Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Một số giải pháp quản lý hoạt động công tác xã hội hóa giáo dục ở huyện thọ xuân, tỉnh thanh hóa luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.69 KB, 115 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu và các thầy cô giáo
trong Hội đồng Đào tạo Trường Đại học Vinh đã trực tiếp giảng dạy, giúp
đỡ trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Tác giả xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Phó giáo sư,
Tiến sĩ Thái Văn Thành đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn trong quá trình hình
thành, xây dựng và hoàn chỉnh luận văn.
Tác giả xin cảm ơn các đồng chí Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo
tỉnh Thanh Hóa, phịng Giáo dục và Đào tạo huyện Thọ Xuân, Ban Giám
hiệu và quí đồng nghiệp ở các trường học, Hội Khuyến học, Trung tâm học
tập cộng đồng trên địa bàn huyện Thọ Xuân đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứu để hồn thành luận văn này.
Những thiếu sót trong luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi, tác
giả rất mong đợi nhận được các ý kiến phê bình và góp ý quý báu của các
nhà khoa học, các nhà quản lý, các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Vinh, tháng 12 năm 2011
TÁC GIẢ

Đỗ Thị Minh


3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục (GD) là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho sự phát triển bền vững, bởi phát triển giáo dục tạo động lực quan trọng
để phát triển xã hội, thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH (CNH, HĐH) đất nước
và phát huy lợi thế cạnh tranh quốc tế của Việt Nam về nguồn nhân lực
trong q trình tồn cầu hóa.
Chiến lược GD, chiến lược phát triển con người là bộ phận quan


trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH). Thời kì đổi mới
đất nước đặt ra nhiều yêu cầu đối với giáo dục. Từ một nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa (XHCN), mở cửa hội nhập, đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm
thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, đã tạo ra nhiều biến đổi to lớn, nhanh chóng. Những biến
đổi đó ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp GD, như: nhà nước đầu tư mạnh
mẽ cho GD và tiến hành đổi mới toàn diện hệ thống GD, GD đang thực sự
trở thành quốc sách hàng đầu.
Xã hội hóa cơng tác giáo dục (XHHGD) là tư tưởng chiến lược lớn
của Đảng và Nhà nước ta. Tư tưởng đó được đúc kết từ bài học kinh
nghiệm xây dựng nền giáo dục cách mạng và truyền thống hiếu học của
dân tộc. Đề cao sự học và chăm lo việc học hành của nhân dân ta suốt hàng
ngàn năm lịch sử phát triển của dân tộc. Tư tưởng đó cịn là sự tiếp thu
sáng tạo kinh nghiệm xây dựng và phát triển giáo dục đào tạo của các nước
trên thế giới. Tư tưởng chiến lược của Đảng về XHHGD đã được thể hiện
trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 BCHTW Đảng, Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 2 BCHTW Đảng khóa VIII và Nghị quyết Đại hội Đảng khóa IX:


4
Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp
sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước.
Quán triệt tư tưởng chiến lược trên, nhằm đẩy mạnh công tác XHHGD,
ngày 21/8/1997, Chính phủ đã có Nghị quyết số 90/CP về “Phương hướng
và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá”. Nội dung
của Nghị quyết số 90/CP đã được cụ thể hóa bằng Nghị định số
73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 do Chính phủ ban hành về chính sách
khuyến khích XHH đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn
hoá, thể thao.

Điều 11 Luật Giáo dục (2005) ghi rõ: “Mọi tổ chức gia đình và cơng
dân có trách nhiệm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học tập và
môi trường giáo dục lành mạnh, phối hợp với nhà trường thực hiện mục
tiêu giáo dục.
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển sự nghiệp giáo dục
thực hiện đa dạng hóa các loại hình nhà trường và các loại hình giáo dục,
khuyến khích huy động tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia phát
triển sự nghiệp giáo dục” [31, tr.12].
Với quan điểm: giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ của toàn Đảng, của
Nhà nước và của nhân dân. Đảng ta đã coi: giáo dục và đào tạo (GD&ĐT)
là quốc sách hàng đầu. Từ đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách XHHGD. Phát huy những kết quả đã đạt được trong đổi
mới sự nghiệp giáo dục, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng
định: phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện
nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hố, xã hội hố,
dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo
dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt.
XHHGD là huy động toàn động toàn dân chăm lo cho GD, nâng cao
mức hưởng thụ do GD đem lại. Là một cấp quản lý, Phịng GD&ĐT chịu
trách nhiệm trước lãnh đạo chính quyền địa phương quản lý nhà nước về


5
GD, trong đó có quản lý XHHGD. Do đó phải có những giải pháp phù hợp
để huy động, tổ chức các lực lượng xã hội tham gia quá trình GD. Mặt
khác, Phịng GD&ĐT cũng phải có những giải pháp làm cho nhà trường
với tư cách là thiết chế chuyên biệt của xã hội thực hiện chức năng GD thế
hệ trẻ, phải đóng vai trị nịng cốt trong việc thực hiện XHHGD nhằm thực
hiện mục tiêu GD.
Thọ Xuân là một huyện trung du của tỉnh Thanh Hóa. Trên địa bàn

huyện, chủ trương thực hiện công tác XHHGD những năm qua đã được các
cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân quan tâm, hưởng ứng tích cực và
thực sự đi vào đời sống. Đặc biệt Phòng Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã
tham mưu với Huyện ủy (HU), Ủy ban nhân dân (UBND), Hội đồng nhân
dân (HĐND) về 4 đề án phát triển giáo dục và đào tạo là: Xã hội hóa giáo
dục; Quy hoạch, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ; Xây dựng cơ sở vật chất
trường học, Phát triển giáo dục Mầm non. Ban chấp hành Huyện ủy đã có
Nghị quyết số 07 về phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2007 - 2010 và
định hướng đến năm 2015. Tuy nhiên, việc đầu tư các nguồn lực để hỗ trợ
cho cơng tác XHHGD cịn nhiều hạn chế. Nhận thức trong một số cán bộ,
nhân dân và những người làm cơng tác giáo dục cịn phiến diện, chưa đầy đủ
nên chưa huy động được các nguồn lực, các lực lượng xã hội tham gia phối
hợp trong công tác giáo dục. Công tác quản lý XHHGD trên địa bàn huyện
những năm qua còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Cần phải tiếp tục nghiên
cứu, tìm biện pháp khắc phục cả về nhận thức lẫn hành động thực tiễn nhằm
quản lý tốt cơng tác XHHGD, góp phần trực tiếp thực hiện thắng lợi các chủ
trương của Đảng, Nhà nước về triển khai thực hiện XHHGD trên địa bàn
huyện, nâng cao chất lượng GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước hiện nay.
Ở huyện Thọ Xuân, từ trước đến nay chưa có cơng trình khoa học
nào nghiên cứu một cách có hệ thống, cả về lý luận và thực tiễn những giải
pháp quản lý công tác XHHGD để góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển
ngành giáo dục của huyện. Xuất phát từ tính cấp thiết đó, tác giả chọn đề


