1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới đều coi trọng phát triển giáo dục và đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực con người, coi đó là yếu tố cơ bản của sự phát triển
nhanh và bền vững của một quốc gia. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng
định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững”.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước đặt ra yêu cầu rất to lớn cho giáo dục và
đào tạo. Phải làm sao tạo ra những con người lao động sáng tạo, có phẩm chất đạo
đức tốt và có năng lực nghề nghiệp, có lòng nhiệt tình với công việc được giao. Để
đáp ứng yêu cầu đó, tất yếu phải nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở tất cả
các cơ sở đào tạo. Vì vậy, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trở thành một
vấn đề rất bức thiết hiện nay.
Để thực hiện được mục tiêu đó, đòi hỏi chúng ta phải phát triển giáo dục, thực
sự coi giáo dục là “Quốc sách hàng đầu”. Nâng cao chất lượng giáo dục nhằm thực
hiện nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là nhiệm vụ hàng đầu và
quan trọng của các nhà trường hiện nay. Chất lượng giáo dục và đào tạo phụ thuộc
rất lớn vào hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Trong đó dưới sự tổ
chức, điều khiển của thầy, trò tự giác, chủ động, tích cực tự tổ chức quá trình nhận
thức nhằm thực hiện các nhiệm vụ học tập của mình. Như vậy, trong các trường
Trung cấp chuyên nghiệp học tập là hoạt động chủ đạo của học sinh, là con đường
tốt nhất cho mỗi học sinh giúp họ làm phong phú thêm những hiểu biết của mình,
giúp họ sáng tạo ra những giá trị để đạt tới thành công trong cuộc sống.
Tuy nhiên, trong nhà trường hiện nay, việc quản lý hoạt động học tập của học
sinh là một trong những nhiệm vụ quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo, tuy
nhiên hoạt động này cũng còn nhiều tồn tại. Từ kinh nghiệm công tác của mình tại
trường Trung cấp Kỹ thuật Công - Nông nghiệp Quảng Bình, tác giả nhận thấy trên
2
thực tế chất lượng học tập của học sinh trong nhà trường nói chung còn nhiều hạn
chế, một bộ phận học sinh không chú tâm vào học tập, chưa ý thức được vai trò của
hoạt động học tập, thụ động trong việc học, thiếu sự say mê và chưa có ý thức tìm
tòi học hỏi; chưa có phương pháp học tập thích hợp; tỷ lệ đạt học lực khá, giỏi còn
thấp chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội ... Mặt khác, việc quản lý hoạt động học
tập mới chỉ tập trung vào quản lý thời gian học tập theo quy chế của nhà trường chứ
chưa quan tâm đúng mức đến quản lý nội dung, phương pháp và chất lượng học tập
của học sinh. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến kết quả học tập, rèn luyện của học
sinh chưa cao.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Một số giải pháp quản lý
hoạt động học tập của học sinh trường Trung cấp Kỹ thuật Công - Nông nghiệp
Quảng Bình” để nghiên cứu.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề xuất giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động học
tập của học sinh trường Trung cấp Kỹ thuật Công - Nông nghiệp Quảng Bình.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động học tập của học sinh trường Trung cấp chuyên
nghiệp.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý hoạt động học tập của học sinh trường Trung cấp Kỹ thuật
Công - Nông nghiệp Quảng Bình.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu đề xuất được các giải pháp quản lý hoạt động học tập của học sinh một
cách khoa học, khả thi và áp dụng vào thực tiễn phù hợp, đồng bộ thì sẽ nâng cao
chất lượng đào tạo của trường Trung cấp Kỹ thuật Công - Nông nghiệp Quảng
Bình.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động học tập của học sinh trường
Trung cấp chuyên nghiệp.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động học tập và giải pháp quản lý hoạt
động học tập của học sinh trường Trung cấp Kỹ thuật Công - Nông nghiệp Quảng
Bình.
5.3. Đề xuất các giải pháp quản lý hoạt động học tập của học sinh nhằm góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo ở trường Trung cấp Kỹ thuật Công - Nông nghiệp
Quảng Bình.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Bằng việc sử dụng các phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu; phân loại tài
liệu; hệ thống hóa và khái quát hóa tài liệu nhằm xây dựng cơ sở lý luận về quản lý
hoạt động học tập của học sinh trường Trung cấp chuyên nghiệp.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng các phương pháp điều tra, quan sát, tổng kết kinh nghiệm, phỏng vấn,
lấy ý kiến chuyên gia nhằm khảo sát và đánh giá thực trạng hoạt động học tập, quản
lý hoạt động học tập của học sinh trường Trung cấp Kỹ thuật Công - Nông nghiệp
Quảng Bình.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Nhằm xử lý kết quả số liệu thu được qua điều tra, khảo sát thực trạng.
7. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu quản lý hoạt động học tập của học sinh trường Trung cấp Kỹ
thuật Công - Nông nghiệp Quảng Bình.
8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài góp phần khái quát, hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn về quản lý hoạt
động học tập của học sinh trong trường Trung cấp Kỹ thuật Công - Nông nghiệp
Quảng Bình.
Đề xuất các giải pháp quản lý hoạt động học tập của học sinh trường Trung cấp
Kỹ thuật Công - Nông nghiệp Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.
4
9. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động học tập của học sinh trường
Trung cấp chuyên nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động học tập của học sinh trường
Trung cấp Kỹ thuật Công - Nông nghiệp Quảng Bình.
Chương 3: Giải pháp quản lý hoạt động học tập của học sinh trường Trung cấp
Kỹ thuật Công - Nông nghiệp Quảng Bình.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
TRƯỜNG TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trong nước.
Trong lịch sử phát triển của giáo dục, học tập là vấn đề đã được quan tâm
nghiên cứu từ lâu cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm phát huy vai trò tích cực
trong học tập của người học. Song trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, nó được
đề cập dưới các góc độ và hình thức khác nhau.
Chúng ta đang sống trong thời đại mà trí tuệ con người trở thành tài nguyên
quý giá nhất trong các tài nguyên quý giá của một quốc gia dân tộc. Mặt khác dân
trí cao, cùng với những đỉnh cao trí tuệ là điều kiện tiên quyết để một quốc gia dân
tộc thành đạt trong cuộc cạnh tranh khóc liệt mang tính toàn cầu hiện nay. Học tập
luôn là hoạt động cơ bản của mổi người dù ở xã hội nào. Lê nin đã dạy “Học! Học
nữa! Học mãi!”. Vì vậy nâng cao chất lượng học tập của học sinh là mục đích, là
nhiệm vụ chủ yếu của nhà trường hiện nay. Quản lý hoạt động dạy và học như thế
nào để nâng cao chất lượng giáo dục là vấn đề được các nhà giáo dục và quản lý
giáo dục quan tâm nghiên cứu.
