Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Chương 8. Việc giảng dạy và chỉ đạo học sinh họctập của giáo viên Địa lí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.71 KB, 11 trang )

Chương VIII
VIỆC GIẢNG DẠY VÀ CHỈ ĐẠO HỌC SINH HỌC TẬP CỦA GIÁO VIÊN ĐỊA LÍ
I. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ CHO VIỆC GIẢNG DẠY CỦA GIÁO VÊN ĐỊA LÍ
1. Kế hoạch dạy học toàn năm
Với nhiệm vụ giảng dạy của giáo viên, một trong những công việc có ảnh hưởng đến chất lượng dạy học
trong năm là sự chuẩn bị chú đáo ngay từ đầu năm học kế hoạch dạy học cho toàn năm.
Việc xây dựng kế hoạch dạy học cho cả năm học tưởng chừng là một công việc đơn giản, nhưng thực ra đó
là một công việc vô cùng khó khăn và phức tạp. Có thể gọi là chiến lược mà người giáo viên phải đầu tư, tập
trung suy nghĩ để có thể vạch ra ngay từ đầu năm học.
Để việc lập kế hoạch được hợp lí giáo viên cần nghiên cứu kĩ chương trình, sách giáo khoa, nắm toàn bộ
nội dung kiến thức và kĩ năng, kĩ xảo địa lí cần phải dạy trong suốt năm học.
Vì số tiết dành cho môn Địa lí ở trường phổ thông không nhiều nên để tiết kiệm thời gian, chương trình
Địa lí giữa cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông được nối tiếp nhau rất chặt chẽ. Nếu giáo viên
không nắm được tinh thần cũng như nội dung của toàn bộ chương trình thì trong quá trình dạy học sẽ xảy ra
các hiện tượng trùng lập kiến thức, làm lãng phí thời gian hoặc còn để sót những kiến thức cần thiết.
Việc lập kế hoạch dạy học cả năm bao gồm các bước sau:
+ Nghiên cứu chương trình và sách giáo khoa Địa lí của lớp sẽ dạy để nắm vững mục đích, yêu cầu và
thông qua đó nắm được hệ thống kiến thức, kĩ năng, xác định được vị trí của giáo trình mình phụ trách trong
toàn bộ chương trình môn học.
+ Nghiên cứu bảng phân bố thời gian và chỉ thị hướng dẫn thực hiện chương trình của Bộ để chủ động về
thời gian tiến hành dạy học trên lớp.
+ Nghiên cứu kĩ nội dung Địa lí cần dạy trong năm để xác định trọng tâm, trọng điểm, những kiến thức, kĩ
năng cơ bản, những khái niệm chủ yếu, số lượng địa danh của mỗi chương, mỗi bài (có tính đến mức độ và
sức tiếp thu của học sinh và đúng với tinh thần của chương trình).
Việc nghiên cứu nội dung sách giáo khoa giúp cho giáo viên thấy rõ mối liên hệ qua lại giữa môn Địa lí và
các môn học khác, nghĩa là các mối liên hệ môn (Địa lí với Toán học, Sinh học, Vật lí, Hoá học, Lịch sử
v.v…).
+ Xác định những kĩ năng cần rèn luyện, bổ sung cho học sinh trong các chương, mục và trong từng bài.Ví
dụ: kĩ năng sử dụng bản đồ (những kiến thức và kĩ năng bản đồ không được dạy thành bài riêng mà chỉ dạy
trong quá trình dạy kiến thức địa lí).
+ Dự kiến trước các phương tiện dạy học (thiết bị, tài liệu, bản đồ và các phương tiện dạy học khác) cần


thiết cho mỗi bài hoặc có biện pháp khắc phục nếu cơ sở vật chất nhà trường còn thiếu.
+ Xác định phương pháp và nội dung giáo dục thích hợp với nội dung của các chương, mục, các bài (thí
dụ: phương pháp hình thành thế giới quan, giáo dục dân số, giáo dục bảo vệ môi trường v.v…). Đương


nhiên, việc giáo dục những vấn đề đó phải xuất phát từ nội dung khoa học của bộ môn, tránh gò bó, gượng
ép.
Nội dung kế hoạch dạy học cả năm, từng học kì, từng chương được xây dựng thành bảng với các cột chính
như sau:
Học kì