6
tài: “Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở huyện Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý
giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu

Đề xuất một số giải pháp quản lý nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả cơng tác XHHGD ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa trong giai
đoạn hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác XHHGD ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp quản lý cơng tác xã hội hóa giáo dục ở huyện Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được những giải pháp quản lý phù hợp về lý luận và
thực tiễn, đồng thời mang tính khả thi sẽ góp phần tích cực nâng cao hiệu
quả cơng tác XHHGD ở huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác XHHGD.
- Phân tích thực trạng quản lý cơng tác XHHGD ở huyện Thọ Xuân,
tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác
XHHGD ở huyện Thọ Xn, tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: nghiên cứu các tài liệu,
văn bản của Đảng, Nhà nước, của tỉnh Thanh Hóa, của ngành Giáo dục
cũng như các tài liệu khoa học có liên quan.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: khảo sát, điều tra
tình hình thực tiễn, đàm thoại, phỏng vấn, bảng hỏi, thu thập thông tin.


7
- Nhóm các phương pháp thống kê tốn học để xử lý số liệu.
7. Những đóng góp của đề tài

7.1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận về cơng tác XHHGD.
7.2. Làm sáng tỏ thực trạng quản lý công tác XHHGD ở huyện Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
7.3. Đề xuất các giải pháp quản lý công tác XHHGD; thực hiện tốt
các giải pháp sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của huyện. Nâng
cao nhận thức và hành động của chính quyền các cấp, của nhân dân huyện
Thọ Xuân đối với cơng tác giáo dục và XHHGD.
7.4. Góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị trên địa bàn địa
phương. Có tác dụng giảm bớt các tệ nạn xã hội mà do sự nhận thức yếu
kém, trình độ học vấn thấp, số lượng học sinh bỏ học nhiều... gây ra.
7.5. Có thể áp dụng đề tài có hiệu quả cho huyện Thọ Xuân và các
huyện có đặc điểm tương đồng huyện Thọ Xuân trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý công tác XHHGD
Chương 2. Thực trạng quản lý công tác XHHGD ở huyện Thọ Xuân,
tỉnh Thanh Hóa
Chương 3. Một số giải pháp quản lý cơng tác XHHGD ở huyện Thọ
Xuân, tỉnh Thanh Hóa

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ QUẢN LÝ CƠNG TÁC XÃ HỘI HĨA GIÁO DỤC


8
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và của
từng quốc gia - dân tộc nói riêng, giáo dục ln là nhu cầu cơ bản và có
tính phổ qt. Trước yêu cầu đòi hỏi bức thiết của thực tiễn, các nước trên

thế giới đều chú trọng đến XHHGD. Bản chất hoạt động XHHGD được
khai thác bằng các thuật ngữ khác nhau ở nhiều quốc gia, như: phi tập
trung hoá, giáo dục đại chúng, giáo dục suốt đời, xã hội học tập, giáo dục
cộng đồng, công bằng giáo dục trong xã hội... Quan niệm về XHHGD được
hiểu rất đa dạng ở nhiều quốc gia khác nhau. Ngoài vấn đề huy động sự
tham gia của cộng đồng vào giáo dục có sự quản lý của nhà nước còn liên
quan đến nhiều yếu tố khác, như: công bằng xã hội trong giáo dục, bình
đẳng trong đánh giá và tiếp nhận giáo dục, có cơ hội được học tập suốt đời,
được lựa chọn cơ hội học tập... Sự tham gia của cộng đồng vào giáo dục ở
đây được hiểu là tạo cơ hội cho mọi người có quyền được học tập, được
tiếp cận với giáo dục để phát triển tri thức cá nhân nhưng mặt khác họ cũng
phải có nghĩa vụ và trách nhiệm với sự phát triển giáo dục của đất nước.
XHHGD là một xu thế chung của quá trình phát triển, tuỳ thuộc vào đặc
điểm kinh tế - xã hội mà mỗi nước có một phương thức huy động nguồn
lực ở những cấp độ khác nhau. Nhưng tất cả đều hướng vào mục tiêu chung
là thông qua phát triển giáo dục để tạo động lực cho sự tăng trưởng kinh tế,
tiến bộ xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc.
Từ năm 1972, UNESCO đã đưa ra quan điểm: giáo dục suốt đời,
giáo dục phải hướng mục tiêu đào tạo những người có đủ tri thức và kỹ
năng, năng lực và phẩm chất với tinh thần trách nhiệm đầy đủ của người
công dân tham gia vào cuộc sống lao động. Có thể thấy phương hướng phát
triển giáo dục của các nước trên thế giới trong thế kỷ XXI là: Tích cực
chuyển nền giáo dục sang hệ thống học tập suốt đời. Phát triển các chương
trình giáo dục hướng mạnh vào tính cá nhân làm cho hệ thống giáo dục đáp
ứng yêu cầu phát triển của thời đại (ứng dụng, mềm dẻo, liên thông). Vì
vậy, sự phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo không chỉ của riêng Nhà


9
nước và của ngành giáo dục mà là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Mỗi

