Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục pháp luật cho học sinh trung học cơ sở ở thành phố Sóc Trăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.97 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TÔ ÁI VANG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP
QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
Ở THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TÔ ÁI VANG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP
QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
Ở THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:


TS. PHAN QUỐC LÂM

NGHỆ AN - 2013


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã được
quý thầy giáo, cô giáo trang bị hệ thống tri thức về khoa học Quản lý Giáo
dục rất quý báu, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến quý thầy, quý cô
đã truyền thụ kiến thức cho tôi.
Trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Vinh - Đại học Sài
Gòn; khoa Giáo dục, phòng sau Đại học - Trường Đại học Vinh; phòng Tổ
chức - Cán bộ - trường Đại học Sài Gòn; Lãnh đạo Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân
dân tỉnh, Ban thường vụ Tỉnh Đoàn, Ban giám đốc sở Lao động Thương
binh và Xã hội, Sở Công an tỉnh Sóc Trăng; Lãnh đạo Ủy ban Nhân dân,
Phòng Giáo dục - Đào tạo, Phòng Tư pháp, Ban giám hiệu cùng các thầy
giáo, cô giáo các trường Trung học cơ sở đóng trên địa bàn Thành phố Sóc
Trăng đã quan tâm, tạo điều kiện và hỗ trợ cho tôi có cơ hội được tham gia
và hôm nay đã hoàn thành chương trình đào tạo Thạc sĩ chuyên ngành Quản
lý Giáo dục, khóa học 19B.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Phan Quốc Lâm - người
thầy đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù tôi đã cố gắng rất nhiều trong quá trình nghiên cứu và viết luận
văn, nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót, tôi kính mong nhận được
sự góp ý, chỉ bảo của quý thầy giáo, cô giáo.
Trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, tháng 9 năm 2013
Tác giả
Tô Ái Vang



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.........................................................................2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu...........................................................2
4. Giả thuyết khoa học....................................................................................2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................3
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................3
7. Những đóng góp của luận văn....................................................................4
8. Cấu trúc của luận văn.................................................................................4
Chương 1..........................................................................................................5
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ..........................................5
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu.......................................................................5
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài...........................................................17
1.3. Một số vấn đề về công tác giáo dục pháp luật cho học sinh Trung học
cơ sở................................................................................................................21
1.5. Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng quản lý công tác giáo dục
pháp luật.........................................................................................................29
Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ SÓC
TRĂNG...........................................................................................................32
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, truyền thống lịch
sử, văn hóa giáo dục của Thành phố Sóc Trăng.........................................32
2.2. Thực trạng công tác giáo dục pháp luật...............................................35
2.3. Thực trạng quản lý công tác giáo dục pháp luật cho học sinh trung
học cơ sở ở thành phố Sóc Trăng trong thời gian qua...............................44
2.4. Đánh giá chung về thực trạng và nguyên nhân...................................53

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG
.........................................................................................................................62
3.1. Nguyên tắc đề xuất giải pháp................................................................62
3.2. Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục pháp luật cho học sinh
Trung học cơ sở ở Thành phố Sóc Trăng....................................................63
3.3. Thăm dò sự cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất...78
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.......................................................................85


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình đổi mới đất nước, xây dựng “nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa” và một “xã hội công dân” đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội,
xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều có ý thức tôn trọng pháp luật, tự
nguyện tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần bảo vệ
pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật.
Để thực hiện mục tiêu này, song song với việc xây dựng và không
ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, một trong những vấn đề có tầm quan
trọng đặc biệt là phải đẩy mạnh phổ biến, giáo dục pháp luật cho mọi nhóm
đối tượng, trong đó có học sinh, sinh viên – những công dân trẻ luôn chiếm
gần một phần tư dân số cả nước. Đây là yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết, mang tính
khách quan và hoàn toàn phù hợp với mục tiêu giáo dục toàn diện của chúng
ta là ”Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức,
sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng
lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc”. Để thực hiện đào tạo phát triển toàn diện con người Việt Nam, giáo
dục pháp luật là một nội dung không thể thiếu trong chương trình giáo dục
các cấp học nói chung, trong đó cấp trung học cơ sở nói riêng của hệ thống
giáo dục quốc dân.
Trong những năm qua, cùng với việc xây dựng chủ trương, chính sách
phát triển trên tất cả các lĩnh vực, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan
tâm, chăm lo về mọi mặt cho thiếu niên. Phần lớn các em đáp ứng được sự
mong mỏi của gia đình và xã hội, sống có ước mơ, hoài bão, không ngừng tu


2
dưỡng về đạo đức, nỗ lực học tập, tiếp thu kiến thức nhằm chuẩn bị trang để
kế thừa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, do đặc điểm phát
triển về tâm, sinh lý của lứa tuổi này là nhân cách chưa hoàn chỉnh, nông nổi,
dễ bị kích động, khó kiềm chế và đặc biệt là hiểu biết về pháp luật chưa sâu
sắc, chưa toàn diện cùng với ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường, từ
những luồng tư tưởng văn hóa độc hại xâm nhập thông qua các con đường
khác nhau, đã tác động tiêu cực đến một bộ phận không nhỏ ở độ tuổi thiếu
niên sống buông thả, đua đòi dẫn đến thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Đây là hiện tượng thực tế tồn tại ở tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó
có Việt Nam, vi phạm do các em chưa thành niên gây ra là nỗi đau của gia
đình, cha mẹ đồng thời là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội.
Đó là những lý do để tôi chọn đề tài “Một số giải pháp quản lý công tác
giáo dục pháp luật cho học sinh Trung học cơ sở ở Thành phố Sóc Trăng”.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề xuất một số giải pháp quản lý công tác giáo dục pháp luật cho học
sinh Trung học cơ sở ở Thành phố Sóc Trăng.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề quản lý công tác giáo dục pháp luật trong các trường Trung học

cơ sở.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp quản lý công tác giáo dục pháp luật cho học sinh Trung học cơ
sở ở Thành phố Sóc Trăng.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và thực thi được một số giải pháp quản lý có cơ sở khoa
học và có tính khả thi thì sẽ nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật
cho học sinh Trung học cơ sở ở Thành phố Sóc Trăng.