1

Chương

2

Tên bài

Thời gian

3

4

Kiến thức cơ bản

Những địa

Những kĩ


Phương

(những khái niệm

danh cần

năng cần

tiện, thiết

chính) cần truyền đạt
5

ghi nhớ
6

hình thành
7

bị dạy học
8

2. Kế hoạch dạy học từng bài (giáo án hay bài soạn)
Dựa vào kế hoạch toàn năm, giáo viên có nhiệm vụ lập kế hoạch cho từng bài dạy (giáo án) trong suốt năm
học.
- Số giáo án nhiều hay ít tuỳ theo chương trình của từng lớp. Giáo án là kế hoạch làm việc của thầy và trò
trong suốt tiết học theo mục đích và những yêu cầu đã định sẵn. Giáo án đó góp phần lớn vào hiệu quả của
bài lên lớp. Tất nhiên, từ giáo án (tức là kế hoạch viết trên giấy) của bài dạy đến kết quả lĩnh hội và sự phát
triển của học sinh còn phụ thuộc vào phương pháp dạy học, vào các phương tiện, vào kinh nghiệmcủa giáo

viên ở trên lớp v.v…Tuy nhiên, giáo án của bài dạy trước hết phải quán triệt được tinh thần cơ bản chung
của chương trình, phải nhất quán với bản kế hoạch toàn năm, phân bố cho từng học kì và từng chương.
Việc xây dựng cấu trúc bài lên lớp, một mặt gắn liền với sự phân chia các mục đích chung (M) và nội dung
toàn bộ (N), thành những mục đích từng phần (M 1, M2, M3 v.v…) và nội dung từng phần (N1, N2, N3.v.v…)
ứng với các đơn vị kiến thức. Mặt khác, việc lựa chọn các hình thức, phương pháp dạy học (PP) và các
phương tiện dạy học (PT) v.v…cũng tạo điều kiện cho học sinh lĩnh hội các đơn vị kiến thức đó một cách
thuận lợi. Ta có thể minh hoạ mối quan hệ đó bằng sơ đồ sau:
M1 
M2 

N1
N2


… 
Mn 

 PP1 + PT1
 PP1 + PT1
…

Nn

 PPn + PTn

M1: Mục đích của đơn vị kiến thức 1.
N1: Nội dung của đơn vị kiến thức 1.
PP1: Phương pháp sử dụng nhằm đạt đơn vị kiến thức 1.
PT1: Phương tiện dạy học nhằm đạt đơn vị kiến thức 1.
Cấu trúc của giáo án lên lớp phải thể hiện được mối quan hệ M- N- PT như đã trình bài trong sơ đồ trên

theo cả chiều ngang lẫn chiều dọc, nghĩa là trong giáo án phải thể hiện rõ mối quan hệ M- N- PP- PT của
từng đơn vị kiến thức (chiều ngang) và lôgic của quá trình dạy học bao gồm hệ thống các mục đích dạy học


cụ thể (cột dọc M1 – M1...Mn); lôgic phát triển của nội dung trí dục (cột dọc N 1 – N2...Nn) và hệ thống các
phương pháp (PP1 – PP2...PPn), các hình thức, phương tiện dạy học (PT1 – PT2...).
Ở đây có thể kết luận: Lôgic của nội dung trí dục là sự hội tụ những đặc điểm cơ bản của cả mục đích lẫn
phương pháp, nên nó giữ vai trò chủ chốt của lôgic phát triển tbộ bài học. Nó là trụ cột của giáo án bài học.
Vì thế, quá trình lập kế hoạch cho một bài học bao gồm các bước chính sau đây:
+ Xác định mục đích, yêu cầu của bài học.
(Yêu cầu về giáo dục, về lí luận dạy học và yêu cầu của môn học).
Xác định mục đích, yêu cầu bài học (dựa vào sách giáo khoa và sách hướng dẫn giáo viên) là bước đầu tiên
và hết sức quan trọng vì mỗi bài học là một khâu của nội dung dạy học. Định được mục đích, yêu cầu của
từng bài một cách chính xác, thì mới thực hiện tốt mục đích, yêu cầu của mỗi chương và của toàn bộ
chương trình của một lớp. Và như vậy, môn học mới góp phần thực hiện một cách có hiệu quả mục tiêu đào
tạo trong nhà trường phổ thông. Xác định mục đích, yêu cầu của bài học còn xuất phát từ kiến thức khoa
học, kĩ năng, kĩ xảo của bộ môn và thông qua đó phát triển cho học sinh năng lực nhận thức. Như vậy, mục
đích, yêu cầu của một bài học bao gồm ba mặt: kiến thức, kĩ năng và nhận thức hay nói rõ hơn là mức độ
nắm kiến thức, kĩ năng và phát triển tư duy.
Mục đích, yêu cầu của bài lên lớp càng được xác định một cách cụ thể thì càng tạo điều kiện dễ dàng cho
việc tìm ra con đường tối ưu, để đi đến kết quả.
Ví dụ: Đối với bài: ”Vị trí và lãnh thổ Việt Nam” trong chương trình Địa lí tự nhiên Việt Nam, có thể xác
định mục đích, yêu cầu là:
- Về kiến thức: cho học sinh biết nước ta nằm trên bán đảo Đông Dương, ở trung tâm khu vực Đông Nam
Á, có vùng thềm lục địa và lãnh hải rộng lớn.
- Về kĩ năng: biết xác định trên bản đồ vị trí địa lí, đường biên giới trên đất liền và trên biển của nước ta.
- Về phát triển tư duy: nhận thức rõ vai trò và ưu thế của vị trí nước ta thông qua việc so sánh và phân tích
các mối quan hệ về các mặt giữa nước ta với các nước trong khu vực.
+ Xác định nội dung của bài học
Căn cứ vào bài viết trong sách giáo khoa Địa lí, giáo viên xác định các trọng tâm của bài, phân tích những