quốc gia tùy vào đặc điểm của mình mà có những hình thức làm giáo dục
theo một cách riêng.
Hàn Quốc đặt quá trình phát triển giáo dục chuyên nghiệp gắn chặt
với giai đoạn tăng trưởng kinh tế và nhu cầu nhân lực lao động kỹ thuật của
các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân. Với chiến lược vay nợ để đầu tư và
đề cao vai trị mạnh của Chính phủ trong việc lập kế hoạch phát triển. Hiện
nay giáo dục Hàn Quốc phát triển mạnh mẽ đứng vào những nước có tỷ lệ
người mù chữ thấp nhất thế giới. Ngân sách Nhà nước về giáo dục thay đổi
theo từng năm tài chính, nhưng trên nguyên tắc chiếm 22,7% tổng nguồn
chi của Chính phủ và chiếm 3 - 4%. Hàn Quốc có 152 trường dạy nghề với
gần một triệu học sinh theo học, 80% trường dạy nghề thuộc sự quản lý của
tư nhân, tuy nhiên dưới sự kiểm soát của Bộ giáo dục và đào tạo Hàn Quốc.
Giáo dục phi chính quy được phổ biến ở 2 loại hình: các chương trình giáo
dục tiếp tục cho thanh niên và người trưởng thành chưa hoàn thành giáo
dục chính quy và các khóa học ngắn hạn bổ sung cho những người mới ra
đi làm khơng nằm trong nhóm học sinh, sinh viên.
Mỹ, năm 1991, đã đưa một số nét lớn của chiến lược phát triển giáo
dục. Đến năm 2010, toàn nước Mỹ đã xây dựng các cộng đồng tiến hành
giáo dục ngoài phạm vi nhà trường. Với trường học các nhà thiết kế kiểu
mới phải xoá bỏ những khuôn mặt cũ, xây dựng nhà trường cho thế kỷ mới.
Vị trí đặc biệt trong việc thiết kế nhà trường kiểu mới thuộc về tập thể cộng
đồng, giới doanh nghiệp và lao động. Nhà trường Mỹ đang và sẽ biến đổi,
sẽ biến từng thành viên trong xã hội Mỹ thành người đi học. Nhà trường là
trung tâm đời sống cộng đồng. Mặt khác phải tạo điều kiện cho việc học
tập khơng chỉ khơng chỉ ở nhà trường mà cịn ở tại gia đình, theo kết quả
điều tra có tới 800.000 học sinh, chiếm 17% trẻ em độ tuổi học đường là
“học tại gia đình”. Ngày 4/2/1997, tổng thống Mỹ Bill Clintơn đã đọc
thơng điệp trước Thượng viện nói đến hiện đại hóa nền giáo dục và mục
tiêu học tập suốt đời, đồng thời đề ra yêu cầu nâng cao việc học để đạt trình



10
độ học vấn cao. B.Clilltơn nói đến việc mở rộng các biên giới của việc học
suốt đời để người Mỹ ở độ tuổi nào cũng có cơ hội học tập, yêu cầu khấu
trừ thuế lên tới 10000 USD/năm cho toàn bộ học phí ở đại học, cao đẳng để
mọi gia đình khơng phải đóng thuế với khoản tiền mà họ tiết kiệm để dành
đóng học phí vào đại học, cao đẳng.
Trung Quốc, ông Giang Trạch Dân trong một bài phát biểu ngày
14/6/1994, tại Hội nghị Trung ương đã nhấn mạnh: khơng nhận thức được
vai trị chiến lược ưu tiên phát triển giáo dục để hiện đại hóa XHCN ta sẽ
để mất cơ hội làm lỡ đại sự, sẽ phạm sai lầm mang tính lịch sử. Ơng cho
rằng: giáo dục là chìa khóa mở cửa vào tương lai. Khi xây dựng chiến lược
giáo dục cho mọi người, Trung Quốc đã đặc biệt nhấn mạnh các mặt sau:
Mọi người ai ai cũng là người giáo dục và là người được giáo dục. Bất kỳ
cơ quan nào cũng là cơ quan giáo dục, bồi dưỡng nhân tài. Có những
phương pháp giáo dục và phương pháp học tập khác nhau thích hợp với tất
cả mọi người. Bảo đảm mối quan hệ gắn bó hữu cơ, chặt chẽ, cân đối của
bảy yếu tố cấu thành chỉnh thể hoạt động giáo dục là: mục tiêu, kế hoạch,
phương pháp, phương tiện, chỉ đạo, kiểm tra, hiệu quả. Phát triển giáo dục
kỹ thuật tổng hợp chặt chẽ với trí dục, thể dục, mỹ dục, lao động sản xuất
và giáo dục nghề nghiệp.
Từ đó cho thấy, mặc dù mỗi nước có hồn cảnh KT-XH khác nhau
nhưng đều có điểm chung trong phương thức XHHGD là huy động mọi tiềm
lực của cộng đồng cho giáo dục. Vấn đề XHHGD ở mỗi quốc gia đều có sự
lựa chọn mơ hình mang tính độc đáo riêng. Trong giai đoạn hiện nay và
trong tương lai các quan điểm giáo dục mở rộng ra đối với tất cả mọi người,
giáo dục suốt đời, giáo dục hướng tới mục tiêu giúp cho con người học cách
sống chung với nhau đã và đang trở thành các quan điểm chủ đạo, chi phối
phương hướng, chiến lược phát triển của các nước. Vấn đề XHHGD trở
thành quan điểm chỉ đạo của các nhà lãnh đạo, hơn thế nó đang còn được thể

hiện trong Luật, trong Hiến pháp. Ở mỗi quốc gia, dù là quốc gia phát triển


11
hay đang phát triển, giáo dục ln ở vị trí hàng đầu của sự phát triển. Đầu tư
cho GD luôn được coi là chính sách ưu tiên của mỗi quốc gia nhằm tạo gia
tốc cho sự phát triển bền vững. Đây là vấn đề then chốt để đất nước phát
triển tồn diện về kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học, chính trị một cách hài
hịa, đồng bộ. Bài học thành công của các cuộc cải GD ở nhiều nước là việc
xác định quan điểm đúng đắn và hiện thực hóa thành các chính sách năng
động khi xác định được GD vừa là mục tiêu vừa là động lực của q trình
phát triển đất nước.
Xét dưới góc độ bản chất, XHHGD khơng phải là vấn đề hồn tồn
mới ở Việt Nam. Xuất phát từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng, thì đây chính là sự phát triển của một chủ trương
giáo dục đã được thực hiện qua nhiều thời kì lịch sử ở nước ta: Giáo dục là
sự nghiệp của quần chúng. Nhìn lại những trang sử vẻ vang của sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của dân tộc, chân lý về vai trò to lớn của quần chúng
nhân dân trong sự nghiệp cách mạng đã được khẳng định qua từng giai đoạn.
Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân; phải khoan thư sức dân để
làm kế sâu rễ, bền gốc… là những tư tưởng chỉ đạo chiến lược đã được
chứng minh trong lịch sử dân tộc. Tư tưởng “lấy dân làm gốc” đã thể hiện
sâu sắc trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc và trở thành bản sắc độc
đáo của dân tộc Việt Nam. Phát huy truyền thống của dân tộc, vận dụng sáng
tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp đổi mới, Đảng ta luôn nêu cao khẩu hiệu: Cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng. Những tư tưởng đó đã được vận dụng có hiệu quả trong xây
dựng đời sống xã hội và trở thành động lực to lớn trong quá trình phát triển
sự nghiệp giáo dục Việt Nam.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công (1945), Hồ Chí Minh Người đã từng là thầy giáo và có ba mươi năm lăn lộn ở ngồi nước, hiểu

rõ ý nghĩa sâu xa và vai trò to lớn của tri thức - đã xác định sự nghiệp bảo
vệ nền độc lập dân tộc và kháng chiến là cuộc đấu tranh chống lại ba kẻ