3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý công tác giáo dục pháp luật cho
học sinh Trung học cơ sở
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh
Trung học cơ sở thành phố Sóc Trăng
- Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động giáo dục pháp luật cho học
sinh Trung học cơ sở thành phố Sóc Trăng
- Đề xuất, khảo sát và thăm dò tính cần thiết và tính khả thi một số giải
pháp quản lý hoạt động giáo dục pháp luật cho học sinh Trung học cơ sở
thành phố Sóc Trăng
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa các tài liệu liên quan
- Khái quát hóa các nhận định độc lập
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phỏng vấn ý kiến của học sinh trung học cơ sở, của giáo viên dạy môn
Giáo dục công dân, giáo viên tổng phụ trách Đội, phụ huynh học sinh Trung
học cơ sở, lãnh đạo quản lý có liên quan đến công tác giáo dục pháp luật cho
học sinh Trung học cơ sở

- Điều tra bằng phiếu hỏi để trưng cầu ý kiến của học sinh Trung học cơ
sở, của giáo viên dạy môn Giáo dục Công dân, giáo viên Tổng phụ trách Đội,
phụ huynh học sinh Trung học cơ sở, lãnh đạo quản lý có liên quan đến công
tác giáo dục pháp luật cho học sinh Trung học cơ sở
- Thăm dò, xin ý kiến chuyên gia thông qua hình thức đàm thoại để tổng
hợp những suy nghĩ, đánh giá của những người có nhiều kinh nghiệm chuyên
làm công tác giáo dục pháp luật cho học sinh để xem xét, rút ra kết luận tốt
nhất cho vấn đề nghiên cứu


4
- Phương pháp thực nghiệm tác động sư phạm (chỉ sử dụng một vài biện
pháp thực nghiệm tác động sư phạm) như: đưa tình huống có liên quan đến
quản lý công tác giáo dục pháp luật cho học sinh Trung học cơ sở để giáo
viên dạy môn giáo dục Công dân, giáo viên Tổng phụ trách Đội suy nghĩ và
giải quyết; thảo luận và tìm giải pháp xử lý hiệu quả tình hình bạo lực học
đường, học sinh Trung học cơ sở vi phạm Luật Giao thông, ...
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Để xử lý các dữ liệu thu được về mặt định lượng
7. Những đóng góp của luận văn
- Về mặt lý luận: góp phần cùng các nhà quản lý công tác giáo dục pháp
luật cho học sinh Trung học cơ sở nhận định tình hình mang tính khái quát
trên cơ sở khoa học
- Về mặt thực tiễn: đánh giá thực trạng học sinh Trung học cơ sở vi
phạm pháp luật, thực trạng quản lý công tác giáo dục pháp luật cho học sinh
Trung học cơ sở, từ đó đề xuất một số giải pháp quản lý công tác giáo dục
pháp luật cho học sinh Trung học cơ sở trong thời gian tới
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, luận văn gồm có 3 chương
Chương 1 Cơ sở lý luận của công tác quản lý giáo dục pháp luật cho học

sinh Trung học cơ sở
Chương 2 Thực trạng quản lý công tác giáo dục pháp luật cho học sinh
Trung học cơ sở ở Thành phố Sóc Trăng
Chương 3 Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục pháp luật cho học
sinh Trung học cơ sở ở Thành phố Sóc Trăng


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu trong nước
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục và đào tạo toàn diện của các nhà trường,
từ yêu cầu tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tại Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VI – năm 1986, cùng với việc đề ra đường lối đổi mới, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chủ trương quản lý đất nước bằng pháp luật chứ không
chỉ bằng đạo lý. Đồng thời với chủ trương đó, Đảng nhấn mạnh phải "coi
trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật. Đưa việc dạy pháp
luật vào hệ thống các trường của Đảng, của Nhà nước (kể cả các trường phổ
thông, đại học), của các đoàn thể nhân dân. Cán bộ quản lý các cấp từ trung
ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết về
pháp luật".
Thực hiện chủ trương của Đảng, công tác giáo dục pháp luật đã diễn ra
mạnh mẽ, được triển khai cả trên phương diện nghiên cứu lý luận và tổ chức
thực tiễn. Trên phương diện lý luận về giáo dục pháp luật, công tác nghiên
cứu đã được đẩy mạnh theo các hướng:
Thứ nhất, nghiên cứu cơ bản nhằm làm sáng tỏ khái niệm, mục đích, các
mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị, đạo đức, văn hoá,
học vấn; nghiên cứu những vấn đề lý luận về chủ thể, đối tượng giáo dục
pháp luật, mối quan hệ tác động giữa chủ thể và đối tượng trong giáo dục

pháp luật; những vấn đề lý luận chung về nội dung, hình thức, phương pháp
và công cụ giáo dục pháp luật. Đặc biệt, hướng này đã đi sâu nghiên cứu