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều hội thảo, nhiều ý kiến chuyên gia đề
cập đến vấn đề quản lý hoạt động học tập của người học ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Sau đây là một vài ví dụ:
Đối với giáo dục phổ thông, với quan điểm lấy người học làm trung tâm, tác
giả Nguyễn Kỳ trong tài liệu của mình đã đưa ra:’’Mô hình dạy học tích cực’’, ông
cho rằng chỉ có bằng cách này mới có thể thúc đẩy học sinh tự giác học tập [14,
tr.25]. Để nâng cao chất lượng dạy và học nghề phổ thông, luận án tiến sĩ của Phạm
Văn Sơn đã cho rằng, không chỉ đổi mới cách dạy mà c̣òn phải đổi mới cách tổ
6
chức buổi học thực hành nghề phổ thông theo quy trình 7 bước nhằm tăng cường
tính tự học của học sinh [14, tr.50].
Đối với lĩnh vực giáo dục đại học, Nguyễn Cảnh Toàn đã đi sâu vào nghiên
cứu năng lực tự học của sinh viên trong nhiều năm, ông khẳng định chỉ có phát
triển năng lực tự học của sinh viên thì mới giúp họ khám phá ra cái mới trong khoa
học và trong sản xuất. [21,tr.24].
Đối với lĩnh vực dạy nghề, Đặng Danh Ánh trong các công trình nghiên cứu
của mình cho rằng, hoạt động học tập của học sinh học nghề luôn luôn gắn kết với
quá trình sản xuất kinh doanh, hoạt động này có tính chất học tập - sản xuất
[1,tr.45].
Để hoạt động học tập - sản xuất đạt hiệu quả cao cần phải áp dụng phương pháp
dạy học mới - dạy học nêu vấn đề vì qua thực nghiệm tác giả nhận thấy phương
pháp học tập truyền thống tạo ra lớp học sinh thực hiện máy móc các động tác sản
xuất nên năng xuất lao động thấp, còn dạy học nêu vấn đề sẽ tạo ra thế hệ học sinh
có tư duy kỹ thuật sáng tạo, năng lực từ giải quyết tốt các tình huống khó khăn
trong sản xuất, vì thế năng xuất lao động cao.
Tóm lại có nhiều yếu tố nâng cao hoạt động học tập của học sinh, sinh viên,
nhưng việc đổi mới cách dạy và cách học có vai trò rất quan trọng.
Từ nhiều góc độ, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu và phân tích hoạt động học
tập để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động học tập.
1.1.2. Ngoài nước.
Trong lịch sử phát triển của giáo dục, học tập là vấn đề đã được quan tâm
nghiên cứu từ lâu cả về lý luận và thực tiễn nhằm phát huy vai trò tích cực học tập
của người học. Song ở từng giai đoạn phát triển của lịch sử vấn đề học tập được đề
cập tới dưới nhiều hình thức khác nhau.
7
Ngay từ thời cổ đại Khổng Tử (551 - 479 trước Công nguyên), nhà giáo dục
kiệt xuất của Trung Hoa cổ đại, rất quan tâm đến việc kích thích sự sáng tạo, suy
nghĩ của học trò. Cách dạy của ông là gợi mở để học trò tìm ra chân lý. Ông đã từng
dạy học trò của mình rằng: “Không giận vì muốn biết thì không gợi mở cho, không
bực thì không rõ đựơc thì không bày vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết một góc
mà không suy ra ba góc kia thì không dạy nữa".
Nhà sư phạm lỗi lạc Tiệp Khắc J.A. Comenxky (1592 - 1670) - Ông tổ của
nền giáo dục cận đại, đă khẳng định: “Không có khát vọng học tập thì không thể trở
thành tài năng”, cần phải làm thức tỉnh và duy trì khát vọng học tập trong học sinh.
Đến thế kỷ XVIII - XIX, nhiều nhà giáo dục nổi tiếng như J.I. Rousseau
(1712 - 1778), Distecvec (1790 - 1866), Usinxki (1824 - 1873),...trong các tác phẩm
nghiên cứu của mình đều có chung quan điểm cần hướng cho học sinh tự mình
giành lấy tri thức bằng con đường tự khám phá, tự tìm tòi và tự suy nghĩ.
Trong những năm gần đây, trên cơ sở kế thừa có phê phán các tư tưởng của
các nhà giáo dục đi trước, các nước phương Tây nổi lên cuộc cách mạng tìm
phương pháp giáo dục mới dựa trên hướng tiếp cận “Lấy người học làm trung tâm”
để làm sao phát huy năng lực nội sinh của người học. Đại diện cho tư tưởng này có
John Dewey (1859 - 1952), ông cho rằng: “ Học sinh là mặt trời, xung quanh nó
quy tụ mọi phương tiện giáo dục”
Như vậy vấn đề học tập trong quá trình dạy học đã được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau, các tác giả đã chỉ ra vai tṛò, tầm quan
trọng của hoạt động học tập, các kỹ năng tự học và một số giải pháp tổ chức hoạt
động học tập cho học sinh. Tuy nhiên về vấn đề học tập của các trường Trung cấp
chuyên nghiệp ít được các tác giả quan tâm. Do vậy, việc đi sâu nghiên cứu cơ sở lý
luận về học tập, giải pháp quản lý hoạt động học tập của học sinh, sinh viên là rất
thiết thực. Đặc biệt trường Trung cấp Kỹ thuật Công - Nông nghiệp Quảng Bình với
nhiệm vụ chủ yếu là đào tạo nguồn nhân lực cho XH góp phần vào sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước thì chưa có công trình nghiên cứu nào. Chính vì vậy, chúng tôi chọn
8
đề tài: ”Giải pháp quản lý hoạt động học tập của học sinh trường Trung cấp Kỹ
thuật Công - Nông nghiệp Quảng Bình” nhằm không ngừng nâng cao chất lượng
giáo dục và đào tạo của nhà trường.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Hoạt động dạy học và hoạt động học tập
1.2.1.1. Hoạt động dạy học
Theo tác giả Nguyễn Đình Chỉnh và Phạm Ngọc Uyển, hoạt động luôn luôn
được coi là một phương thức cơ bản của sự tồn tại của con người. Đó là sự tác động
của chủ thể vào đối tượng, bắt nó sản sinh ra những giá trị vật chất - tinh thần xác
định, để làm thỏa mãn nhu cầu của bản thân cũng như của xã hội. Nói chung cuộc
sống của con người bao gồm một dòng các hoạt động luôn luôn được kế tục lẫn
nhau. Hoạt động các đặc điểm cơ bản như tính đối tượng, tính chủ thể, tính gián tiếp
và tính mục đích. Về đại thể, luôn có sự tồn tại của các hoạt động thực tiễn - hoạt
động bên ngoài và hoạt động lý luận - hoạt động tinh thần được tồ tại ở bên trong
đời sống tâm lý của chủ thể. Hoạt động lý luận sẽ có chức năng chuẩn bị, tìm tòi và
định hướng cho hoạt động thực tiễn. Còn hoạt động thực tiễn lại có tác dụng làm
biến đổi sâu sắc mọi sự vật. Có tác giả cho rằng, ở người có thể có những dạng hoạt
động biến đổi, hoạt động nhận thức, hoạt động định hướng giá trị và hoạt động giao
tiếp. Nếu dựa vào tính chất của đối tượng, người ta lại có thể chia hoạt động của con
người ra thành các loại hình lao động, học tập và vui chơi. Trọng từng giai đoạn
phát triển của con người lại sẽ có từng loại hoạt động đặc trưng, mà nó có khả năng
làm hình thành nên được ở chủ thể những cấu tạo tâm lý mới. Những hoạt động này
được gọi là hoạt động chủ đạo[6, tr.29-30].
Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, mang
tính cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ
nhất định, đòi hỏi ở con người hình thành và phát triển những phẩm chất và năng
lực đó. Nhân cách của con người do đó mà được định hình và phát triển[6, tr.115].
Trong xã hội, mỗi con người đều có thể tự tạo cho mình một hay nhiều hoạt
động khác nhau, mỗi hoạt động đều có mục đích riêng nhằm làm thỏa mãn nhu cầu
9
của con người, đặc biệt là ở thế hệ trẻ thường xuất hiện rất nhiều các hoạt động.
Con đường tác động có mục đích tự giác của xã hội bằng GD đến thế hệ trẻ sẽ trở
nên không có hiệu quả nếu con người đó không tiếp nhận, không hưởng ứng những
tác động đó và không trực tiếp tham gia vào các hoạt động đó nhằm phát triển tri và
hình thành nhân cách của con người.
Dạy học là một hiện tượng, một hoạt động xã hội mang tính đặc trưng của
nhà trường, là con đường GD hết sức quan trọng mang lại những tinh hoa cho nhân
loại để phát triển tri thức và nhân cách con người nhằm hướng đến phát triển con
người toàn diện trong giai đoạn hiện nay.
Hoạt động dạy và hoạt động học tuy là hai mặt khác nhau và cũng có thể nói
là đối lập nhau, mỗi hoạt động đều có đối tượng và chức năng cụ thể riêng tồn tại
tương đối độc lập trong phạm vị GD. Nhưng đó là hai mặt đối lập nhau trong một
quá trình trọn vẹn, luôn có sự tương tác quy định lẫn nhau, có mối quan hệ gắn bó
mật thiết với nhau và sinh thành ra nhau trong một chỉnh thể thống nhất.
Từ những quan điểm trên, tác giả đưa ra khái niệm: HĐDH là một quá trình
GD của GV và HS, trong đó hoạt động dạy của người thầy và hoạt động học của trò
có mối quan hệ mật thiết với nhau, hổ trợ cho nhau và có mối liên hệ ngược với
nhau. Nếu một trong hai mối quan hệ này bị phá vỡ thì hoạt động dạy học sẽ không
tồn tại.
1.2.1.2. Hoạt động học tập
Theo quan điểm của lý thuyết hoạt động, học tập được coi là một loại hình
hoạt động đặc thù của con người được thực hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với
hoạt động dạy và được điều khiển bởi mục đích tự giác và lĩnh hội những tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo, những hình thức hành vi và những dạng hoạt động nhất định biến
chúng thành những năng lực thể chất và tinh thần của cá nhân.
Tác giả Phạm Minh Hạc cũng khẳng định: “Người học là chủ thể sáng tạo
của việc học, của việc hình thành nhân cách bản thân”[8, tr.7].
Học tập được xem xét ở nhiều phương diện, nhiều góc độ theo cả nghĩa rộng
và nghĩa hẹp.
10
Về phương diện tâm lý học, học tập được xem là hình thức hoạt động mà
trong quá trình đó, cá thể thay đổi hành vi và các thuộc tính tâm lý của mình dưới
ảnh hưởng của các điều kiện bên ngoài và kết quả của các hành động của bản thân.
Về phương diện lý luận dạy học, học tập được xem xét trên cơ sở các đặc
điểm được hình thành trong quá trình học tập diễn ra trong những điều kiện học tập
và GD được tạo ra một cách có mục đích nhằm đảm bảo sự truyền đạt một cách có
hiệu quả nhất những kinh nghiệm xã hội. Việc học tập ở đây được xem xét theo hai
khía cạnh:
Theo nghĩa rộng, học tập được xem là sự hình thành và thay đổi hành vi do
kinh nghiệm cá nhân quy định, dẫn đến sự cải tiến việc thích nghi hay thích nghi lại
của hành vi người học với những điều kiện của môi trường xung quanh. Học tập
không chỉ là tiếp thu các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà là sự hình thành toàn bộ nhân
cách.
Theo nghĩa hẹp, Học tập là quá trình hoạt động của HS, trong đó thông tin
thu nhận biến thành tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Khâu trung tâm của học tập là hoạt
động của bản thân HS. Như vậy, học tập theo nghĩa hẹp là sự lĩnh hội đối tượng cụ
thể nhưng có tính chất chuyên sâu, có tính chất nghiên cứu..., nên gần nghĩa hơn với
hoạt động nhận thức khoa học. Với quan niệm này, việc học có thể được xem như là
việc thực hiện chức năng giáo dưỡng của dạy học [8, tr.53].
Có nhiều quan niệm khác nhau về học tập, nhưng nhìn chung đều có sự
thống nhất, Tác giả cho rằng: Học tập là phương thức và hình thức phát triển tri
thức của cá nhân thông qua quá trình thu nhận thông tin, tích lũy thông tin, những
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm bởi chính hoạt động và tương tác của các
cá nhân với các nhân tố môi trường.
Việc học tập của con người được đặc trưng bởi tính mục đích, tính khoa học
và được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau như học bằng bắt chước, học
bằng hành động, học bằng trải nghiệm các quan hệ tình huống, học bằng suy nghĩ lý
trí và bằng phương thức hổn hợp.
HĐHT của HS gồm hai giai đoạn:
11
+ Quá trình học diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của GV, gồm: tiếp nhận
nhiệm vụ và kế hoạch học tập do GV đề ra; thực hiện những hành động, thao tác
nhận thức học tập nhằm giải quyết nhiệm vụ học tập; tự điều chỉnh hoạt động nhận
thức học tập của mình dưới sự tác động kiểm tra của GV; phân tích những kết quả
HĐHT dưới sự lãnh đạo của GV.
+ Quá trình học tập độc lập thiếu sự lãnh đạo trực tiếp của GV, gồm: lập kế
hoạch cụ thể hóa những nhiệm vụ HĐHT của mình; tổ chúc HĐHT bao gồm việc
lựa chọn phương pháp, phương tiện và hình thức HĐHT; tự kiểm tra và tự điều
chỉnh trong tiến trình HĐHT; tự phân tích đánh giá những kết quả học tập.
1.2.2. Giải pháp, quản lý, quản lý giáo dục
1.2.2.1. Giải pháp
Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên "Giải pháp là cách làm, cách
giải quyết một vấn đề cụ thể" [17, tr.28]
Vậy, có thể nói "giải pháp" là những cách thức tác động nhằm thay đổi, chuyển biến
một đối tượng, một vấn đề nhất định nào đó nhằm đạt mục đích hoạt động. Giải
pháp có tính phù hợp tương đối với đối tượng. Giải pháp càng phù hợp thì vấn đề
giải quyết càng hiệu quả và nhanh chóng. Để đạt được điều đó thì các giải pháp đưa
ra phải có cơ sở lý luận và thực tiễn tin cậy.