12
thù: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Thơng điệp của Người ngay trong
phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (3/9/1945) là: “Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu”. Và Người đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn
mù chữ. Hàng loạt sắc lệnh liên quan tới giáo dục được Hồ Chí Minh ký
như Sắc lệnh về việc thành lập Nha bình dân học vụ (6/9/1945); Sắc lệnh
về việc thiết lập một Quỹ tự trị cho trường Đại học Việt Nam (10/10/1945);
Sắc lệnh về việc thành lập Hội đồng Cố vấn học chính (10/10/1945); Sắc
lệnh về việc thiết lập một ban đại học Văn khoa tại Hà Nội (10/10/1945)...
Sau cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, cùng với việc ra đời của nhiều Bộ,
Bộ Giáo dục cũng được thành lập... Để thực hiện nhiệm vụ của Nha Bình
dân học vụ là cấp tốc xóa nạn mù chữ trong nhân dân, ngày 4/10/1945, Hồ
Chí Minh đã có lời hiệu triệu “Chống nạn thất học”. Người nhấn mạnh:
Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao
dân trí. Người kêu gọi: Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân
mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình,
bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào cơng
cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc
ngữ. Hồ Chí Minh cho rằng xóa bỏ nạn mù chữ là tạo nên một phong trào
giáo dục đại chúng. Người chỉ ra rằng học đọc và học viết có thể được tiến
hành bất cứ ở đâu, dùng than, mặt đất hoặc lá chuối làm bút và giấy. Ai
cũng có thể học được. Đặc biệt sự chú trọng của Người đối với tình trạng
bất bình đẳng về điều kiện sống và về thế giới cho đến nay vẫn mang tính
tồn cầu và đúng với mọi lứa tuổi. Bằng nhiều cách, chúng ta đã nhanh
chóng nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân. Bài học thành công là biết
huy động sức mạnh của toàn dân tộc, tập trung toàn dân diệt “giặc dốt”.

Mặc dù phải kinh qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ
vĩ đại, nhưng sự nghiệp giáo dục của dân tộc vẫn khơng ngừng phát
triển. Đó là kỳ tích trong lịch sử nhân loại. Bài học là nếu biết phát
huy được lực lượng toàn xã hội quan tâm đầu tư lựa chọn, bồi dưỡng


13
nhân tài, thì sự nghiệp giáo dục vẫn phát triển, ngay trong những điều
kiện khó khăn nhất.
Đất nước thống nhất, chúng ta có điều kiện thuận lợi để phát triển sự
nghiệp giáo dục. Trong giai đoạn này, sự nghiệp giáo dục Việt Nam cũng
đạt được những kết quả nhất định, thống nhất hệ thống giáo dục cả hai
miền Nam - Bắc. Song, với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nền giáo
dục trong thời gian này đã không khai thác triệt để bài học q giá đó.
Thay vì thực hiện “Sự quản lý giáo dục của Nhà nước”, chúng ta đã “Nhà
nước hóa giáo dục”, ngành giáo dục bị bó hẹp, khơng thu hút được các
nguồn lực của tồn xã hội. Do đó, cơ sở vật chất cho giáo dục xuống cấp và
lạc hậu, động lực của người học và người dạy bị giảm sút, sự phát triển của
giáo dục cả về số lượng và chất lượng đều không đáp ứng được yêu cầu
phát triển của đất nước.
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VI (1986) thành cơng, đất nước bước
vào thời kỳ đổi mới, sự nghiệp giáo dục đã dần được quan tâm đúng mức, có
bước chuyển mình tích cực, hướng tới sự phát triển thuận lợi. Đường lối đổi
mới đất nước đã tạo điều kiện cho sự đổi mới trong tư duy giáo dục. Giáo dục
đứng trước thử thách phải phát triển lên một trình độ mới để đáp ứng yêu cầu
phát triển toàn diện của đất nước. Bài học lịch sử của sự phát triển giáo dục
được khơi dậy và nâng lên tầm tư duy mới. Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành
TW Đảng khóa VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp GD&ĐT đã đặt dấu mốc
quan trọng trong lịch sử xây dựng và phát triển nền giáo dục Việt Nam. Đây
là lần đầu tiên Hội nghị toàn thể BCHTW Đảng thảo luận và ra Nghị quyết về

sự nghiệp GD&ĐT. Cũng từ sau Đại hội VII, trên các văn kiện của Đảng và
Nhà nước, các tài liệu khoa học giáo dục, trên sách báo xuất hiện thường
xuyên thuật ngữ “Xã hội hoá” đối với các lĩnh vực hoạt động, như: chăm sóc
và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể dục thể thao,
GD&ĐT...


14
Một số Văn kiện và Nghị quyết đề cập đến XHHGD, như: Ngày
21/8/1997, Chính phủ ra Nghị quyết 90/CP về: “Phương hướng và chủ
trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa”; Ngày 11/12/1998,
Chủ tịch nước công bố Luật giáo dục đã được Quốc hội nước Cộng hịa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thơng qua, ở chương I những quy định
chung, điều 11 ghi rõ Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục; Ngày 19/8/1999,
Chính phủ ban hành Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về: “Chính sách khuyến
khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn
hóa , thể thao”; Tháng 4/10/2004, Nghị quyết số 12/2004/NĐ-CP phiên họp
Chính phủ thường kỳ tháng 9/2004 đã đánh giá tình hình thực hiện Nghị
quyết 90/CP và Nghị quyết 73/1999/NĐ-CP. Ngày 18/4/2005, Chính phủ
ban hành Nghị quyết 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh Xã hội hóa các hoạt
động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao.
Đề cập đến về vấn đề XHHGD trong thời kì đổi mới đã có nhiều
nhà nghiên cứu, nhà quản lý giáo dục đưa ra những quan điểm của mình.
Trong đó, tác giả Phạm Minh Hạc là một trong những người đã viết nhiều
tài liệu về XHHGD, nhiều bài phát biểu chỉ đạo về phong trào XHHGD.
Trong cuốn Xã hội hóa cơng tác giáo dục, xuất bản năm 1997 do ơng làm
chủ biên đã khẳng định: “Xã hội hóa công tác giáo dục là một tư tưởng
chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường phát triển
giáo dục nước ta” [27, tr.16]. Trong cuốn Giáo dục Việt Nam trước
ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, tác giả Phạm Minh Hạc một lần nữa khẳng