kiến thức nào là cơ bản cần cho học sinh nắm vững ở lớp, những nội dung nào có thể hướng dẫn học sinh tự
nghiên cứu ở nhà v.v...
Công việc tiếp theo là thu thập những tài liệu cần thiết phục vụ cho việc bổ sung, làm sáng tỏ những phần
trọng tâm.
Tài liệu lựa chọn và đưa ra chỉ ở mức độ cần thiết, đủ cho học sinh nắm được phần kiến thức cơ bản, trọng
tâm không nên tham lam làm phương hại đến kết quả lĩnh hội của học sinh.
+ Lựa chọn hình thức và phương pháp dạy học


Xác định nội dung của bài học là một việc nhưng biến nội dung đó thành tri thức của bản thân học sinh lại
là một nghệ thuật phụ thuộc rất nhiều vào giáo viên. Giáo viên cần lựa chọn hình thức tổ chức và phương
pháp dạy học thích hợp nhất để làm cho học sinh lĩnh hội được kiến thức một cách sâu sắc và vững chắc.
Thực ra, không có phương pháp nào là vạn năng. Trong một bài thường phải kết hợp nhiều phương pháp.
Chẳng hạn: để làm cho học sinh nắm được kiến thức mới, giáo viên có thể sử dụng các phương pháp truyền
thống như dùng lời hoặc sử dụng các phương pháp cho học sinh phân tích số liệu, khai thác bản đô để giúp
học sinh lĩnh hội kiến thức v.v...
Vì thế, trong giáo án cần chuẩn bị trước ở đoạn nào thì nên dùng phương pháp nào? Cũng cần định trước
những câu hỏi nào cần gợi ý, những ý nào cần nhấn mạnh và phát triển, chỗ nào cần hướng dẫn học sinh
khai thác bản đồ, chỗ nào cần ghi bảng v.v...
Nói tóm lại, giáo viên phải hình dung được trước trong quá trình dạy học toàn bộ các tình huống diễn ra
trên lớp trong mối quan hệ tương tác giữa thầy với trò. Kèm theo đó là việc xác định những phương tiện,
thiết bị dạy học tương ứng.
Do đó, trong giáo án cần ghi rõ những phương tiện, thiết bị dạy học cần thiết: phương tiện được sử dụng
vào lúc nào, dùng như thế nào? v.v...Ngoài ra, tương ứng với các bước lên lớp cần phân phối trước thời gian
tiến hành. Chẳng hạn: tổ chức lớp ở đầu tiết học: 2 phút, tiến hành dạy bài mới: 30 phút, vận hành kiến thức
vào bài tập: 10 phút, hướng dẫn học sinh tiếp tục hoàn thiện tiết học ở nhà: 3 phút v.v...
3. Quy trình chuẩn bị một tiết học Địa lí
Những vấn đề cơ bản được trình bày ở trên có thể sắp xếp thành một quy trình hợp lí chuẩn bị cho một tiết
học. Quy trình đó gồm các công việc sau:
+ Việc 1: Truớc hết, giáo viên cần tìm hiểu nội dung bài dạy trong sách giáo khoa. Dựa vào sách giáo khoa

Địa lí ở phổ thông, sách hướng dẫn giảng dạy và các tài liệu tham khảo khác, giáo viên tìm câu trả lời cho
các vấn đề sau:
- Bài học đề cập đến nội dung vấn đề nào? (một hiện tượng, một khái niệm hay một định luật, một thuyết
địa lí v.v...
- Vị trí của bài học và mối quan hệ của nó với các bài học khác trong chương trình, với chương đang học
và với các bài trước, bài sau. Cần chú ý rằng nếu bài học có quan hệ càng nhiều với các bài khác trong
chương trình thì tính cơ bản của nó càng cao.
Như vậy, công việc này giúp giáo viên nắm được những hiểu biết đầy đủ về bài học, thấy được lôgic khoa
học, nắm được tác dụng về mặt học vấn và giáo dục của nó trong việc thực hiện mục đích dạy học.
+ Việc 2: Sau khi hiểu biết đầy đủ về các tài liệu, giáo viên phân chia tài liệu thành các ”đơn vị kiến thức”
và kĩ năng, sắp xếp chúng theo một trình tự lôgic chặt chẽ, phù hợp với lôgic của nội dung khoa học của bài
và đặc điểm lĩnh hội tri thức của học sinh.
Muốn cho đa số học sinh có thể lĩnh hội được nội dung học vấn, cần xác định rõ những kiến thức và kĩ
năng cần thiết phải tái hiện, để nắm kiến thức và kĩ năng mới.