1.2.2.2. Quản lý
Từ buổi sơ khai, con người đã trải qua năm giai đoạn phát triển là các hình
thái kinh tế xã hội khác nhau. Ngay trong giai đoạn đầu tiên đã dần xuất hiện sự
phân công lao động, từ đó hoạt động quản lý xuất hiện như một nhu cầu tất yếu.
Đặc biệt, từ khi xã hội phân chia giai cấp thì hoạt động quản lý được thể hiện rõ hơn
nhằm phối hợp công việc của những con người khác nhau trong một tập thể để đạt
được những mục tiêu đặt ra. Khoa học quản lý đã có một quá trình ra đời, phát triển
và đến ngày nay đã thành một ngành khoa học độc lập, có vai trò và tác dụng to lớn
đối với sự phát triển của xã hội loài người. Sau đây là một số khái niệm chủ yếu:
Các tác giả Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: "Quản lý là
sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến
12
khách thể quản lý (người bị quản lý) trong tổ chức, nhằm làm cho tổ chức vận hành
và đạt được mục đích của tổ chức"[5, tr.25].
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: “ Hoạt động QL nhằm làm cho hệ thống
hoạt động theo mục tiêu đặt ra tiến tới trạng thái có chất lượng mới” [2, tr.5].
Theo từ điển Tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê: Quản lý là:
- Trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định;
- Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định[17,
tr.79].
Các Mác khẳng định: "Bất cứ lao động xã hội hay lao động trực tiếp nào
thực hiện ở một quy mô đối tượng lớn đều cần đến sự quản lý ở chừng mực nhất
định. Quản lý là xác lập sự tương hợp giữa các công việc cá nhân và hình thành
những chức năng chung xuất hiện trong toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận
động của bộ phận riêng lẻ của nó".
Từ những khái niệm trên có thể hiểu: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có
hướng đích, có kế hoạch của con người, lên đối tượng quản lý trên cơ sở biết sử
dụng có hiệu quả các tiềm năng, các cơ hội của bộ máy để đạt được mục tiêu cụ thể”.
1.2.2.3. Quản lý giáo dục
Có thể nói, khi có giáo dục là lúc đồng thời có quản lý giáo dục. Nếu nói
giáo dục là hiện tượng xã hội, vĩnh hằng thì cũng có thể nói như thế về quản lý giáo
dục. Giáo dục xuất hiện nhằm thực hiện cơ chế truyền kinh nghiệm lịch sử - xã hội
của loài người, của thế hệ đi trước cho thế hệ sau và để thế hệ sau có trách nhiệm kế
thừa, phát triển nó một cách sáng tạo, làm cho xã hội và cá nhân phát triển không
ngừng. Để đạt mục đích đó, quản lý được coi là nhân tố tổ chức, chỉ đạo việc thực
thi cơ chế đã trình bày. Vậy, quản lý giáo dục là gì?
Trước hết, cũng như quản lý xã hội nói chung, quản lý giáo dục là hoạt động
có ý thức của con người nhằm theo đuổi những mục đích của mình. Chỉ có con
người mới có khả năng khách thể hóa mục đích, nghĩa là thể hiện cái nguyên mẫu lý
tưởng của tương lai được biểu hiện trong mục đích đang ở trạng thái khả năng sang
13
trạng thái hiện thực. Như đã biết, mục đích giáo dục cũng chính là mục đích của
quản lý (tuy nó không phải là mục đích duy nhất của mục đích quản lý giáo dục).
Đây là mục đích có tính khách quan. Nhà quản lý, cùng với đông đảo đội ngũ GV,
HS, các lực lượng xã hội,… bằng hành động của mình hiện thực hóa mục đích đó
trong hiện thực. Đã có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý giáo dục.
Nhìn trên góc độ chung nhất, chúng ta có thể tiếp cận một số khái niệm quản lý giáo
dục sau:
Tác giả Đặng Quốc Bảo quan niệm: “QLGD theo nghĩa tổng quan là hoạt
động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế
hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển GD thường
xuyên, công tác GD không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người; tuy nhiên,
trọng tâm vẫn là GD thế hệ trẻ, cho nên QLGD được hiểu là sự điều hành hệ thống
GD quốc dân, các trường trong hệ thống GD quốc dân”[2, tr.124].
Tác giả Trần Kiểm thì quan niệm QLGD có hai cấp độ chủ yếu: Cấp vĩ mô
và cấp vi mô (tùy theo việc xác định đối tượng QL mà QLGD được hiểu theo mỗi
cấp độ khác nhau) [13, tr.36-38].
- Đối với cấp vĩ mô: QLGD được hiểu là những tác động (có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể QL đến tất cả các mắt
xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở GD là nhà trường) nhằm thực
hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển GD, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội
đặt ra cho ngành GD.
- Như vậy, đối với cấp vi mô: QLGD được hiểu là hệ thống những tác động
tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể
QL đến tập thể GV, công nhân viên, tập thể HS, cha mẹ HS và các lực lượng xã hội
trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu GD
của nhà trường.
Từ các quan điểm trên, có thể hiểu: QLGD là tập hợp các tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luạt của chủ thể QL ở các cấp khác nhau trong hệ thống
lên các đối tượng quản lý trực thuộc, thông qua việc thực hiện các chức năng QL
14
và việc sử dụng hợp lý các tiềm năng, cơ hội nhằm làm cho hệ thống giáo dục vận
hành, đản bảo được các tính chất và nguyên lý của nền giáo dục Việt Nam, đạt
được mục tiêu giáo dục.
1.2.3. Quản lý nhà trường, quản lý hoạt động dạy học và quản lý hoạt
động học tập
1.2.3.1. Quản lý nhà trường
Trong phạm vi nhà trường, hoạt động QL bao gồm QL các hoạt động GD:
HĐDH, hoạt động GD (theo nghĩa hẹp), hoạt động xã hội, hoạt động văn thể, hoạt
động lao động, hoạt động ngoại khóa, hoạt động GD hướng nghiệp…; QL các đối
tượng khác nhau: QL thực hiện xã hội hóa GD, QL ảnh hưởng từ bên ngoài nhà
trường, QL hoạt động của Hội phụ huynh học sinh…
Trường học là tổ chức GD, là một đơn vị cấu trúc của cơ sở hệ thống GD
quốc dân. Do đó, xét về bản chất, trường học là tổ chức mang tính nhà nước - xã hội
- sư phạm thể hiện bản chất giai cấp, bản chất xã hội và bản chất sư phạm.
- Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối
GD của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trương vận hành
theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục”[9, tr.6].
Trên cơ sở đó, có thể hiểu: QL nhà trường là tập hợp những tác động có
mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể QL (các cấp QL của chủ thể GD)
nhằm làm cho nhà trường vận hành theo nguyên lý GD để đạt tới mục tiêu GD đặt
ra trong thời kỳ phát triển của đất nước. QL nhà trường thực chất là QLGD trên tất
cả các mặt, các khía cạnh có liên quan đến hoạt động GD và đào tạo trong phạm vi
một nhà trường.