6
những vấn đề lý luận về ý thức pháp luật, làm rõ bản chất, cấu trúc, mối quan
hệ giữa ý thức pháp luật với ý thức đạo đức, ý thức chính trị; làm rõ vai trò
của ý thức pháp luật trong cơ chế tự điều chỉnh hành vi hợp pháp của cá nhân
cũng như trong cơ chế điều chỉnh pháp luật của Nhà nước; bước đầu nghiên
cứu những vấn đề lý luận về văn hoá pháp lý, các mối quan hệ giữa văn hoá
pháp lý với các lĩnh vực văn hoá khác, vai trò của văn hoá pháp lý trong đời
sống tinh thần của con người, xây dựng văn hoá ứng xử của công chức trong
thực thi công vụ và trong quan hệ giữa cơ quan nhà nước, công chức nhà
nước với nhân dân.
Thứ hai, nghiên cứu giáo dục pháp luật cho từng nhóm đối tượng cụ thể,
như giáo dục pháp luật cho người lao động làm việc trong các đơn vị kinh tế
trong điều kiện kinh tế thị trường; giáo dục pháp luật cho nông dân, cán bộ,
công chức, cho thanh niên, thiếu niên, sĩ quan, chiến sĩ trong lực lượng vũ
trang, cho thanh niên, phụ nữ, cho đồng bào dân tộc thiểu số... Đây là hướng
nghiên cứu có giá trị thực tiễn áp dụng cao. Kết quả của hướng nghiên cứu
này là đã làm rõ những đặc trưng trong giáo dục pháp luật đối với các nhóm
đối tượng cụ thể, xác định nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục phù
hợp với đặc thù, với nhu cầu pháp luật của đối tượng giáo dục, những đặc thù
về môi trường, những tác động chủ quan, khách quan lên quá trình giáo dục,
từ đó góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo dục pháp luật.
Thứ ba, nghiên cứu giáo dục về từng lĩnh vực pháp luật cụ thể, như giáo
dục pháp luật hôn nhân gia đình, giáo dục pháp luật lao động, hình sự, dân sự,
thương mại, giáo dục pháp luật về quốc phòng, an ninh, về văn hoá, trật tự an
toàn giao thông... Kết quả của hướng nghiên cứu này là đã góp phần xây dựng
và hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước bằng pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu

quả quản lý nhà nước. Cũng từ hướng nghiên cứu này, những vấn đề lý luận
về giáo dục pháp luật rút ra được đã góp phần để các cơ quan nhà nước có


7
thẩm quyền xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là đối với việc xây
dựng các dự thảo luật, pháp lệnh trên các lĩnh vực chuyên ngành.
Thứ tư, nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến các hoạt động
giáo dục pháp luật, các hình thức, phương pháp giáo dục cụ thể như nghiên
cứu làm rõ và phân biệt giữa hoạt động tuyên truyền pháp luật với hoạt động
phổ biến pháp luật, hoạt động tư vấn, trợ giúp pháp lý, các hình thức tiến hành
giáo dục phù hợp với các hoạt động đó.
Thứ năm, nghiên cứu những vấn đề lý luận có tính chuyên sâu về giảng
dạy pháp luật ở các trường đảng, các trường phổ thông, đại học, các trường
của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng, kể các trường đào tạo
nghề luật và trường đào tạo các chức danh tư pháp. Về mục đích, hướng
nghiên cứu lý luận về giáo dục pháp luật này nhằm hình thành hệ thống tiêu
chí, làm cơ sở xác định nội dung chương trình giảng dạy pháp luật cụ thể phù
hợp với đối tượng, mục tiêu đào tạo; xác định các tiêu chí đánh giá hiệu quả
giáo dục; xác định các phương pháp giảng dạy, nhất là phương pháp mới
trong giảng dạy các chuyên ngành luật; các yêu cầu và tiêu chuẩn đối với giáo
viên giảng dạy pháp luật, từ đó có chính sách, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
nhằm hình thành và chuẩn hoá đội ngũ giáo viên giảng dạy luật, chuẩn hoá
chương trình, kế hoạch, giáo trình, giáo khoa và các học liệu khác dùng trong
giảng dạy pháp luật, bảo đảm sự phù hợp với đối tượng đào tạo, với thời gian,
hình thức đào tạo, mục tiêu đào tạo cụ thể.
Thứ sáu, nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những luận cứ khoa học cho việc
thực hiện Chỉ thị 32/CT-TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng (khoá IX), về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân

dân. Chỉ thị này là văn kiện có tính chuyên biệt đầu tiên của Đảng về giáo dục
pháp luật, xác định phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác


8
giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng, khẳng định việc tìm hiểu, học tập pháp luật là
nhiệm vụ thường xuyên, là một trong những tiêu chuẩn đánh giá cán bộ, đảng
viên. Chỉ thị đồng thời xác định trách nhiệm của các tổ chức đảng, Đảng đoàn
Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, Ban Cán sự đảng các Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Tư pháp, các Ban của Đảng, Ban Cán sự đảng, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên, các phương tiện thông tin đại chúng ở
trung ương, địa phương trong giáo dục pháp luật, phối hợp giáo dục pháp
luật; kiện toàn, đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng phối hợp công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật các cấp.
Từ những quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Chỉ thị 32/CT-TW về giáo
dục pháp luật, hướng nghiên cứu trên đã tập trung làm rõ mối quan hệ hữu cơ
giữa giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị, tư tưởng, giữa công tác tuyên
truyền đường lối, chủ trương của Đảng với công tác phổ biến giáo dục pháp
luật. Mặt khác, hướng nghiên cứu này đã mở ra nhiều định hướng mới trong
nghiên cứu lý luận về giáo dục pháp luật, không chỉ góp phần làm phong phú
lý luận về pháp luật mà còn bổ sung nội dung quan trọng trong lý luận về
đảng cầm quyền trong điều kiện nhà nước pháp quyền. Đó là các định hướng
nghiên cứu:
Thứ nhất, nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất, nội dung, các hình thức và
cơ chế lãnh đạo - quản lý giáo dục pháp luật của Đảng và Nhà nước, của các
tổ chức đảng và cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ hai, nghiên cứu luận cứ khoa học xác định cụ thể, chính xác nội
dung và phương thức lãnh đạo của các tổ chức đảng trong giáo dục pháp luật
phù hợp với lĩnh vực, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước

chịu sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức đó.