định: “Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước, mà là của toàn
xã hội; mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, Trung ương và
địa phương cùng làm giáo dục, tạo nên một cao trào học tập trong tồn
dân” [28, tr.330]. Tư tưởng “xã hội hóa giáo dục” được thừa nhận là một
nhân tố mới trong sự phát triển giáo dục hiện nay. Hơn thế, với tư cách là
nhân tố mới của sự phát triển giáo dục, tư tưởng “xã hội hóa cơng tác giáo
dục” lại tạo ra những điều kiện để xuất hiện những nhân tố mới khác


15
trong quá trình vận động đi lên của các phong trào giáo dục. Những điều
kiện đó chính là những kinh nghiệm rút ra từ thực tế sinh động của giáo
dục, giúp tư duy về giáo dục trở nên sâu sắc, nhờ đó nhiều bài tốn của
giáo dục - đào tạo đã được giải một cách hợp lý. Nhằm tạo ra những
bước chuyển biến cơ bản trong giáo dục, chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho
sự nghiệp CNH, HĐH nước những năm đầu thế kỷ XXI, khắc phục tình
trạng “cơng tác quản lý xã hội hóa giáo dục cịn bất cập cả trong định
hướng phát triển, quy hoạch và chỉ đạo thực hiện…” [11, tr.2], Đảng và
Nhà nước đã đánh giá và đưa ra những giải pháp XHHGD ở tầm vĩ mơ.
Những văn bản mới nhất, đó là: Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP, ngày
18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục,
y tế, văn hóa và thể dục thể thao; Quyết định số 20/2005/QĐ-BGD&ĐT,
ngày 24/6/2005 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phê duyệt
Đề án “Quy hoạch phát triển xã hội hóa giáo dục giai đoạn 2005 - 2010”.
Các văn bản này đều nhấn mạnh đến sự quản lý giáo dục của Nhà nước
mang tính tồn diện, thống nhất nhằm thu hút mọi tiềm năng trong xã hội
để phát triển giáo dục. Dưới sự quản lý của Nhà nước, mọi tổ chức xã hội,
mọi người dân đều có trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia làm
giáo dục.
1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Quản lý
Quản lý là một loại hoạt động xã hội mang tính phổ biến của con
người và xã hội lồi người, bắt nguồn từ tính chất cộng đồng, dựa trên sự
phân công và hợp tác để thực hiện một công việc nhằm đáp ứng nhu cầu đề
ra. Quản lý diễn ra ở mọi tổ chức từ phạm vi nhỏ đến phạm vi lớn, từ đơn
giản đến phức tạp. Trình độ xã hội hóa càng cao, u cầu quản lý càng cao,
vai trị của nó càng tăng lên. Có nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh khái
niệm quản lý, có người cho rằng quản lý là cai quản, điều hành, điều khiển,
chỉ huy, hướng dẫn,… Harold Koontz đề cập đến quản lý: “Quản lý là một


16
hoạt động thiết yếu; nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt
được các mục đích của nhóm” [1, tr.33]
Frederics William Taylor, người Mĩ cho rằng: Quản lý là nghệ thuật
biết rõ ràng, chính xác cái gì cần phải làm và làm cái gì đó như thế nào,
bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất. H. Fayol (1886-1925), là người đầu
tiên tiếp cận quản lý theo quy trình và là người có tầm ảnh hưởng to lớn
trong lịch sử tư tưởng quản lý từ thời kỳ cận - hiện đại tới nay, quan niệm
rằng: Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển,
phối hợp và kiểm tra. Các Mác cũng đã khẳng định: “Mọi người lao động
trực tiếp trong xã hội hoặc chung thực hiện trên quy mô tương đối lớn, ở
mức độ ít hay nhiều đều cần đến quản lý” [9, tr.34]. PGS.TS. Đặng Quốc
Bảo quan niệm rằng: “Quản lý về bản chất bao gồm quá trình “quản” và
quá trình “lý”. Quản là coi sóc, giữ gìn nhằm ổn định hệ thống. Lý là thanh
lý, xử lý, biện lý, sửa sang, chỉnh đốn nhằm làm cho hệ thống phát triển.
Hệ thống ổn định mà không phát triển tất yếu dẫn đến suy thoái.
Hệ thống phát triển mà thiếu ổn định tất yếu dẫn đến rối ren.
Như vậy: quản lý = ổn định + phát triển.
Trong “quản lý” phải có mầm mống của “lý” và trong “lý” phải có

hạt nhân của “quản”. Điều này tạo ra mối quan hệ hiện thực: Ổn định đi tới
sự phát triển, phát triển trong thế ổn định” [22, tr.176].
Quản lý là: “Hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ định của
chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý)
trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích
của tổ chức” [37, tr.326].
Kế thừa những nhân tố hợp lý của các cách tiếp cận và quan niệm về
quản lý trong lịch sử tư tưởng quản lý, quan niệm của chúng tôi về quản lý
như sau: Quản lý là tổng hợp sự tác động có ý thức, có định hướng, có chủ
đích, bằng quyền lực, theo quy trình của chủ thể quản lý tới đối tượng quản


17
lý để phối hợp các nguồn lực, nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức trong
những điều kiện môi trường nhất định.
Như vậy, quản lý là một hệ thống bao gồm những nhân tố cơ bản: chủ
thể quản lý, đối tượng quản lý, mục tiêu quản lý, công cụ, phương tiện quản
lý, cách thức quản lý (có ý thức, có định hướng, có chủ đích, bằng quyền lực,
theo quy trình) và mơi trường quản lý. Những nhân tố đó có mối quan hệ và
tác động qua lại lẫn nhau để hồn thành mục tiêu của tổ chức một cách có
hiệu quả.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Hoạt động giáo dục là một hoạt động xã hội có tổ chức chặt chẽ, do
vậy không thể thiếu công tác quản lý. Quản lý giáo dục là vấn đề mà từ
trước đến nay được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu, đưa ra các khái
niệm về nó.
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý giáo dục. PGS.TS. Đặng
Quốc Bảo nêu quan điểm: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt
động điều hành, phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy công tác
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội” [22, tr.46]. Quản lý giáo dục là

hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của các
chủ thể quản lý, nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý
giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ
trẻ, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về
chất. Quản lý giáo dục là sự tác động của hệ thống quản lý giáo dục của
nhà nước từ trung ương đến địa phương, đến khách thể quản lý và hệ thống
giáo dục quốc dân cũng như sự nghiệp giáo dục của mỗi địa phương nhằm
đưa hoạt động giáo dục đến kết quả mong muốn.
Từ nhận thức về quản lý nói chung và những cách tiếp cận về quản
lý giáo dục của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, chúng tôi quan
niệm: Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế


18
hoạch của các chủ thể quản lý tới khách thể quản lý trong lĩnh vực hoạt
động công tác giáo dục, nhằm thực hiện có hiệu quả những mục tiêu giáo
dục đề ra.
1.2.3. Xã hội hóa giáo dục
1.2.3.1. Xã hội hóa
Xã hội hóa là một trong những vấn đề cơ bản của xã hội học, xã hội
hóa được hiểu theo hai góc độ: xã hội hóa cá nhân và xã hội hóa một hoạt
động.
Xã hội hóa cá nhân: là q trình con người tiếp thu nền văn hóa của
xã hội trong đó con người được sinh ra, q trình mà nhờ nó con người đạt
được những đặc trưng xã hội của bản thân, học được cách suy nghĩ và ứng
xử được coi là thích hợp trong xã hội.
Xã hội hóa cá nhân là quá trình tiếp thu và tái tạo những kinh nghiệm
xã hội của cá nhân thông qua hoạt động và giao lưu. Xã hội hóa cá nhân
cho phép con người nhận thức toàn diện hiện thực xã hội xung quanh,

chiếm lĩnh những kỹ năng hoạt động của cá nhân và tập thể trong mơi
trường xã hội mà mình sinh sống. Xã hội hóa cá nhân là q trình liên tục,
q trình đó cịn gọi là q trình học hỏi xã hội, tiếp thu xã hội, thích ứng
xã hội [39, tr.18].
Xã hội hóa một hoạt động: là sự tham gia rộng rãi của xã hội (các cá
nhân, nhóm, tổ chức, cộng đồng...) vào một hoạt động hoặc một số hoạt
động mà trước đó chỉ một đơn vị, một bộ phận hay một ngành chức năng
nhất định thực hiện [34, tr.112].
Dưới góc độ này, XHH thường được dùng một cách thơng dụng
trong xã hội. Đây chính là q trình phối hợp hoạt động một cách có kế
hoạch của các lực lượng trong xã hội theo một định hướng, một chiến lược
quốc gia để giải quyết một vấn đề nào đó của xã hội. XHH hoạt động cần
được coi là một tư tưởng chiến lược có tính lâu dài và tồn diện, là một giải


19
pháp xã hội có tính liên ngành cao nhằm huy động các lực lượng xã hội
tham gia một cách tích cực để giải quyết một vấn đề xã hội nào đó.
XHH hoạt động dưới góc nhìn của các nhà lãnh đạo, quản lý là một
quá trình tổ chức, quản lý và huy động nhiều lực lượng xã hội cùng tham
gia để giải quyết một vấn đề của xã hội theo một chiến lược xác định và có
kế hoạch. Đối với từng lực lượng xã hội, XHH được hiểu là một quá trình
phối hợp, lồng ghép các hoạt động của mình với hoạt động của các lực
lượng khác trong xã hội có liên quan để tạo ra hoạt động có tính liên ngành
cao, trong đó có sự phân cơng rõ trách nhiệm của từng lực lượng. Đối với
mỗi cộng đồng, mỗi gia đình, mỗi người dân, XHH hoạt động được hiểu là
một q trình trong đó cần huy động sự tham gia hưởng ứng của nhiều
người, của cộng đồng vào các cuộc vận động nhằm động viên, thúc đẩy họ
hành động một cách chủ động, tích cực vì mục đích mở rộng và nâng cao
chất lượng một hoạt động xã hội nào đó.

XHH hoạt động cịn được hiểu như là việc biến một nhiệm vụ, một
công việc thuộc trách nhiệm của một chủ thể thành nhiệm vụ, công việc
của một số chủ thể, của nhiều chủ thể hay của toàn bộ xã hội. XHH với
nghĩa này tương đồng với việc huy động sức lực, trí tuệ (nguồn lực) của
cả cộng đồng cho việc hoàn thành một nhiệm vụ xã hội nào đó. Ở đây,
huy động sức người, sức của, tài chính, phương tiện, vật chất,... là những
cái cần huy động, tổng hợp, phân bổ và sử dụng cho việc hoàn thành
nhiệm vụ. XHH theo nghĩa này như một phương thức huy động xã hội,
thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động xã hội
là chính. Mà trong nhiều trường hợp, XHH theo cách này đã huy động
được không nhỏ sức lực, trí tuệ của cả xã hội cho việc thực hiện các mục
tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ xã hội.
XHH các hoạt động không chỉ là tăng cường huy động cộng đồng
mà coi nhẹ trách nhiệm Nhà nước hoặc trách nhiệm các chủ thể chính, mà


20
ngược lại, đây chính là q trình kết hợp chặt chẽ giữa trách nhiệm của Nhà
nước, của các cơ quan chủ quản với cộng đồng, làm cho các nguồn lực
được huy động đến mức tối đa và sử dụng có hiệu quả nhất. Đây mới là
mục tiêu thực chất của XHH hoạt động.
Như vậy, XHH hoạt động được đề cập ở đây là quá trình biến
nhiệm vụ của một ngành, một chủ thể thành nhiệm vụ của nhiều ngành,
nhiều chủ thể xã hội hay của toàn xã hội bằng cách thông qua hoạt động
tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhằm nâng cao nhận thức về trách
nhiệm của từng đối tượng, sự quản lý, điều hành của các nhà lãnh đạo,
các cơ quan chức năng góp phần tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa
các lực lượng xã hội để thực hiện nhiệm vụ xã hội đang đặt ra.
1.2.3.2. Xã hội hóa giáo dục
Xã hội hóa giáo dục là: “Huy động xã hội làm giáo dục, động viên

các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự
quản lý của nhà nước để xây dựng một xã hội học tập” [21, tr.237].
Thực chất đây là bước cụ thể hóa đường lối lãnh đạo của Đảng: “Các
vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hố. Nhà
nước giữ vai trị nịng cốt, đồng thời động viên mọi người dân, các doanh
nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và các tổ chức nước ngoài
cùng tham gia giải quyết các vấn đề xã hội” [26, tr.114]. Đồng thời thể hiện
đường lối vận động quần chúng, huy động sức mạnh của toàn thể xã hội
vào việc thực hiện nhiệm vụ, Đại hội VII (1991) của Đảng đã xác định:
Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Điều đó cho thấy XHHGD là một biện
pháp giải quyết mâu thuẫn giữa thực tiễn của giáo dục và những yêu cầu
mà xã hội đòi hỏi giáo dục phải đáp ứng, là trả lại bản chất xã hội cho giáo
dục.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục cũng từng bước được cải
cách và phát triển. Nhưng qua các thời kì lịch sử, giáo dục ngày càng tiến