+ Việc 3: Sau khi xác định được nội dung học vấn và hệ thống phương pháp, phương tiện dạy học, giáo
viên cần thể hiện những ý đồ đó thành giáo án vì giáo án là kế hoạch hành động cụ thể của thầy và trò nhằm
đạt tới mục đích dạy học đề ra.
Trong giáo án, phải dự kiến toàn bộ diễn biến của lớp học trong qúa trình hoạt động của thầy và trò.
4. Giáo án Địa lí
Giáo án không chỉ cần thiết cho những bài nắm kiến thức và kĩ năng mới, vận dụng kiến thức và kĩ năng,
khái quát hoá và hệ thống hoá v.v...mà còn cần cho các loại bài như thực hành trên lớp, ngoài thực địa v.v...
Tuỳ theo hình thức tổ chức dạy học, tuỳ theo nội dung từng bài mà giáo án phải soạn sao cho phù hợp.
Nói chung, giáo án là bản thiết kế các công việc sẽ diễn ra giữa thầy và trò ở trên lớp, trong thời gian một
tiết học. Nó cũng là văn bản thể hiện một cách cụ thể những điều suy nghĩ, những dự định của giáo viên khi
chuẩn bị bài.
Giáo án, thực ra chỉ có giá trị và ý nghĩa quan trong đối với bản thân người giáo viên. Khi lên lớp, với giáo
án để trên bàn, giáo viên có thể yên tâm tiến hành những công việc dự định theo trình tự mà không sở quên
hay thiếu sót. Tuy nhiên, không loại trừ những tình huống bất ngờ có thể xảy ra, không đúng với những đều

đã ghi trong giáo án. Trong trường hợp này, giáo viên bắt buộc phải sử dụng kinh nghiệm của bản thân để
giải quyết một cách linh hoạt và khéo léo, hướng quá trình dạy học đi vào những mục tiêu đã định. Để giải
quyết trường hợp đó, nhiều khi giáo viên phải thay đổi cả phương pháp dạy học.
Chính vì thế, việc soạn giáo án có nhiều mức độ khác nhau. Điều đó tuỳ thuộc vào năng lực và kinh
nghiệm riêng của từng giáo vên. Rõ ràng là đối với nhựng giáo viên mới vào nghề thì việc chuẩn bị giáo án
càng kĩ, càng chu đáo càng tốt. Đối với các giáo viên có kinh nghiệm và đã dạy lâu năm thì giáo án có thể
sơ lược hơn (chẳng hạn: không phải ghi lại nội dung chi tiết của những kiến thức cần phải dạy...,) nhưng vẫn
phải đảm bảo được việc nêu trình tự của những hoạt động tương ttác giữa thầy và trò để hoan thành các mục
tiêu của vài học.
Hiện nay, để đảm bảo công tác quản lí chuyên môn, các trường đều yêu cầu giáo viên phải có giáo viết khi
lên lớp. Mẫu giáo án không cố định nhưng thường có cac1 mục sau: tên bài, ngày dạy, lớp, mục đích, yêu
cầu của bài, hoạt động của thầy và trò tương ứng với các đề mục chính của bài.
Theo kinh nghiệm của nhiều giáo viên thì mẫu của một giáo án có thể như sau:
- Tên bài...lớp...
- Giáo án số ...thuần thứ...
- Múc đích – yêu cầu của bài.
+ Về kiến thức:
+ Về kĩ năng:
+ Về phát triển tư duy:
Đề mục