9
Thứ ba, nghiên cứu những luận cứ khoa học cho việc xác định trách
nhiệm, nội dung và phương thức lãnh đạo của các tổ chức đảng các cấp trong
công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên làm việc, công tác trong cơ
quan của Đảng.
Thứ tư, nghiên cứu những luận cứ khoa học xác định trách nhiệm, nội
dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, đoàn, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của
các tổ chức chính trị - xã hội trong giáo dục pháp luật cho các thành viên,
trong phối hợp với các cơ quan nhà nước thực hiện giáo dục pháp luật cho cán
bộ, nhân dân.
Công tác nghiên cứu lý luận về giáo dục pháp luật trực tiếp góp phần
thực hiện thắng lợi ba cuộc cải cách lớn về tổ chức và hoạt động của nhà
nước, gồm cải cách lập pháp, cải cách hành pháp và cải cách tư pháp. Đặc
biệt, việc nghiên cứu, ban hành, thi hành các văn bản Luật dành cho người
chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm
1999: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm; Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm
trọng". Điều 69 Bộ luật Hình sự 1999 quy định: Việc xử lý người chưa thành
niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sữa chữa sai lầm, phát triển
lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp
điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều
kiện gây ra tội phạm; Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách
nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng, gây hại không lớn, có
nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám

sát, giáo dục; Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm


10
tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần
thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm
về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm; Khi xét xử, nếu thấy
không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại
Điều 70 của Bộ luật này; Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với
người chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người
chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối
với người đã thành niên phạm tội tương ứng. Không áp dụng hình phạt tiền
đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm
tội; Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi,
thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm". Điều 71 Bộ
luật Hình sự cũng quy định, người chưa thành niên phạm tội chỉ có thể bị xử
phạt bằng một trong các hình phạt sau đây: Cảnh cáo, phạt tiền, (đối với
người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi đã có thu nhập hoặc có tài sản riêng); cải tạo
không giam giữ, tù có thời hạn.
Điều 1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của Việt Nam năm
2004 thì "trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi". Như vậy độ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự của người thành niên được xây dựng dựa trên sự phát
triển về mặt thể chất và tinh thần của con người; trình độ phát triển về nhận
thức xã hội; điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia trong từng thời kỳ.
Trong thời gian vừa qua, có những vụ trọng án gây ra bởi người chưa thành
niên đã tạo nên sự bức xúc lớn trong cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, xuất phát
từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và chính sách nhân đạo của Đảng
và nhà nước ta được cụ thể hoá trong Luật Hình sự và các văn bản pháp luật

có liên quan, thì việc xử lý đối với những đối tượng người chưa thành niên


11
phạm tội chủ yếu để giáo dục cải tạo họ trở thành những công dân có ích cho
xã hội là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, việc xử lý đối tượng là người chưa
thành niên phạm tội cần phải đi đôi với việc giải quyết những nguyên nhân
sâu xa của tội phạm, có sự chung tay của cá nhân, gia đình, nhà trường và
toàn xã hội … để góp phần ngăn chặn kịp thời, có hiệu quả tình hình người
chưa thành niên phạm tội nói riêng và tình hình tội phạm nói chung.
1.1.2. Các nghiên cứu ở ngoài nước
1.1.2.1. Quan điểm chung của các nước
Trong các văn bản quốc tế và các chương trình của Liên Hợp Quốc khi
đưa ra khái niệm về trẻ em hay người chưa thành niên, trong pháp luật quốc tế
không dựa vào đặc điểm tâm - sinh lý hay sự phát triển thể chất, tinh thần ...
mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc xác định độ tuổi. Kể cả khái niệm
trẻ em và khái niệm người chưa thành niên đều giới hạn là dưới 18 tuổi, đồng
thời đưa ra khả năng mở cho các quốc gia tuỳ điều kiện kinh tế - xã hội, văn
hoá, truyền thống của mình có thể quy định độ tuổi đó sớm hơn. Nội dung các
quy tắc trên có tính đến sự đa dạng và cơ cấu pháp luật của các quốc gia, phản
ánh mục đích và tinh thần của tư pháp người chưa thành niên, đề ra những
nguyên tắc mong muốn và thông lệ đối với việc quản lý những người chưa
thành niên vi phạm pháp luật.
Trong phần mở đầu Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em có
nêu “do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc
đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra
đời”, trong khoản 1 – Điều 19 có nêu: các Quốc gia thành viên phải thực hiện
mọi biện pháp pháp chế, hành chính, xã hội và giáo dục thích hợp để bảo vệ
trẻ em khỏi mọi hình thức bạo lực về thể xác hoặc tinh thần, gây tổn thương
hay xúc phạm, bỏ mặc hoặc xao nhãng trong việc chăm sóc, ngược đãi hoặc