21
xa bản chất xã hội vốn có ban đầu. Trải qua các quá trình thay đổi về quan
hệ sản xuất, tiến bộ về khoa học kỹ thuật, chun mơn hóa, giai cấp hóa,
nhà nước hố, giáo dục đi đến độc quyền và đơn độc. Chất lượng giáo dục
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội, cơ sở vật chất cho giáo
dục cịn nhiều bất cập, có ngun nhân từ những vấn đề này... Những vấn
đề còn tồn tại của giáo dục chỉ được giải quyết khi trả lại bản chất xã hội
nó. Đảng ta đã khẳng định quan điểm: “Giáo dục là sự nghiệp của quần
chúng”. Hội nghị lần thứ 6 BCHTW Đảng khóa IX đã chỉ rõ: “Toàn Đảng,
toàn dân, toàn ngành giáo dục cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt những
định hướng chiến lược về giáo dục trong Nghị quyết TW2 (khóa 8)… Đẩy
mạnh xã hội hóa giáo dục nhằm tạo nguồn nhân lực có số lượng và chất
lượng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất

nước” [19, tr.10].
Có thể hiểu XHHGD là một cách làm giáo dục, được xác định bởi
những đặc điểm sau: Huy động mọi lực lượng xã hội cùng tham gia làm
công tác giáo dục; Huy động sức mạnh tổng hợp của các cơ quan, ban,
ngành có liên quan; Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, các hình thức học
tập, nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của cộng đồng.
Trước đây, Đảng và Nhà nước ta cũng đề ra các chủ trương: Nhà
nước và nhân dân cùng làm, hoặc: Nhà nước và nhân dân cùng xây dựng và
phát triển giáo dục... đã huy động một nguồn lực đáng kể trong nhân dân.
Tuy nhiên, chủ trương trên cũng chỉ để giải quyết vấn đề “nguồn ngân sách
cịn hạn chế” chứ khơng sâu, rộng như “Xã hội hóa giáo dục”. XHHGD là
một tư tưởng chiến lược lâu dài, xuất phát từ bản chất xã hội của giáo dục.
Hội nghị lần thứ 2 BCHTW Đảng (khóa VIII) đã xác định: “Phát triển giáo
dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của nhà nước và mỗi cộng đồng, của từng
gia đình và mỗi cơng dân. Kết hợp tốt giáo dục học đường với giáo dục gia
đình, giáo dục xã hội, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, người lớn
làm gương cho trẻ con noi theo. Phát động phong trào rộng khắp toàn dân


22
học tập, người người di học, học ở trường, lớp và tự học suốt đời, người
biết dạy cho người chưa biết, người biết nhiều dạy cho người biết ít, mỗi
người phải khơng ngừng tự nâng cao trình độ học vấn, chun mơn, nghiệp
vụ. Tiếp tục đa dạng hóa các hình thức giáo dục và các loại hình trường lớp
phù hợp với địi hỏi của tình hình mới với nhu cầu học tập của tuổi trẻ và
toàn xã hội...” [17, tr.9].
Như vậy, quan điểm của chúng tôi, XHHGD là vận động và tổ
chức để tồn xã hội đóng góp các nguồn lực cho GD&ĐT, được hưởng
thụ về quyền lợi GD&ĐT, làm cho GD&ĐT trở thành sự nghiệp chung
trong cộng đồng xã hội, làm cho học tập trở thành hoạt động thường

xuyên của mỗi người, vì sự phồn vinh của của đất nước và chất lượng
cuộc sống của nhân dân.
1.2.3.3. Quản lý công tác XHHGD
Điều 12, Luật Giáo dục (2005), ghi rõ: “Mọi tổ chức, gia đình và
cơng dân đều có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong
trào học tập và môi trường giáo dục lành mạnh... Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục, thực hiện đa dạng hóa các loại hình
nhà trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều
kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục” [7, tr.10].
Theo chúng tôi, quản lý công tác XHHGD là việc thể hiện trách
nhiệm của mỗi cấp về các vấn đề: hình thành thể chế XHHGD (văn bản,
chế định pháp luật); tổ chức, chỉ đạo thực hiện XHHGD; giám sát, đôn đốc,
kiểm tra việc triển khai và thực hiện XHHGD.
Ba nhóm vấn đề trên có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau;
nếu tổ chức, chỉ đạo thực hiện XHHGD là mấu chốt, thì việc tạo thể chế là
tiền đề pháp lý, là chỗ dựa cho việc triển khai quản lý nhà nước, cịn việc
giám sát, đơn đốc, kiểm tra là xác định trình độ và mức độ thực hiện
XHHGD của tồn xã hội dưới sự quản lý của Nhà nước.
1.2.3.4. Giải pháp và giải pháp quản lý công tác XHHGD


23
Giải pháp, theo Từ điển tiếng Việt là cách giải quyết một vấn đề
[38, tr.376].
Giải pháp quản lý công tác XHHGD, theo chúng tôi, là tổng hợp
những cách thức, biện pháp của chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý
nhằm phát huy cao nhất trách nhiệm của mỗi bên trong việc giải quyết các
vấn đề: hình thành thể chế XHHGD; tổ chức, chỉ đạo thực hiện XHHGD;
giám sát, đôn đốc, kiểm tra việc triển khai và thực hiện công tác XHHGD
trên một địa bàn trong thời điểm cụ thể.

1.3. Một số vấn đề về quản lý công tác XHHGD
1.3.1. Mục tiêu quản lý công tác XHHGD
XHHGD là một tư tưởng lớn của Đảng và Nhà nước ta. Tư tưởng đó
là sự đúc kết truyền thống hiếu học, đề cao sự học và chăm lo việc học
hành của nhân dân ta qua hàng ngàn năm lịch sử, là bài học kinh nghiệm
lớn của lịch sử hơn 65 năm xây dựng nền giáo dục mới của nước nhà, nền
giáo dục XHCN, đặc biệt là kinh nghiệm hơn 26 năm đổi mới đất nước.
Hiếu học và tôn sư trọng đạo là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Phát
huy truyền thống của dân tộc, tiếp cận những xu hướng phát triển giáo dục
hiện đại là một trong những quan điểm lớn chỉ đạo của Đảng ta trong phát
triển giáo dục. Tư tưởng đó vừa mang tính thời đại, hợp với quy luật khách
quan, đồng thời nó vừa thể hiện cách làm giáo dục mới, đáp ứng nhu cầu
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong nền kinh tế tri thức.
Từ sau cách mạng Tháng Tám (1945) đến nay, nhiều văn bản của
Đảng và Nhà nước về chỉ đạo sự nghiệp GD đã khẳng định: giáo dục là sự
nghiệp của quần chúng, Nhà nước và nhân dân cùng làm giáo dục. Quan
điểm của Đảng và Nhà nước về XHHGD được chỉ rõ hơn tại Đại hội lần
thứ VII (1/1991): Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục đào tạo... một mặt
Nhà nước tăng cường đầu tư, mặt khác có chính sách để toàn dân, các
thành phần kinh tế làm và đóng góp vào sự nghiệp này. Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII cũng đề cập: Các vấn đề chính sách xã hội đều