Có thể coi nhà trường là một bộ mặt của hệ thống GD quốc dân, các quan
điểm, đường lối, chính sách GD đều được thực hiện trong nhà trường. Do đó, QL
nhà trường, còn có nghĩa là tổ chức các lực lượng trong và ngoài nhà trường nhằm
biến các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách GD của Đảng và Nhà nước
thành hiện thực.
15
Nhưng mặt khác, QL trường học về bản chất QL con người. Điều đó tạo cho
các chủ thể (người dạy và người học) trong nhà trường một sự liên kết chặt chẽ
không những chỉ bởi cơ chế hoạt động của những tính quy luật khách quan của một
tổ chức xã hội - nhà trường, mà còn bởi các hoạt động chủ quan, hoạt động QL của
chính bản thân GV và HS. Trong nhà trường, GV và HS vừa là đối tượng, vừa là
chủ thể QL. Với tư cách là đối tượng QL, họ là đối tượng tác động của chủ thể QL
(hiệu trưởng), với tư cách là chủ thể QL, họ là người tham gia chủ động, tích cực
vào hoạt động QL chung và biến nhà trường thành hệ tự QL.
Cho nên, QL nhà trường không chỉ là trách nhiệm riêng của người hiệu
trưởng, mà là trách nhiệm chung của tất cả các thành viên trong nhà trường. Điều
này xuất phát từ định nghĩa về QL (bên cạnh nhiều định nghĩa khác): QL là các hoạt
động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc qua nổ lực của con
người khác. Có tác giả cho rằng, QL là một hoạt động thiết yếu bảo đảm phối hợp
giữa những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm. Cũng có tác giả lại
quan niệm QL là công tác phối hợp có hiệu quả các hoạt động của những người
cộng sự khác cùng chung một tổ chức.
1.2.3.2. Quản lý hoạt động dạy học
HĐDH là hoạt động cùng nhau giữa thầy và trò, trong đó dưới tác động chủ
đạo (tổ chức, điều khiển, lãnh đạo) của người thầy, HS tự giác, tích cực tự tổ chức,
tự điều khiển hoạt động nhận thức nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ DH.
Theo lý thuyết hoạt động thì bất kỳ hoạt động nào cững có mục đích và
phương tiện để thực hiện mục đích đó. Nếu phân tích các thành tố của QTDH (mục
đích, nội dung, chương trình, phương pháp, lực lượng dạy học, CSVC-TBDH,
phương pháp tổ chức dạy học, đánh giá kết quả dạy học…) thành hai phạm trù là
mục đích và phương tiện (theo nghĩa rộng) của lực lượng dạy học (người dạy và
người học) thì các phượng tiện để thực hiện mục đích dạy học bao gồm: luật pháp,
chính sách và quy chế dạy học; CSVC-TBDH, người dạy và người học phải sử
dụng các phương tiện nói trên vào việc truyền đạt và lĩnh hội tri thức để đạt tới mục
tiêu dạy học.
16
Như vây, QLHĐDH có bản chất là QL người dạy và người học cùng với việc
QL đồng bộ và thống nhất các mặt hoạt động mang tính phương tiện thực hiện mục
đích dạy học. Trong điều kiện bình thường, để quản lý tốt HĐDH, trước hết phải
bảo đảm cho mọi người tham gia vào quá trình này, quán triệt rõ mục đích và phát
huy tác dụng các thành tố cấu trúc của QTDH. Bên cạnh đó, cần nhìn nhận rõ hơn
vai trò của phương tiện dạy học, đây là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến mức độ đạt
mục tiêu dạy học và tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến chất lượng DH. Nói cụ thể hơn,
QLHĐDH là sự tác động hợp quy luật của chủ thể QLHĐDH đến chủ thể của
HĐDH ( người dạy và người học) và môi trường bằng các nhóm giải pháp phát huy
tác dụng của các thành tố đó nhằm đạt được mục tiêu dạy học.
Tóm lại, QLHĐDH phải đồng thời QL hoạt động dạy của GV và hoạt động
của HS và các yếu tố môi trường có ảnh hưởng đến HĐDH. Bên cạnh đó, người QL
phải QL sự tác động qua lại của ba thành tố trên nhằm hướng đến việc đảm bảo mục
tiêu, nhiệm vụ dạy học.
1.2.3.3. Quản lý hoạt động học tập
QLHĐHT là một trong những nội dung QL chủ yếu của quản lý nhà trường. Thực
chất QLHĐHT là hệ thống những tác động có ý thức của chủ thể quản lý trong nhà
trường đến quá trình nhận thức của học sinh.
Trong trường TCCN, quản lý hoạt động học tập là quản lý học sinh thực
hiện các nhiệm vụ học tập, là hệ thống những tác động có mục đích có kế hoạch
giúp học sinh “học tốt nhất, rèn luyện tu dưỡng tốt nhất. Quản lý HS bao hàm cả
quản lý thời gian và chất lượng học tập, quản lý tinh thần, thái độ và phương pháp
học tập” .
Mục đích của việc QLHĐHT là làm cho quá trình thực hiện các nhiệm vụ
học tập của học sinh đạt tới kết quả mong muốn. Trước hết, chủ thể QL phải theo
dõi để nắm bắt được những biểu hiện tích cực và tiêu cực trong nhận thức của học
sinh về tầm quan trọng của việc học tập, về thái độ, động cơ, ý thức học tập…của
học sinh nói chung và của từng học sinh nói riêng để có giải pháp thúc đẩy, khuyến
khích học sinh phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực phấn đấu
17
vươn lên đạt kết quả học tập và rèn luyện ngày càng cao.
Mặc dù được tuyển chọn vào học ở trường theo những tiêu chuẩn nhất định
như nhau nhưng các học sinh cùng lớp, cùng khóa vẫn có những khác biệt về khía
cạnh này hay khía cạnh khác trong nhân cách. Những khác biệt đó làm cho quá
trình thực hiện các nhiệm vụ học tập, rèn luyện của học sinh cũng như kết quả học
tập, rèn luyện đạt được của họ khác nhau. Bên cạnh đó chính bản thân học sinh có
những biến đổi do tác động của giáo dục - đào tạo, môi trường học tập, xã hội làm
cho sự cải biến nhân cách của họ trở nên đa dạng, phức tạp. Do đó, quản lý hoạt
động học tập là nhằm:
- Theo dõi, tìm hiểu để nắm được những biểu hiện tích cực và tiêu cực trong
việc thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện cũng như những biến đổi nhân cách của
học sinh nói chung và của từng học sinh nói riêng.
- Theo dõi, thúc đẩy, khuyến khích học sinh phát huy các yếu tố tích cực,
khắc phục yếu tố tiêu cực, phấn đấu vươn lên đạt kết quả học tập, rèn luyện ngày
càng cao.