bóc lột, kể cả sự xâm phạm về tình dục, trong khi trẻ em vẫn nằm trong vòng


12
chăm sóc của cha hay mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ, một hay nhiều người giám hộ
pháp lý, hoặc của bất kỳ người nào khác được giao việc chăm sóc trẻ em.
Một nội dung khác cũng được hệ thống luật pháp, chính sách quy định
rất cụ thể đó là tư pháp thân thiện với trẻ em, ví dụ như khi trẻ em vi phạm
pháp luật thì áp dụng các hình thức điều tra, xét hỏi, xử lý tại toà án như thế
nào để không gây tổn hại cho trẻ em, hay trong trường hợp trẻ em là nạn nhân
của các hành vi bạo lực, xâm hại. Một số nước có phòng điều tra xét hỏi
riêng, toà án gia đình và trẻ em riêng để chuyên điều tra, xét hỏi và phán
quyết đối với trẻ em phạm tội hoặc trẻ em là nạn nhân của các hành vi xâm
hại, bạo lực.
Một số quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia về vấn đề
quyền của người chưa thành niên phạm tội: Người chưa thành niên phạm tội
là một hiện tượng, một thực tế tồn tại ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Mỗi
quốc gia đều giải quyết vấn đề người chưa thành niên phạm tội theo những
mức độ, cách thức khác nhau tuỳ thuộc vào những điều kiện, tập quán, pháp
luật của mỗi nước.
1.1.2.2. Nghiên cứu một số nước điển hình
Ở Australia, Thuỵ Điển, Hồng Kông cho thấy việc hình thành hệ thống
bảo vệ trẻ em liên quan rất nhiều đến các quy định của pháp luật và chính
sách hiện hành. Xây dựng hệ thống luật pháp chính sách liên quan đến phát
triển hệ thống bảo vệ trẻ em, Luật pháp không chỉ quy định quyền của trẻ em,
trách nhiệm của các cơ quan tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện mà còn quy
định rất cụ thể về các biện pháp thúc đẩy thực hiện quyền được bảo vệ, quyền
sinh tồn của trẻ em. Luật pháp cũng xác định địa vị pháp lý, trách nhiệm và
quyền hạn của nhân viên công tác xã hội rất rõ ràng, mọi vấn đề liên quan đến
trẻ em đều phải có tiếng nói của cán bộ công tác xã hội. Trong các trường hợp



13
tách con ra khỏi cha mẹ, người chăm sóc hoặc xử lý trẻ em vi phạm pháp luật,
tiếng nói của nhân viên công tác xã hội thường giữ vai trò quyết định.
Quy tắc Bắc Kinh chỉ ra những mục đích của việc áp dụng pháp luật
với người chưa thành niên và đảm bảo rằng bất cứ sự xử lý nào đối với người
chưa thành niên phạm tội phải luôn xem xét tới điều kiện hoàn cảnh của
người chưa thành niên và mức độ của tội phạm. Trong quy tắc này, bao gồm
những quy định cụ thể điều chỉnh nhiều giai đoạn khác nhau của việc áp dụng
tư pháp với người chưa thành niên. Các quy định này nhấn mạnh rằng việc
đưa các em vào cơ sở quản lý, giáo dục tập trung chỉ được coi là biện pháp
cuối cùng, chỉ nên áp dụng trong một thời gian tối thiểu, cần thiết. Liên quan
đến thủ tục xét xử quy tắc này cho rằng, một trẻ em bị quy là phạm tội được
hưởng quyền xử lý đúng theo luật định và quyền được hưởng sự đối xử đặc
biệt, kể cả sự cần thiết phải "tiến hành tố tụng trong một bầu không khí hiểu
biết", tầm quan trọng về sự có mặt của cha mẹ, tôn trọng những điều riêng tư
của các em trong tố tụng cũng như hồ sơ và yêu cầu phải có những người
được đào tạo chuyên sâu tham gia tố tụng để giải quyết vụ án. Quy tắc của
Liên hiệp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do quy
định các nguyên tắc cụ thể áp dụng đối với tất cả các hình thức giam giữ ở bất
cứ cơ sở giam giữ nào. Tách riêng những người chưa thành niên ra khỏi người
lớn trong cùng các cơ sở giam giữ và phân loại các em là một yêu cầu cần
thiết được nhắc đến trong quy tắc này. Đồng thời nhấn mạnh việc bảo vệ
người chưa thành niên bị tước quyền tự do không chỉ xác định các quyền của
họ mà còn quy định cách đối xử khi các em phạm tội. Sự tôn trọng các quyền
của người chưa thành niên cũng là một bộ phận khăng khít của công tác quản
lý, giáo dục người phạm tội là người chưa thành niên. Các quy định đặc biệt
nhấn mạnh sự liên hệ giữa người chưa thành niên với gia đình, tôn trọng nhân
phẩm của các em và quyền người chưa thành niên được đối xử công bằng.



14
Ở Thái Lan, ngày 28-1-1952, Thái Lan đã thành lập Toà án người chưa
thành niên Trung ương. Mục đích của việc thành lập Toà án này là dành cho
trẻ em và những người chưa thành niên dưới 18 tuổi một biện pháp xử lý đặc
biệt khi họ vi phạm pháp luật hình sự. Tuy nhiên, thẩm quyền của Toà án
người chưa thành niên còn được phép giải quyết một số trường hợp tranh
chấp gia đình liên quan tới hạnh phúc và lợi ích của trẻ em và người chưa
thành niên. Theo Điều 72 Bộ luật Hình sự Thái Lan, thì một đứa trẻ chưa đến
7 tuổi cũng bị áp dụng hình phạt vì những tội đã được pháp luật quy định. Trẻ
em từ 7 đến 14 tuổi nếu phạm tội cũng bị xét xử và có thể chịu hình phạt tù,
nhưng Toà án sẽ quyết định biện pháp xử lý đặc biệt bằng cách đưa vào một
trường cải tạo hoặc gửi trẻ em đó cho một người hay một cơ quan nào mà Toà
án thấy có khả năng thích hợp với việc cải tạo, giáo dục trẻ em đó (Điều 74
Bộ luật Hình sự Thái Lan). Người chưa thành niên từ 14 đến 17 tuổi có thể bị
phạt và được hưởng hình phạt đặc biệt. Trong trường hợp ở độ tuổi này, trước
khi xét xử, tuyên án, Toà án bao giờ cũng xem xét kỹ hoàn cảnh, nhân thân và
môi trường của người đó (Điều 75 Bộ luật Hình sự Thái Lan). Người chưa
thành niên bị bắt phải được đưa ngay tới trại giam giữ trong vòng 24 giờ và
trong vòng 30 ngày tạm giữ, công tố viên phải hoàn thành thủ tục và đưa ra
xét xử tại Toà án người chưa thành niên (Điều 50 và 51 Luật tổ chức Toà án
người chưa thành niên và gia đình 1991). Trong quá trình giam giữ người
chưa thành niên vẫn được chăm sóc và bảo vệ tốt. Hội đồng xét xử người
chưa thành niên phạm tội gồm hai thẩm phán chuyên nghiệp, hai hội thẩm
nhân dân và bắt buộc một trong hai hội thẩm phải có một là nữ. Phiên toà xét
xử người chưa thành niên phải được xử kín, trong đó phải có mặt người bào
chữa, cha mẹ hoặc người giám hộ. Thủ tục tố tụng của Toà án người chưa
thành niên cũng đòi hỏi phải có cán bộ chuyên sâu hơn như các nhà tâm lý, y
tế, giám sát, công tác xã hội. Mục đích tố tụng với người chưa thành niên là