Thời gian

Hoạt động của giáo viên

Hoạt động của học sinh


- Trong phần đề mục và thời gian của tiết học (hay còn gọi là cấu trúc của tiết học) giáo viên cần vận dụng
linh hoạt các bước lên lớp cùng với nội dung của bài. Nội dung của bài có thể theo trình tự các mục đã được

sắp xếp trong sách giáo khoa hoặc có thể cấu tạo lại (chia nhỏ hoặc gộp các mục lại với nhau), nhưng vẫn
phải bảo đảm tính khoa học và tình lôgic của bài.
- Nội dung, phương pháp giảng dạy và cách tổ chức công việc dạy học của giáo viên và học sinh là khâu
trung tâm của giáo án. Ở phần này cần ghi rõ hoạt động của giáo viên và hoạt động của học sinh (đặc biệt là
hoạt động nhận thức), mối quan hệ giữa hoạt động của giáo viên và học sinh (qua việc giáo viên đặt câu hỏi,
kích thích học sinh tìm câu trả lời hướng dẫn học sinh khai thác các phương tiện hoạt động (bản đồ, biểu đồ
v.v...) cũng như các câu tiểu kết, các câu hỏi và bài tập kiểm tra v.v...
Giáo án phải ghi cụ thể công việc của giáo viên như: nội dung tài liệu sẽ trình bày ở từng mục, các phương
tiện - thiết bị cần sử dụng ở từng đoạn, nội dung các câu hỏi (hoặc hệ thống câu hỏi gợi mở, thảo luận), các
bài tập nhận thức (nếu có) và các phương pháp sử dụng khi trình bày đề mục đó (ví dụ như: sử dụng phương
pháp đàm thoại ở nội dung A, sử dụng phương pháp khai thác bản đồ ở nội dung B v.v...). Trong giáo án,
cũng cần ghi các vấn đề cần hỏi học sinh, vấn đề gì cần để học sinh tranh luận hoặc cách gợi ý, hướng dẫn
học sinh tìm câu trả lời, động viên, đánh giá học sinh khi phát biểu, định thời gian kiểm tra nhận thức ở cuối
giờ (vấn đáp hay vấn viết, nội dung các câu hỏi kiểm tra...).
Nếu giáo án ghi được cụ thể các công việc thì khi tiến hành bài học giáo viên sẽ không bị động, tiết kiệm
được thời gian và tránh được những hoạt động thừa (ví dụ: lúng túng vì câu hỏi nêu ra không rõ ràng hoặc
chưa chuẩn bị được câu trả lời khi học sinh thắc mắc v.v...).
Hoạt động của học sinh thể hiện ở chỗ: phần nào cần ghi chép, phần nào cần phải huy động năng lực nhận
thức để tìm ý, trả lời các câu hỏi của giáo viên, nhận xét câu trả lời của bạn để lĩnh hội kiến thức một cách
tích cực. Ngoài ra, cũng cần ghi nội dung nào học sinh phải làm bài tập, bài thực hành v.v...
Giáo án tốt được xem xét không phải chỉ là phần soạn mà cả phần đánh giá sau khi bài học được tiến hành.
Nhìn chung, giáo án tốt phải đạt được những yêu cầu chủ yếu sau đây:
- Phản ánh được nội dung cơ bản của bài, của chương trình, của sách giáo khoa và phù hợp với trình độ
học sinh, bảo đảm tính khoa học, tính lôgic. Giáo án phải vận dụng được các phương pháp dạy học mới.
- Thể hiện được các điều kiện cụ thể của từng lớp, từng trường, từng vùng, từng địa phương.
- Tạo được điều kiện thuận lợi để giáo viên lên lớp đạt hiệu quả.
- Tạo được điều kiện cho học sinh phát triển tư duy tốt.
Hiện nay, với đà phát triển của Lí luận dạy học (nói chung) và Lí luận dạy học Địa lí (nói riêng), một số
cán bộ nghiên cứu và giảng dạy môn Địa lí đã đề xuất một số giáo án, trong đó giáo viên là người tổ chức,
chỉ đạo các hoạt động, học sinh tự khai thác tri thức với những phương pháp và hình thức linh hoạt, đa dạng

từ định hướng đến khâu kết luận, đánh giá như: Thiết kế bài giảng theo tiến trình tổ chức các hoạt động;
thiết kế bài giảng theo hướng coi học sinh là người tìm tòi, tự nghiên cứu; thiết kế bài giảng theo hình thức
thảo luận; thiết kế bài giảng có sử dụng các phương tiện về thiết bị kĩ thuật dạy học hiện đại (sử dụng băng


Video giáo khoa, sử dụng chương trình vi tính có nội dung địa lí phù hợp với nội dung bài giảng trong sách
giáo khoa) v.v...
Ví dụ: Cấu trúc cụ thể của giáo án một tiết học địa lí ”lấy học sinh làm trung tâm” theo tiến trình tổ chức
các hoạt động có thể như sau:
Bước
1
2

3

Nội dung
Ổn định lớp
Bài mới

Giáo viên

Học sinh

+ Nêu rõ vấn đề, mục đích.

1. Định

+ Con đường, phương thức, phương hướng dẫn.

hướng


tiện... để đạt mục đích.