1.3. Một số vấn đề về hoạt động học tập của học sinh trường TCCN
1.3.1. Đặc điểm của học sinh TCCN
1.3.1.1. Đặc điểm về tâm lý - nhân cách của học sinh TCCN
Học sinh TCCN là những người đã tốt nghiệp THPT hoặc bổ túc THPT ở lứa
tuổi từ 18 đến 21 được trang bị đầy đủ hệ thống những tri thức khoa học phổ thông
cơ bản hiện đại.
Đây là lớp người có sức khỏe, nhạy bén, năng động, tiếp thu nhanh, nhận
thức của họ rất phát triển, biết thừa kế và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc
và nhân loại. Có xu hướng tích cực hóa xã hội, có tính tự lập, độc lập và tự giác cao,
có nhu cầu tự khẳng định, tự đánh giá toàn diện về bản thân mình.
*Về mặt sinh lý:
Hình thể đạt được sự hoàn chỉnh về cấu trúc và phối hợp giữa các chức năng.
Hệ thần kinh cao cấp đả đạt đến mức trưởng thành. Nhiều yếu tốt bẩm sinh di
18
truyền được phát triển cao dưới những điều kiện môi trường và môi trường giáo
dục. Khả năng hoạt động trí tuệ của học sinh TCCN vượt xa hoạt động trí tuệ của
học sinh THPT.
* Về mặt tâm lý:
- Một đặc trưng tâm lý quan trọng của lứa tuổi này là sự phát triển tự ý thức.
Tự ý thức là một loại đặc biệt của ý thức có chức năng điều chỉnh nhận thức và thái
độ đối với bản thân. Đó là quá trình tự quan sát, tự phân tích, tự kiểm tra, tự đánh
giá về hoạt động và kết quả tác động của bản thân, về tư tưởng, tình cảm, phong
cách, đạo đức, hứng thú,…, là sự tự đánh giá toàn diện về chính bản thân và vị trí
của mình trong cuộc sống. Tự ý thức chính là điều kiện để phát triển và hoàn thiện
nhân cách, hướng nhân cách theo yêu cầu của xã hội.
- Sự phát triển trí tuệ ở giai đoạn này được đặc trưng bởi sự nâng cao năng
lực trí tuệ, phát triển tư duy sâu sắc, học sinh TCCN có khả năng giải quyết những
nhiệm vụ ngày một khó khăn, học sinh TCCN có tiến bộ rõ rệt trong lập luận logic,
trí tưởng tượng, khả năng hình thành ý tưởng trừu tượng, khả năng phán đoán. Nhu
cầu hiểu biết học tập được nâng cao.
- Về mặt tình cảm: Học sinh TCCN là thời kỳ có nhiều xúc cảm, nhiều tình
huống mới nảy sinh đòi hỏi các em phải có những phán đoán, những quyết định
chính chắn.
* Về mặt xã hội:
Ở lứa tuổi này các em có nhu cầu mở rộng mối quan hệ xã hội, quan tâm đến
việc phát triển ký năng mới, cách ứng xử mới, tác phong đĩnh đạt để đối diện với
môi trường xã hội ngày càng mở rộng. Và đặc biệt là các em đả qua tâm đến kế
hoạch đượng đời, tự xác định và lựa chọn nghề nghiệp cho mình.
Đây là giai đoạn chuyển từ sự chính muồi về thể lực sang trưởng thành về
phương diện xã hội, là giai đoạn hình thành và ổn định tính cách, đặc biệt họ có vai
trò xã hội của người lớn. Họ bắt đầu có kế hoạch riêng cho hoạt động của mình và
độc lập trong phán đoán và hành vi. Họ xác định con đường sống tương lai, tích cực
nắm vững nghề nghiệp và bắt đầu thể nghiệm mình trong mọi lĩnh vực của cuộc
19
sống. Điều đó có nghĩa là họ bắt đầu có tính độc lập tính tự lập và tính tự quản cao.
* Những nét nhân cách của học sinh TCCN
Sự phát triển nhân cách của học sinh TCCN là một quá trình biện chứng của
sự nảy sinh và giải quyết các mâu thuẩn, là quá trình chuyển từ các yêu cầu bên
ngoài thành yêu cầu của bản thân học sinh và là quá trình tự vận động và hoạt động
tích cực của chính bản thân họ. Những mâu thuẩn chính là:
- Mâu thuẩn giữa ước mơ của các em với khả năng, điều kiện và kinh
nghiệm để thực hiện ước mơ đó.
- Mâu thuẩn giữa mong muốn học tập chuyên sâu những môn học phù hợp
với sở thích và yêu cầu thực hiện toàn chương trình.
- Mâu thuẩn giữa số lượng thong tin phong phú với khả năng, điều kiện để
xử lý thông tin của các em.
Sự phát triển nhân cách của học sinh TCCN được diễn ra theo hướng cơ bản
sau:
- Niềm tin, xu hướng nghề nghiệp, các năng lực cần thiết được cũng cố và
phát triển.
- Các quá trình tâm lý, đặc biệt là quá trình nhận thức được “nghề nghiệp
hóa”.
- Tình cảm, nghĩa vụ, tinh thần trách nhiệm, tính độc lập được nâng cao, cá
tính và lập trường sống của sinh viên được bộc lộ rõ nét.
- Kỳ vọng đối với nghề nghiệp tương lai của các em được phát triển.
- Sự trưởng thành về mặt xã hội, tinh thần đạo đức, những phẩm chất nghề
nghiệp và sự ổn định chung về mặt nhân cách của các em được phát triển.
- Khả năng tự giáo dục của các em được nâng cao.
- Tính độc lập và sẳn sang đối với hoạt động nghề nghiệp tương lai được
cũng cố.
Tóm lại: Lứa tuổi của học sinh TCCN là giai đoạn đã phát triển các yếu tố
về sinh lý, những đặc điểm tâm lý và xã hội. Họ là những người đã trưởng thành cả
20
về mặt thể chất, nhận thức và tâm lý. Thời kỳ này các em đã phát triển tính tự ý
thức, tự giác, tích cực, tính tự lập, tự quản cao nhằm thực hiện những kế hoạch và
dự định của bản thân. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên các em có thể chủ động,
tích cực và tự giác học tập, tự nghiên cứu đạt kết quả cao.
1.3.1.2. Đặc điểm hoạt động học tập của học sinh TCCN
Hoạt động học tập của học sinh TCCN tuy có đầy đủ những đặc điểm và bản
chất của quá trình học tập nói chung là:
- Đối tượng của hoạt động học tập là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương
ứng. Người học phải chiếm lĩnh được hệ thống kiến thức trong chương trình học tập
để sử dụng chúng trong những tình huống học tập và thực tiễn cuộc sống.
- Mục đích hoạt động học tập hướng vào làm thay đổi chính chủ thể của hoạt
động.
Nhưng bên cạnh đó nó cũng có những đặc điểm riêng, đó là:
- Hoạt động học tập của học sinh TCCN có tính độc đáo về mục đích và kết
quả hoạt động. Khác với loại hình hoạt động lao động sản xuất nhằm biến đổi đối
tượng vật chất thành sản phẩm, mục đích của hoạt động học tập là hướng vào việc
thay đổi chính bản thân người học.
