ yếu là thủ công. Nếu các ngân hàng
phát hành vài chục nghìn tờ séc mỗi ngày thì việc thanh toán bù trừ trong ngày gặp rất
nhiều khó khăn. Thêm vào đó, tâm lý của người bán nhận séc thường lo ngại trên tài
khoản của người mua không còn tiền, séc giả, dễ dẫn đến rủi ro trong giao dịch nên
hay từ chối việc thanh toán séc.
Hiện nay, số khách hàng sử dụng séc không tốt, séc giả tăng lên rất nhiều. Công
nghệ khoa học càng hiện đại thì hình thức và cách thức sử dụng séc giả càng tinh vi
hơn, thủ thuật hơn. Đây là một bất lợi cho thị trường séc vì nó không chỉ ảnh hưởng
đến doanh số mà còn ảnh hưởng đến cả lòng tin của khách hàng vào hình thức thanh
toán vẫn còn chưa phổ biến này. Nhiều khi nó còn ảnh hưởng đến cả uy tín của ngân
hàng phục vụ người trả tiền cũng như uy tín của ngân hàng phục vụ người thụ hưởng.
Đây là mối hiểm hoạ lớn nhất cho thị trường séc.
2.2.2 Thanh toán bằng thẻ thanh toán
2.2.2.1

Một số thành tựu nổi bật trong thanh toán bằng thẻ thanh


toán tại Việt Nam thời gian qua
- Mục tiêu đưa ra trong đề án phát triển TTKDTM đến năm 2010 là: phát hành 15
triệu thẻ trên cả nước, 70% các trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng, khách sạn...


×