+ Chuẩn bị tâm thế để được giáo viên
+ Nhận nhiệm vụ: hhiểu thấu đáo

+ Vật cản, cách xử lí...
2. Tiến hành Tổ chức các hoạt động

nhiệm vụ và cách thực hiện.
Hoạt động khai thác tri thức:

các hoạt

T1: Nghiên cứu cá nhân và trao đổi

Hoạt động 1:

động

với bạn.
Hoạt động 2:

T2: Thể hiện (trình bày vấn đề, hợp
tác với bạn theo nhóm, lớp...)

4

5


3. Kết luận

Hoạt động 3:......
+ Kết luận các vấn đề: tri thức, kỹ năng

T3: Tự điều chỉnh, tự đánh giá.
+ Đánh giá kết quả học tập

Đánh giá

+ Đánh giá kết quả tự học của học sinh

+ Hệ thống hoá các kiến thức

+ Hướng dẫn các hoạt động nối tiếp

+ Điều chỉnh kết quả học tập, kỹ năng
+ Tiếp nhận các hướng dẫn dễ thực

Hoạt động

nối tiếp
hiện, chuẩn bị cho bài học đến.
Quá trình tiến hành các hoạt động của học sinh tuỳ thuộc vào vấn đề, có thể theo các bước sau:
Từ T1 – nghiên cứu cá nhân đến T2 - thể hiện: trao đổi, hợp tác với bạn, báo cáo kết quả nghiên cứu cá
nhân, tập thể... đến T3 - tự điều chỉnh, đánh giá kết quả học tập ban đầu(sau khi có kết luận của lớp, của
giáo viên).
Về hình thức, tuy giáo án không nhất thiết phải có năm bước nhưng khi viết giáo án cần quan tâm thích
đáng đến ý nghĩa của các bước trong cấu trúc tiết học.
- Bước định hướng

Khác với cấu trúc của các tiết học truyền thống, khi vào bài mới, giáo viên chỉ giới thiệu sơ lược tên bài
học. Định hướng trong tiết học theo cấu trúc lấy học sinh làm trung tâm có tác dụng giúp học sinh hiểu rõ
những nội dung quan trọng cần khai thác, các kĩ năng cần đạt, các công việc cần phải làm với những
phương pháp nào, phương tiện gì...Tất cả các vấn đề trên đều có tác dụng chuẩn bị một tâm thế chủ động
cho học sinh trong việc khai thác các tri thức địa lí.
- Bước tổ chức các hoạt động của học sinh khai thác tri thức
Với tiết học lấy học sinh làm trung tâm, hoạt động dạy học của giáo viên không có nghĩa truyền thụ những
kiến thức có sẵn mà phải tổ chức, điều khiển hoạt động của từng học sinh để hình thành thái độ, năng lực,
phương pháp và ý chí học tập trong việc khai thác tri thức. Chính vì thế, việc xây dựng một tiến trình hợp lí


với các hình thức dạy học, phương pháp dạy học thích hợp với đặc điểm của lớp học là một công việc quan
trọng trong tiết học trên lớp.
- Bước kết luận, đánh giá
Kết luận của giáo viên trong tiết học không phải là việc cũng cố bài học mà là một sự công nhận về mặt
khoa học các kiến thức, các nội dung học vấn mà học sinh đã nghiên cứu. Qua kết luận của giáo viên, học
sinh sẽ tự đánh giá, điều chỉnh, hệ thống hoá các tri thức đã phát hiện được. Cuối cùng là công việc kiểm
tra, đánh giá kết quả quá trình tự học của học sinh.
- Bước hướng dẫn hoạt động tiếp theo
Đây là những hoạt động học tập, nghiên cứu của học sinh do giáo viên yêu cầu thực hiện để nâng cao kiến
thức, rèn luyện kĩ năng và chuẩn bị cho bài học mới.
Như vậy, xét về mặt cấu trúc của tiết học Địa lí mới thì nó đã có những chỗ khác biệt cơ bản, so với tiết
học theo phương pháp dạy học truyền thống. Sự khác biệt thể hiện rõ nét nhất trong các khâu từ định hướng,
tổ chức các hoạt động của học sinh khai thác tri thức đến khâu kết luận vấn đề, đánh giá hoạt động học tập
của học sinh. Song khi thực hiện cấu trúc giáo án trên cần chú ý tiến hành xác định nội dung kiến thức cho
từng hoạt động 1, 2, 3 v.v...Mối quan hệ giữa các hoạt động và nội dung kiến thức sẽ quyết định việc lựa
chọn phương pháp giảng dạy và các phương tiện thích hợp, có hiệu quả cao.
Ví dụ: Giáo án Địa lí lớp 12.
Chương 2: Những vấn đề phát triển kinh tế - xã hội
Tiết 5: Lao động và việc làm