- Là loại hoạt động được diễn ra trong điều kiện có kế hoạch, phụ thuộc vào
nội dung, chương trình, mục tiêu, phương thức và thời hạn nhất định.
- Phương pháp học tập của học sinh TCCN là phương pháp nhận thức rất gần
gũi với phương pháp nhận thức chung của loài người, đồng thời còn là phương pháp
rèn luyện để hình thành hệ thống kỹ năng thực hành.
- Phương tiện hoạt động là thư viện, sách vở, phòng thí nghiệm với các thiết
bị bộ môn,….
- Hoạt động học tập của học sinh TCCN mang tính độc lập, trí tuệ cao, trong
mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động tập thể, hoạt động thực tiễn, hoạt động tự rèn
luyện của học sinh trong đó yếu tố quyết định kết quả học tập của học sinh chính là
động cơ học tập.
21
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động học tập của học sinh TCCN
1.3.2.1. Mục đích, động cơ, thái độ học tập
Mọi hoạt động của con người đều là hoạt động có mục đích. Nó được thúc
đẩy bởi những động cơ nhất định. Động cơ là lực đẩy trực tiếp của hành động, duy
trì hứng thú. Hoạt động học tập cũng vậy, động cơ học tập là nguồn gốc tạo ra trạng
thái tích cực trong học tập. Động cơ học tập rất phong phú và đa dạng. Nó không
thể được hình thành bằng cách áp đặt mà được hình thành từ trong quá trình học tập
và giải quyết các nhiệm vụ học tập, đồng thời nó còn được hình thành trong quá
trình giáo dục tổ chức, điều khiển, điều chỉnh hoạt động học tập của học sinh. Nếu
trong quá trình dạy học, thầy tổ chức cho học sinh tự phát hiện ra những điều mới
lạ, tự giải quyết những nhiệm vụ học tập, tạo ra những ấn tượng tốt đẹp đối với việc
học thì dần dần làm nảy sinh nhu cầu học tập của các em. Khi học tập trở thành nhu
cầu không thể thiếu được của học sinh, thì nó sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần thúc
đẩy học sinh khắc phục khó khăn để giành lấy tri thức. Để hình thành động cơ học
tập cho học sinh, trước hết cần khơi dậy mạnh mẽ ở các em nhu cầu nhận thức.
Điều đó được bắt đầu từ việc ý thức rõ ràng vì mục đích học tập, có ý chí vươn lên
mạnh mẽ trong học tập, chịu khó học hỏi. Càn phải làm cho học sinh hiểu rõ tại sao
phải học tập, học để làm gì. Chỉ khi nào học sinh thấy việc học sẽ mang lại lợi ích
thiết thực cho bản thân thì mới có thể hy vọng sự tự giác, tích cực học tập của các
em và điều đó là yếu tố cơ bản góp phần nâng cao kết quả học tập. Động cơ học tập
gồm có động cơ bên trong và động cơ bên ngoài:
- Động cơ bên trong: Là những động cơ xuất phát từ chính việc học tập, từ
nội dung, phương pháp học, từ nhu cầu, hứng thú học tập.
Động cơ bên trong thống nhất với mục đích của hoạt động học tập. Mục đích
của hoạt động học tập của học sinh là tiếp thu nền văn hóa nhân loại để chuyển hóa
thành trí tuệ và nhân cách của bản thân để trở thành người lao động thong minh và
sang tạo. Cụ thể hơn, mục đích học tập là mắm vững hệ thống kiến thức, khoa học
và thực hành. Các nhà phoa học đã chỉ rõ 4 trụ cột của thế kỷ 21 về giáo dục là: “
Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để tự khẳng định mình".
22
Vì vậy, động cơ bên trong sẽ giúp người học vượt qua những khó khăn trở
ngại không những cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ học tập mà còn tạo ra mọi điều
kiện để tự học, tự nghiên cứu. Chính động cơ bên trong sẽ giúp người học có được
niềm vui trong học tập, tạo cho họ có được niềm tin vào khả năng vốn có của bản
thân mình.
- Động cơ bên ngoài: Là những yếu tố kích thích hoạt động vươn tới mục
đích. Chúng ta biết rằng, để có được sự say mê, ham hiểu biết thì ngoài nội dung,
phương pháp học cũng cần có những yếu tố kích thích từ bên ngoài. Những nội quy,
quy chế học tập, những tiêu chuẩn xếp loại học sinh để được khen thưởng, được
hưởng học bổng khuyến khích học tập sẽ là những nhân tố kích thích sự cố gắng, nổ
lực của người học.
Song, muốn cho động cơ bên ngoài trở thành yếu tố kích thích người học,
nhà giáo dục phải nắm được đối tượng của mình để có giải pháp thích hợp nhằm
khuyến khích động viên hứng thú học tập của học.
1.3.2.2.Các điều kiện, phương tiện vật chất phục vụ học tập
Quá trình học tập của học sinh diễn ra luôn gắn với những điều kiện, môi
trường học tập. Nếu học sinh được học tập trong những điều kiện thuận lợi, được
đáp ứng đầy đủ về cơ sở vật chất, phương tiện học tập, thời gian học tập…và được
học trong một môi trường giáo dục tốt của gia đình, nhà trường, quan hệ thầy trò,
bạn bè sẽ là cơ sở giúp các em có thể tổ chức tốt quá trình học tập nhằm nâng cao
kết quả học tập.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị là một yếu tố quan trọng phục vụ cho hoạt động
giảng dạy và học tập cho học sinh. Vì vậy, quản lý cơ sở vật chất và trang thiết bị là
một nội dung quan trọng trong công tác quản lý giáo dục trong nhà trường nhằm
mục đích phục vụ tốt nhất cho việc giảng dạy và học tập của học sinh.
“Quản lý tốt cơ sở vật chất nhà trường không chỉ đơn thuần là bảo quản tốt,
mà phải phát huy tốt năng lực của chúng cho dạy học và giáo dục, đồng thời còn
làm sao để có thể thường xuyên bổ sung thêm những thiết bị mới và có giá trị”
Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện học tập là điều kiện để học sinh
23
tiến hành hoạt động học tập. Đó là toàn bộ các thành tố vật chất giúp học sinh tiến
hành các thao tác học tập như: phòng học, thư viện, sách, vở, phòng thí nghiệm với
các thiết bị học tập và các điều kiện về ăn ở, học tập ở ký túc xá...
Những điều kiện về vật chất như trên cần được trang bị và vận dụng một
cách có hiệu quả cho hoạt đọng học tập của học sinh.
Như vậy, một hoạt động muốn có kết quả phải có động cơ, mục đích,
phương tiện. Vì vậy, muốn cho hoạt động nói chung và hoạt động học tập nói riêng
có kết quả, nhà giáo dục phải làm cho người học có được động cơ, mục đích học tập
đúng đắn đồng thời phải chuẩn bị những phương tiện cần thiết để đạt tới mục tiêu
đã định.