24
giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng
thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội,
các cá nhân và các tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn
đề xã hội. Đây là giải pháp để hoạch định hệ thống các chính sách xã hội,
trong đó có chính sách phát triển GD&ĐT. Văn kiện hội nghị lần thứ 2
BCHW Đảng khóa VIII (12/1996) khẳng định rõ hơn: Huy động toàn xã

hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân giúp sức xây dựng nền
giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà nước. Với phương châm này,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, mọi gia đình
và mọi cá nhân cùng với ngành GD&ĐT chăm lo xây dựng sự nghiệp giáo
dục theo phương châm: Nhà nước và nhân dân cùng làm, xây dựng môi
trường giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội. Chính phủ đã ra Nghị quyết
số 90/CP, ngày 21/8/1997, về phương hướng và chủ trương: Xã hội hóa các
hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa. Đó là những giải pháp có tầm vĩ mô để
phục vụ CNH, HĐH đất nước, bởi Nghị quyết TW 4 khóa VII (1/1993) đã
khẳng định: Giáo dục là quốc sách hàng đầu, giáo dục là động lực thúc đẩy
sự phát triển sự phát triển, là hạ tầng cơ sở xã hội, đầu tư cho giáo dục là
một hướng đầu tư cho phát triển. Quan điểm chỉ đạo đúng đắn này đã giúp
giáo dục dần khẳng định được vị trí hàng đầu trong q trình đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước.
Cụ thể hóa sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước bằng
pháp luật, là cơ sở pháp lý để thực hiện quản lý công tác XHHGD, Luật
giáo dục, điều 11 về XHHGD ghi rõ: “Mọi tổ chức gia đình và cơng dân
đều có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học
tập và môi trường giáo dục lành mạnh, phối hợp với nhà trường thực
hiện mục tiêu giáo dục.
Nhà trường giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục;
thực hiện đa dạng hóa các loại hình nhà trường và các loại hình giáo dục:
khuyến khích huy động và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia
phát triển sự nghiệp giáo dục” [7, tr.12].


25
Kế thừa những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện cải cách giáo
dục, trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng tình hình kinh tế - xã hội đất nước
trong những năm qua và dự báo xu thế phát triển trong những năm tiếp theo.

Đại hội Toàn quốc lần thứ XI của Đảng (4/2011) tiếp tục xác định tại Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ đi lên xây dựng CNXH: “Phát
triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa
và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt... Xây dựng môi trường
giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội”
[20, tr.130-131].
Như vậy, qua từng thời kì cách mạng, XHHGD ln được khẳng
định là tư tưởng chiến lược, thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà
nước ta đối với sự nghiệp GD&ĐT, một bộ phận quan trọng trong đường
lối lãnh đạo của Đảng, Nhà nước nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đổi mới toàn diện
và phát triển nhanh GD&ĐT được coi là quốc sách hàng đầu để phát huy
nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển bền vững.
1.3.2. Nội dung quản lý công tác XHHGD
XHHGD là vận động và tổ chức để tồn xã hội đóng góp các nguồn
lực cho giáo dục - đào tạo, được hưởng thụ về quyền lợi giáo dục - đào tạo,
làm cho giáo dục - đào tạo trở thành sự nghiệp chung trong cộng đồng xã
hội, làm cho học tập trở thành hoạt động thường xuyên của mỗi người, vì
sự phồn vinh của của đất nước và chất lượng cuộc sống của mỗi người.
Đây chính là việc tăng cường tính xã hội của GD, làm cho mối quan hệ
giữa GD và cộng đồng xã hội phát huy tối đa vai trị của mình. XHHGD
đồng thời là quá trình nhằm nâng cao trách nhiệm của cả hai phía GD và
cộng đồng với nhau; tạo điều kiện khẳng định vai trò của giáo dục, thúc
đẩy sự phát triển của cộng đồng xã hội và khơi dậy mọi năng lực tiềm ẩn


26
trong cộng đồng xã hội tham gia xây dựng và phát triển giáo dục. Nội dung

quản lý công tác XHHGD được xác định bao gồm những mặt sau đây:
Quản lý hoạt động giáo dục hóa xã hội: tạo ra phong trào học tập sâu
rộng trong toàn xã hội theo nhiều hình thức; vận động tồn dân, trước hết là
những người trong độ tuổi lao động, thực hiện học tập suốt đời để làm việc
tốt hơn cho xã hội, có thu nhập cao hơn và có cuộc sống tốt đẹp hơn, làm
cho toàn xã hội trở thành một XHHT.
Cần phải đổi mới cơ bản tư duy và cơ chế quản lý giáo dục phải bắt
nguồn từ nhu cầu học tập suốt đời của nhân dân. Nhu cầu học của nhân dân
cũng là nhu cầu hàng đầu của sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước, lấy
sức dân mà đáp ứng nhu cầu học của dân, phát huy đạo học làm người của
cha ơng, thực hiện sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và Nghị quyết Đại hội
Đảng về xây dựng xã hội học tập: Ai cũng được học hành. Hoạt động và
học tập cho đến phút cuối cùng. “Cơng nơng trí thức hóa, dân tộc thơng
thái”. “Thực hiện giáo dục cho mọi người. Cả nước trở thành một xã hội
học tập,... nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, hồn thiện học vấn và
tay nghề, thực hiện trí thức hóa công nhân... Nâng cao hàm lượng tri thức
trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội... Nội lực là quyết định, ngoại
lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển
đất nước. Phát huy khả năng “năm tự”: tự học, tự nghiên cứu, tự hồn
thiện học vấn và tay nghề, tự tìm và tạo việc làm, tự hoàn thiện nhân cách”
[18, tr.123].
Chất lượng GD là chất lượng học của từng người học, từng người dân,
trong một xã hội mà ai cũng thi đua yêu nước, ai cũng tự học tốt, làm tốt,
sống tốt. Đây là mấu chốt của XHHGD để xây dựng một xã hội học tập.
Muốn đạt mục tiêu trên phải lấy XHHGD toàn diện và phong trào cách
mạng quần chúng. Toàn dân đoàn kết thi đua học tập tốt, làm tốt, sống tốt,
xây dựng cả nước thành một xã hội học tập ngang tầm thời đại, làm nguồn
lực tổng thể.



×