15
tạo cơ hội để sửa chữa, thay đổi hành vi và mong muốn sau cùng là giúp
người chưa thành niên trở thành những công dân tốt cho xã hội chứ không
nhằm vào mục đích xử phạt các em như xử phạt người lớn.
Ở Nhật Bản có Luật người chưa thành niên, nhưng phân toà người chưa
thành niên của Toà án gia đình giải quyết các vụ việc liên quan đến người
dưới 20 tuổi. Mục đích của Luật người chưa thành niên là không trừng phạt
những người chưa thành niên phạm tội mà "giúp đỡ cho họ phát triển tốt, tiến
hành những biện pháp bảo vệ để thay đổi tính cách của người chưa thành niên
phạm tội và tạo ra một môi trường giáo dục để điều chỉnh người chưa thành
niên mắc phải sai lầm". Bộ luật tố tụng hình sự của Nhật Bản quy định việc
điều tra thuộc chức năng của cảnh sát và cơ quan công tố. Nếu Toà án xét
thấy cần có biện pháp chăm sóc, bảo vệ thì thẩm phán ra quyết định đưa bị
can, bị cáo vào trại giam chờ ngày xét xử. Thời hạn tạm giam không quá 4
tuần, trong thời gian 4 tuần, Toà án phải hoàn tất những thủ tục cần thiết để
đưa ra xét xử. Ở Nhật Bản không có thủ tục riêng cho việc truy tố và xét xử
người chưa thành niên. Theo Luật người chưa thành niên, thì công tố viên
không có quyền tham gia xét xử tại các Toà án gia đình. Tuy nhiên, thẩm
phán có thể cho phép công tố viên tham dự và khi cần thiết có thể yêu cầu
công tố viên tiến hành điều tra thêm.
Luật người chưa thành niên của Nhật Bản cho phép người chưa thành
niên khi bị đưa ra xét xử tại Toà án gia đình được có một hoặc hai người đại
diện. Người đại diện không phải là luật sư bào chữa như trong phiên toà xét
xử người đã thành niên. Người đại diện này không nhất thiết phải là luật sư,
có thể là giáo viên hoặc người làm công tác xã hội ... Luật không quy định chi
tiết các bước tiếp theo cần tiến hành như thế nào mà chỉ đưa ra chung chung
rằng Toà án gia đình phải tiến hành xét xử trên cơ sở "chân tình, có lợi" cho
người chưa thành niên và "cần có mọi cố gắng để bảo vệ cho được những



16
thuộc tính cao đẹp nhất của người chưa thành niên và để cho người chưa
thành niên có niềm tin" và việc xét xử cần tiến hành công khai.
Ở Hà Lan, lịch sử phát triển của chế tài áp dụng đối với người chưa
thành niên trong Luật hình sự đã góp phần tích cực vào việc hoàn thiện ngành
luật hình sự của Hà Lan. Từ những yêu cầu thực tế của các cơ quan chức
năng, cùng với những biến đổi của xã hội, việc nghiên cứu để tìm ra những
chế tài thay thế là quan trọng và cần thiết. Khi người chưa thành niên phạm
tội, người ta cân nhắc và áp dụng các chế tài thay thế, chỉ được phép tiến hành
theo thủ tục tố tụng hình sự khi không còn cơ hội nào để có thể áp dụng chế
tài thay thế. Trong vòng 10 năm qua, chế tài thay thế đã được áp dụng thường
xuyên hơn đối với những vụ việc liên quan tới người chưa thành niên. Các
chế tài thay thế áp dụng đối với người chưa thành niên không chỉ thay thế
hình phạt tù mà còn thay thế cả những hình phạt truyền thống đang tồn tại
như hình phạt tiền hay án treo. Có hai loại chế tài thay thế khác nhau được áp
dụng với người chưa thành niên, đó là các dự án công tác (dịch vụ của cộng
đồng đối với người chưa thành niên) và các dự án đào tạo. Mục tiêu chung
của các chế tài thay thế là tăng cường hệ thống giáo dục và hệ thống quản lý
xét xử người chưa thành niên mà hệ thống này sẽ giúp cho các em hạn chế
được tái phạm. Một mặt các chế tài thay thế hạn chế được việc áp dụng những
chế tài truyền thống, bởi lẽ, việc bỏ tù hay tống giam không đem lại sự thay
đổi hành vi của các em theo hướng tốt nếu không muốn nói là có tác động
ngược lại do sự tách biệt tạm thời môi trường tốt của gia đình, nhà trường và
xã hội. Mặt khác, chế tài thay thế còn góp một phần tích cực vào hệ thống
giáo dục cải tạo đối với người chưa thành niên bởi những nguyên tắc cụ thể
đã được chú trọng tới trong quá trình giáo dục cải tạo của từng đối tượng vi
phạm. Chính bản thân các em, về nguyên tắc phải chịu trách nhiệm cá nhân
đối với những hành vi của mình và cũng chính các em phải thực hiện những