1.3.2.3. Phong trào học tập trong tập thể học sinh
Theo GS-TS Nguyễn Quang Uẩn, PGS-TS Trần Hữu Luyến, PGS-TS Trần
Quốc Thành thì tập thể có vai trò rất to lớn trong việc hình thành và phát triển nhân
cách. “ Tập thể là một nhóm người, một bộ phận xã hội được thống nhất lại theo
những mục đích chung, phục tùng các mục đích của xã hội” [26, tr.200]
PGS-TS Phạm Viết Vượng khẳng định: Một tập thể có kỷ luật nghiêm, mọi
hoạt động được tiến hành trong một trật tự, một nề nếp sẽ là một môi trường thuận
lợi để học sinh rèn luyện và hình thành thoi quen tốt nhất. Tập thể học sinh là một
tập thể được tổ chức để giáo dục, là môi trường thuận lợi để học sinh thi đua và là
nơi để học sinh thử sức, thể hiện và khẳng định khả năng của mình. Những gương
tốt của bạn bè sẽ là nguồn động viên lớn để các em phấn đấu học tập noi theo. [28,
tr.106]
Chúng ta biết rằng: Một trong những hoạt động cơ bản của tập thể học sinh
là hoạt động học tập. Vì vây, bầu không khí học tập trong tập thể học sinh có vai trò
rất quan trọng trong việc hình thành động cơ và ý thức học tập. Sống trong một tập
thể gắn bó với nhau, lấy học tập làm mục tiêu phấn đấu chung cho tất cả mọi thành
viên thì mỗi cá nhân khó có thể thờ ơ trước hoạt động của mọi người; khó có thể tự
trách mình ra khỏi bầu không khí ấy. Mỗi cá nhân sẽ cảm thấy tự xấu hổ nếu mình
thua kém bạn bè, sẽ áy náy băn khoăn khi sử dụng thời gian một cách lãng phí cho
24
những việc vô ích. Những hành động trái với trật tự đã được thiết lập của tập thể sẽ
bị chỉ trích, phê bình và buộc mỗi cá nhân phải hòa mình vào không khí chung ấy.
Rõ ràng, mỗi tập thể lớp trong đó có mọi người đều gương mẫu và cố gắng hoàn
thành nhiệm vụ học tập sẽ là môi trường tốt nhất giúp người học có ý thức tự giác,
tạo niềm say mê, phấn khởi cố gắng khẳng định mình trước tập thể học sinh.
1.3.2.4. Phương pháp giảng dạy của giáo viên
Phương pháp dạy học một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá trình
dạy học. Cùng một nội dung nhưng học sinh học tập có hứng thú, có tích cực
không? Phần lớn phụ thuộc vào phương pháp dạy học của người thầy.
Phương pháp dạy học là cách thức tổ chức hoạt động dạy học của giáo viên
và cách thức tổ chức hoạt động học tập của học sinh, trong quan hệ đó, phương
pháp dạy quyết định, điều khiển phương pháp học, phương pháp học tập của học
sinh là cơ sở để lựa chọn phương pháp dạy.
Như vậy, phương pháp dạy học là sự kết hợp hữu cơ, biện chứng giữa
phương pháp dạy của giáo viên và phương pháp học của học sinh, phương pháp dạy
đóng vai trò chủ đạo, phương pháp học có tính chất độc lập tương đối, chịu sự chi
phối của phương pháp dạy, song nó cũng ảnh hưởng trở lại của phương pháp dạy.
Phương pháp day học là cách thức hoạt động phối hợp thống nhất của giáo
viên và học sinh trong quá trình dạy học được tiến hành dưới vai trò chủ đạo của
giáo viên nhằm thực hiện tối ưu mục tiêu và các nhiệm vụ dạy học.
Phương pháp dạy học bao gồm cả mặt khách quan và mặt chủ quan. Mặt
khách quan, phương pháp bị chi phối bởi quy luật vận động khách quan của đối
tượng mà chủ thể phải ý thức được. Mặt chủ quan: là những thao tác, thủ thuật của
chủ thể được sử dụng trên cơ sở cái vốn có về quy luật dạy học chi phối hoạt động
nhận thức của người học mà giáo dục phải ý thức được. Mặt chủ quan là những thao
tác, những hành động mà giáo viên lựa chọn phù hợp với quy luật chi phối đối
tượng.
Hiệu quả của phương pháp dạy học phụ thuộc vào nghiệp vụ sư phạm của
giáo viên. Việc nắm vững nội dung dạy học và quy luật, đặc điểm nhận thúc của
25
học sinh là tiền đề quan trọng cho việc sử dụng phương pháp dạy học nào đó. Thực
tiễn dạy học cho thấy, cùng một nội dung dạy học, cùng sử dụng một phương pháp
dạy học, nhưng mức độ thành công của các giáo viên là khác nhau.
Như vậy chúng ta thấy phương pháp dạy học của giáo viên có ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động học tập của học sinh.
1.3.2.5. Phương pháp học tập của học sinh
Trong hoạt động học tập, phương pháp học tập là yếu tố cần thiết giúp người
học hoàn thành được nhiệm vụ học tập. Hoạt động học tập của học sinh là hoạt
động tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức –học
tập của mình nhằm thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành thành tri
thức của bản thân, qua đó người học thể hiện mình, biến đổ mình, tự làm phong phú
những giá trị của mình. Tính tự giác nhận thức trong quá trình học tập thể hiện ở
chổ người học ý thức đầy đủ mục đích, nhiệm vụ học tập, qua đó họ nổ lực nắm
vững tri thức trong việc lĩnh hội tri thức.
Xét cho cùng, mọi ảnh hưởng của thầy giáo, phong trào học tập trong tập thể
học sinh, các điều kiện phương tiện học tập...đều là những yếu tố bên ngoài tác
động đến hoạt động học tập của học sinh. Kết quả và chất lượng học tạp của học
sinh có cao hay không phụ thuộc chủ yếu và trực tiếp vào chính bản thân người học
sinh, trong đó phương pháp học tập đóng vai trò quyết định nhất. Trong những điều
kiện học tập tương tự, kết quả học tập của mỗi học sinh không giống nhau, điều đó
phụ thuộc chủ yếu vào phương pháp, năng lực học tập của mỗi học sinh. Nếu học
sinh có phương pháp học tập tốt biết dành lấy tri thức bằng chính hành động của
mình, học tập một cách sáng tạo, biết liên hệ, vận dụng tri thức vào thực tiễn sẽ là
điều kiện cơ bản để nâng cao chất lượng học tập.
1.3.2.6. Phương pháp đánh giá kết quả học tập của học sinh
Trong giáo dục, đánh giá có vai trò rất quan trọng. Thực chất của đánh giá là
thu thập các chứng cứ để so sánh với mục tiêu, chuẩn mực đã được xác định.
Một trong những chức năng của đánh giá trong giáo dục là chức năng giáo
dục. Nó “ có tác động mạnh mẽ đến tâm lý đối tượng, tạo điều kiện để đối tượng