1. Mục đích:
Giúp học sinh:
- Nắm được những mặt mạnh và hạn chế về chất lượng, về sự phân bố nguồn lao động nước ta.
- Hiểu được những vấn đề đang đặt ra đối với việc sử dụng lao động, phương hướng giải quyết vấn đề việc
làm ở nước ta hiện nay.
- Biết phân tích các vấn đề trên tại địa phương.
2. Những nội dung chính:
- Nguồn lao động nước ta hiện nay
- Sự phân bố lao động theo lãnh thổ, cơ cấu lao động theo ngành và thành phần kinh tế.
- Vấn đề việc làm: phương hướng và những giải pháp.
3. Tài liệu và phương tiện.
- Bản đồ hành chính Việt Nam.
- Các biểu đồ, bảng số liệu trong SGK.
- Các tài liệu: tỉ lệ lao động trong các ngành kinh tế theo thành phần kinh tế.
4. Tiến trình hoạt động.
Đề mục

Hoạt động của giáo viên

Hoạt động của học sinh


Định hướng:
Giáo viên nêu vắn tắt các ý: Việt Nam có lực lượng
lao động trẻ, dồi dào là nguồn lao động quý để phát
triển kinh tế xã hội. Đang có những vấn đề cần giải
quyết: sử dụng hợp lí nguồn lao động và giải quyết
việc làm. Thông báo mục tiêu, hướng nghiên cứu.
1. Nguồn lao động


Ghi bảng tên chương, bài, đề mục.
Hoạt động 1: (3phút)

Nghiên cứu SGK, ghi các

Phát phiếu học tập, yêu cầu học sinh nghiên cứu thông tin theo yêu cầu vào
2. Việc sử dụng lao

SGK, ghi vào phiếu cá nhân.
phiếu học tập.
Hoạt động 2: (5p + 5p) Nghiên cứu theo nhóm hai Nguyên cứu theo nhóm:

động

vấn đề:

(nhóm gồm hai bàn) hai

- Cơ cấu lao động

1- Cơ cấu lao động theo ngành.

vấn đề.

theo ngành.

2- Cơ cấu lao động theo khu vực kinh tế.

Tư liệu: sách giáo khoa,


- Cơ cấu lao động

+ Trả lời hai câu hỏi:

biểu đồ và số liệu thống kê

theo khu vực kinh tế.

1. Tại sao cơ cấu lao động theo ngành chậm chuyển trên phiếu học tập.
biến?

+ Cử đại diện nhóm báo

2. Yếu tố tạo nên sự thay đổi cơ cấu lao động theo cáo.
khu vực kinh tế?

+ Học sinh nghe báo cáo,

+ Chọn hai nhóm báo cáo: mỗi nhóm một vấn đề.

điều chỉnh kết qủa đã

3. Vấn đề việc làm.

+ Chất vấn của các nhóm khác.
nghiên cứu.
Hoạt động 3: (5p) Thảo luận theo nhóm (2bàn/nhóm) Thảo luận theo nhóm:

- Hiện trạng việc là


các vấn đề:

+ Nhóm 1, 3, 5: vấn đề 1

tại nông thôn.

+ 1. Hiện trạng việc làm tại nông thôn, các giải pháp.

+ Nhóm 2, 4, 6: vấn đề 2

- Hiện trạng việc làm + 2. Hiện trạng việc làm tại thành thị, các giải pháp.

Báo cáo kết quả.

tại thành thị.

Hoạt động 4: (5p) Cho một học sinh đóng vai Chủ Một vấn đề/nhóm

4. Giải pháp?

tịch Thành phố, hai học sinh đóng vai phóng viên. + Đóng vai:
Các phóng viên sẽ phỏng vấn ông Chủ tịch về các + Hai học sinh đóng vai

giải pháp sử dụng lao động tại địa phương.
Giáo viên tóm tắt các vấn đề, nhận xét, cho học sinh tự đánh giá. Có thể cho điểm một số học sinh đã có
thái độ tích cực trong học tập.
Hoạt động tiếp nối:
- HS vẽ biểu đồ theo các số liệu trang 23 (SGK Địa lí 12). Phân tích mối quan hệ trong vấn đề lao động tại
thành thị và nông thôn.
- Thủ tìm hiểu vấn đề lao động tại địa phương.

tự đánh giá kết quả đã nghiên cứu. Điều chỉnh, bổ xung các thông tin đã ghi trong phiếu học tập.