17
nhiệm vụ cụ thể đem lại lợi ích không chỉ cho riêng mình mà còn mang lại lợi
ích cho người khác. Các thủ tục hình sự chỉ được phép tiến hành áp dụng khi
không còn cơ hội nào để có thể áp dụng chế tài thay thế. Các chế tài thay thế
có thể áp dụng thay thế cho tất cả các loại tội phạm do người chưa thành niên
gây ra... và có thể áp dụng với bất cứ đối tượng người chưa thành niên nào vi
phạm (từ vi phạm lần đầu hay tái phạm cho đến tội phạm là nam hay nữ...).
Như vậy có thể thấy rằng, ở mỗi quốc gia, tuỳ thuộc vào sự phát triển
kinh tế - xã hội, lịch sử lập pháp, truyền thống và các yếu tố về tâm - sinh lý
của con người, cũng như về tình hình phạm tội và yêu cầu tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật cho người chưa thành niên, yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm ở người chưa thành niên mà có những quy định về độ tuổi,
mức độ chịu trách nhiệm hình sự, thủ tục, cách thức xử lý hành vi phạm tội...
của người chưa thành niên khác nhau. Song không thể phủ nhận một điều, đó
là mục đích xem xét, xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên nhằm
tạo điều kiện tốt nhất để các em sửa chữa sai lầm, phấn đấu trở thành người
có đức, có tài giúp ích cho xã hội. Pháp luật của các nước đều hướng tới bảo
vệ quyền con người của người chưa thành niên từ mọi góc độ.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Pháp luật và giáo dục pháp luật
Pháp luật: là hệ thống các quy phạm (quy tắc hành vi hay xử sự) có tính
chất bắt buộc chung và được thực hiện lâu dài, nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí nhà nước và được
nhà nước bảo đảm thực hiện bằng bộ máy thông qua các biện pháp tổ chức,
giáo dục, thuyết phục.
Giáo dục pháp luật: là hoạt động có mục đích, có hệ thống và có định
hướng của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và đoàn tập thể để hình
thành, nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý cho mọi công dân.



18
1.2.2. Công tác và công tác quản lý giáo dục pháp luật
Công tác: là những công việc từ khi được cơ quan, đơn vị, tổ chức phân
công hay tiếp nhận đến khi giải quyết xong công việc và báo cáo kết quả thực
hiện với cấp có thẩm quyền.
Công tác quản lý giáo dục pháp luật: là những công việc thuộc thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các đoàn thể tác động
lên các tổ chức, đơn vị, cá nhân để hình thành, nâng cao ý thức pháp luật và
văn hóa pháp lý.
1.2.3. Quản lý và quản lý công tác giáo dục pháp luật
Quản lý: là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý
lên đối tượng và khách thể quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn
lực, các thời cơ của tổ chức để đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường
luôn biến động.
Quản lý công tác giáo dục pháp luật: là thông qua kế hoạch, chỉ đạo, tổ
chức, kiểm tra trách nhiệm của cá nhân hoặc tổ chức có liên quan đến công
tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật, nhằm nâng cao nhận thức ở
mỗi người sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
1.2.4. Giải pháp và giải pháp quản lý công tác giáo dục pháp luật
Giải pháp: là nội dung, hình thức thực hiện mang lại hiệu quả, đáp ứng
theo sự chỉ đạo của cấp trên, đạt mục tiêu đã đề ra.
Giải pháp quản lý công tác giáo dục pháp luật: Là nội dung, hình thức
thực hiện quyền hành pháp bằng chính sách pháp luật của nhà nước đối với
các quá trình xã hội và hành vi của công dân do các cơ quan pháp luật từ
trung ương đến các địa phương tiến hành, nhằm thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, tạo sự ổn định về an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội.



19
1.2.5. Học sinh trung học cơ sở
1.2.5.1. Nhu cầu thích nghi với môi trường học tập
Ở cấp hai không giống như cấp tiểu học, các em tiếp xúc với nhiều thầy
cô giáo, với nhiều môn học, tiếp xúc với nhiều nguồn kiến thức khác nhau,
nhiều phương pháp dạy khác nhau. Trong khi mỗi thầy cô có một phương
pháp giảng dạy khác nhau và có cách khen chê cũng khác nhau, nếu không
kịp thích nghi với các thầy cô giáo thì dễ thấy chán nản. Khi cô giáo khen chê
đúng lúc, kịp thời và sâu sát, học sinh thấy mình được quan tâm, muốn cố
gắng để tỏ lòng biết ơn cô giáo. Thậm chí, nhiều em khi không hiểu bài đã
chủ động hỏi cô thầy, nhờ cô thầy ôn lại những phần đã học, như vậy trẻ sẽ
hiểu sâu hơn, nhớ lâu hơn bài học của mình.
Nhưng nhiều thầy cô lại dùng hình thức kỷ luật như không cho học giờ
tiếp theo, chép lại bài cũ nhiều lần cho nhớ. Vậy là bài mới không thuộc, bài
cũ cũng không xong, kiến thức như một chuỗi mắt xích, liên quan đến nhau,
khi trẻ không học thuộc bài này, hổng luôn bài tiếp thì trẻ làm sao tiếp thu hết
chương trình, kết quả là trẻ sợ và không muốn đến lớp. Trẻ khó thích nghi với
các phương pháp và cách ứng xử của thầy cô giáo, đặc biệt là với lỗi giống
nhau nhưng mỗi thầy cô lại xử phạt một cách khác nhau, nên trẻ thường so
sánh và hoang mang vì không biết ứng phó như thế nào cho phù hợp, từ đó sẽ
phát sinh tâm lý muốn học môn này mà lại ghét môn kia. Vì vậy, trẻ sẽ bị rơi
vào tình trạng học lệch.
Mỗi thầy cô giáo phải thật sự hiểu, đồng cảm và chia xẻ với tâm lý, với
những khó khăn của các em, cùng phối hợp với phụ huynh hỗ trợ các em giữ
được cân bằng trong học tập. Phụ huynh thường xuyên liên lạc với cô chủ
nhiệm để biết tình hình học tập và sinh hoạt của con mình. Cô giáo lắng nghe
từ phụ huynh những kiến nghị, cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm để sớm
tạo cho học sinh một tinh thần học tập tốt. Một số phụ huynh không trực tiếp



20
gặp cô giáo vì ngại ngần hoặc không thực sự tự tin với những thông tin từ con
mình thì có thể thông qua hội phụ huynh học sinh để trao đổi, chia sẻ và đưa
ra các giải pháp, điều chỉnh cho phù hợp, góp phần tạo môi trường học tập
thân thiện cho các em yên tâm với việc học của mình.
1.2.5.2. Nhu cầu được tôn trọng ở gia đình
Vì sao học sinh cấp hai không muốn bố mẹ để mắt nhiều? Theo các nhà
tâm lý, thiếu niên từ 12 đến 15 tuổi bắt đầu bước vào thời kỳ thanh xuân bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển tâm lý, bước đột biến trong sự phát
triển tâm lý và thể chất (nhân tố chủ quan) cũng như vào ngưỡng cửa mới của
xã hội (nhân tố khách quan) làm tăng cường sự tự ý thức của học sinh cấp hai.
Học sinh tiểu học rất nghe lời bố mẹ, nhưng khi qua ngưỡng trung học
thay đổi hẳn. Trước mặt bố mẹ các em ít nói, trầm lặng, càng ngày càng
cưỡng lại sự sắp đặt của bố mẹ về học tập, ăn uống, quần áo, bạn bè,... đôi khi
còn cãi lại vì những chuyện không đâu.
Một mặt, các em bắt đầu đòi hỏi thoát khỏi sự giám sát của bố mẹ và có
được địa vị bình đẳng trong gia đình. Từ đó, các em ít kể với bố mẹ những bí
mật của riêng mình, đồng thời cố tạo ra một thế giới nhỏ bé, trừ mình ra
không ai có quyền đột nhập. Chẳng hạn, có một ngăn tủ riêng, để tất cả bí mật
vào đó rồi khóa lại như nhật ký, thư từ của bạn bè, tự sáng tác thơ ca... không
cho bố mẹ đọc.
Muốn qua giai đoạn này thuận lợi, giữa cha mẹ và con cái cần có sự
thông cảm, hiểu biết, giúp đỡ nhau, cả hai phải cố gắng làm biến đổi dần quan
hệ phụ thuộc. Học sinh cấp hai chưa thật chín chắn về sinh lý và tâm lý, trên
một mức độ nhất định vẫn phải dựa vào bố mẹ, mong được bố mẹ hiểu cho sự
tự ý thức và lòng tự trọng của các em. Ngược lại, các em cần hiểu lòng cha
mẹ, đôi khi cha mẹ dùng phương pháp giáo dục và quản lý không thích hợp,
song thâm tâm rất tốt. Vì vậy con cái không nên cãi lại, dùng ngôn từ làm tổn



21
thương tình cảm giữa cha mẹ - con cái, chỉ khi làm tròn sự thôi bú về tâm lý
với cha mẹ, thiếu niên mới trở thành một con người thực sự, vững bước đi
vào xã hội và trụ vững trong xã hội.
1.2.5.3. Nhu cầu thiết lập các mối quan hệ ngoài xã hội
Ở lứa tuổi này, các em bắt đầu bước ra khỏi khuôn khổ gia đình, đi vào
xã hội, nếm trải giao tiếp với mọi người với tư cách một cá thể tồn tại độc lập.
Các nhà tâm lý học phát hiện khá đông học sinh cấp hai đi học bằng xe đạp,
trong đó nhiều em nhà cách trường không xa nhưng vẫn đòi mua xe, đó là
biểu hiện của sự tăng cường ý thức tự lập của các em. Dù ở nhà hay ngoài xã
hội, các em đều mong muốn và cố rèn luyện, phát triển bản thân theo ý riêng,
muốn tự mình xác định mục tiêu và kế hoạch cuộc đời, dùng lý trí phán đoán
của mình xem xét mọi sự việc, không muốn có sự can thiệp của bất cứ ai, kể
cả bố mẹ, nếu không các em sẽ tỏ thái độ phản kháng bằng các hình thức lì
lợm, lạnh nhạt, lầu bầu...
Sự phát triển của tự ý thức đòi hỏi các em thoát khỏi sự ràng buộc của
mối quan hệ phụ thuộc trước kia, khỏi sự giám sát từng ly từng tý của bố mẹ,
trở thành cá thể độc lập, được các nhà tâm lý gọi là thời kỳ thôi bú về tâm lý.
Giai đoạn này diễn ra từ từ, không thể tránh khỏi, nóng vội quá hoặc kéo dài
quá cũng bất lợi. Nếu quá nóng vội làm thiếu niên phải đối mặt quá nhiều và
quá sớm những vấn đề em không thể giải quyết nổi, kết cục làm các em hoang
mang, mất tự tin, không có lợi khi bước vào cuộc sống và xã hội, nếu kéo dài
quá lâu sẽ vi phạm quy luật phát triển của sự sống, trở ngại cho thiếu niên
trong cuộc sống tự lập sau này.
1.3. Một số vấn đề về công tác giáo dục pháp luật cho học sinh Trung học
cơ sở
1.3.1. Mục tiêu công tác giáo dục pháp luật
Tuyên truyền giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong hoạt động thực
hiện pháp luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào đời sống xã hội. Liên hệ



×