II. VIỆC CHỈ ĐẠO HỌC SINH HỌC TẬP ĐỊA LÍ
Công việc chỉ đạo học sinh học tập có tầm quan trọng đặc biệt. Dạy học không phải là truyền thụ kiến thức
có sẵn cho học sinh mà chú yếu là phát huy tích tích cực, độc lập, tự giác, để học sinh tự nắm vững hệ thống
kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, thông qua đó các em phát triển được năng lực nhận thức, hình thành được thế
giới quan khoa học.
Việc chỉ đạo học tập địa lí cho học sinh bao gồm việc chỉ đạo việc học tập trên lớp, ở nhà với mọi nguồn
tri thức (sách giáo khoa, sách tham khảo, báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng: truyền thành,
truyền hình…) và các cuộc tham quan, khảo sát thực địa…
Đối với bộ môn địa lí, trong quá trình học tập, học sinh cần được hướng dẫn các công việc sau:
1. Ghi bài, làm dàn bài
Dù đã có sách giáo khoa nhưng mỗi học sinh vẫn cần thiết phải có vở ghi bài. Giáo viên cần hướng dẫn
học sinh ngay từ đầu năm học: cách ghi bài, cách chuẩn bị bản đồ, bài tập để học ở trên lớp, cách làm dàn
bài hay đề cương khi học tập ở nhà v.v…
việc học tập tập của học sinh tự ghi bài trong giờ học có một ý nghĩa quan trọng, nó buộc học sinh phải chú
ý theo dõi hoạt động của giáo viên và ý kiến của các bạn, phân biệt những điều cần ghi và không cần ghi.
Nhìn chung, ghi bài không có nghĩa là ghi lại nội dung bài trong sách giáo khoa mà chủ yếu là ghi lại những
ý kiến hướng dẫn của giáo viên về cách khai thác tri thức, những hình vẽ, những kiến thức bổ sung của bài
học v.v…
Ở các lớp dưới, học sinh có thể ghi một sàn bài tóm tắt, để dựa vào đó khai thác những tri thức trong sách
giáo khoa. Ở các lớp trên, học sinh cần biết cách tự làm dàn bài, đề cương theo sách giáo khoa khi học ở
nhà. Có như vậy học sinh mới dần dần rèn luyện được năng lực tự làm việc với các tài liệu có lien quan đến
môn học.
2. Sử dụng sách giáo khoa
Sách giáo khoa là nguồn chính cung cấp những tri thức cho học sinh, vì vậy giáo viên cần hướng dẫn học
sinh khai thác sách giáo khoa một cách hợp lí và toàn diện.
Ngoài các bài trong sách giáo khoa Địa lí còn có nhiều hình vẽ, tranh ảnh, nhiều bản đồ, biểu đồ, đồ thị,
bảng phụ lục v.v…Giáo viên cần làm cho học sinh hiểu rõ ý nghĩa của từng loại hình thông tin này, biết rút

ra những nhận xét, kết luận bổ ung cho những tri thức trong bài. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh trả lời
các câu hỏi, giải các bài tập, thực hiện các bài thực hành, tra cứu và sử dụng các bảng số liệu, bảng giải
thích thuật ngữ, bảng mục lục v.v…Học sinh cần được hướng dẫn sử dụng sách ở trên lớp và nhất là biết
cách học theo sách, tự làm việc với sách.
3. Sử dụng và thu thập các tài kiệu tham khảo
Học sinh cần được hướng dẫn sử dụng một số sách, tài liệu đọc them (có loại bắt buộc, có loại không bắt
buộc). Việc tham khảo tài liệu, theo dõi báo chí, nghe đài phát thanh, xem truyền hình, xem các cuộc triển


lãm và thu thập tranh ảnh có lien quan đến địa lí phải dần trở thành thói quen, thành hứng thú và nhu cầu
của học sinh.
Nguồn thông tin ngoài sách giáo khoa sẽ giúp các em mở mang kiến thức, làm cho các em luôn luôn gắn
bài học với sự phát triển của khoa học Địa lí ở nước ta và trên thế giới.
Đối với môn Địa lí, giáo viên cần hướng dẫn cho các em làm sổ địa danh. Đó là một cuốn sổ tay ghi tên
các núi, các song, các thành phố với các đặc điểm về vị trí, về tự nhiên và kinh tế theo thức tự A, B, C v.v…
để thường xuyên tra cứu và ôn tập. Sự tích luỹ địa danh sẽ giúp cho các em học tập Địa lí hứng thú và có kết
quả hơn.

Câu hỏi thảo luận
1. Hãy trình bày tác dụng của việc đặt các kế hoạch dạy học. Anh (chị) có ý kiến gì về vấn đề này?
2. Hãy trình bày quy trình chuẩn bị cho một bài lên lớp.
3. Hãy trình bày nội dung công tác chỉ đạo học sinh học tập môn Địa lí của giáo viên. Lấy một vài ví dụ
minh hoạ.
4. Theo ý anh (chị), giáo viên nên hướng dẫn học sinh tham khảo sách như thế nào?



×