MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, toàn cầu hóa đang là xu thế tất yếu, khách quan và có tác động mạnh mẽ đến tất cả
các quốc gia. Toàn cầu hóa trở thành một chủ đề tranh luận sôi nổi trên các trang sách, báo, trên các
diễn đàn, hội thảo khoa học, hay các vòng đàm phán quốc tế, khu vực. Toàn cầu hóa có ảnh hưởng
đến toàn bộ các lĩnh vực của đời sống con người, nhưng đầu tiên và sâu sắc nhất là lĩnh vực kinh tế.
Giờ đây trong các chương trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, vấn đề toàn cầu hóa luôn được
đặt lên hàng đầu, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, bởi lẽ toàn cầu hóa bên cạnh việc tạo ra
những thuận lợi và cơ hội thì nó cũng đặt ra vô vàn những khó khăn, thách thức buộc các nước đang
phát triển phải tự tìm cách thích ứng.
Việt Nam không tránh khỏi ảnh hưởng của tác động toàn cầu hóa, đặc biệt toàn cầu hóa về lĩnh
vực kinh tế. Công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước tất yếu phải tiến hành trong tiến trình
hội nhập và dựa vào hội nhập để phát triển.
Xuất phát từ những lý do trên, nhóm 1 chọn đề tài: “Tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến
việc cải thiện năng lực kinh tế Việt Nam” làm chủ đề nghiên cứu của nhóm.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về toàn cầu hóa;
- Phân tích tác động tích cựu và thách thức đối với việc cải thiện năng lực kinh tế Việt Nam do
tác động của toàn cầu hóa kinh tế mang lại.
- Đưa ra mục tiêu, định hướng và giải pháp phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tác động của toàn cầu hóa kinh tế đến việc cải thiện năng lực kinh tế
Việt Nam;
- Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ đề tài này, tác giả chỉ để cập tới phân tích tác động
của toàn cầu hoá đến năng lực nền kinh tế xét trên khía cạnh các nguồn lực cho việc thực hiện công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh…
- Kết hợp giữa vận dụng cơ chế hiện hành trong thực tiễn cuộc sống và nghiên cứu lý luận về
quản lý.
5. Kết cấu đề tài
Kết cấu: Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TOÀN CẦU HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU
HOÁ ĐẾN NĂNG LỰC CỦA NỀN KINH TẾ
Chương 2: TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ ĐẾN VIỆC CẢI THIỆN NĂNG LỰC
KINH TẾ VIỆT NAM
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ ĐẾN VIỆC
CẢI THIỆN NĂNG LỰC KINH TẾ VIỆT NAM
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TOÀN CẦU HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ ĐẾN
NĂNG LỰC CỦA NỀN KINH TẾ
1.1. Một số quan niệm về toàn cầu hoá
Căn cứ vào thời điểm xuất hiện, quá trình phát triển, hình thức biểu hiện, nội dung, chức
năng, tác động và các yếu tố liên quan như lịch sử, chính trị, kinh tế và văn hóa …,, đã có những
cách hiểu tương đối đa dạng về toàn cầu hoá. Một số nhà nghiên cứu cho rằng toàn cầu hóa thực
chất chỉ là một giai đoạn phát triển của xã hội loài người, là sự chuyển tiếp từ giai đoạn quốc tế hóa
trước đó. Trong khi đó, một số tác giả khác lại khẳng định toàn cầu hóa là một hiện tượng đặc biệt
trong những năm cuối của Thiên niên kỷ thứ Hai.
Majid Tehranian, giáo sư của trường Đại học Hawai, định nghĩa về toàn cầu hóa như sau:
“Toàn cầu hóa là một quá trình đã diễn ra trong 5000 năm qua, song đã phát triển rất nhanh
chóng từ khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991. Các yếu tố của toàn cầu hóa gồm các dòng vốn, lao
động, quản lí, tin tức, hình ảnh và dữ liệu xuyên biên giới. Động lực chính của toàn cầu hóa là các
công ty xuyên quốc gia (TNC), các tổ chức truyền thông xuyên quốc gia (TMCs), các tổ chức liên
chính phủ (IGOs), các tổ chức phi chính phủ (NGOs), và các tổ chức tương đương/thay thế chính
phủ (AGOs). Từ quan điểm nhân học, toàn cầu hóa bao gồm cả các hệ quả tích cực và tiêu cực: nó
sẽ vừa thu hẹp vừa mở rộng khoảng cách thu nhập giữa và trong các quốc gia, vừa tăng cường và
vừa xóa nhòa đi sự thống trị về chính trị, vừa làm đồng nhất và vừa làm đa dạng hóa bản sắc văn
hóa.”
Theo quan điểm này, toàn cầu hóa là một quá trình liên tục từ nhiều năm qua và phát triển
mạnh mẽ một cách đột biến từ năm 1991. Đó là quá trình nhất thể hóa các yếu tố sản xuất của nền
kinh tế thế giới, các yếu tố thông tin và văn hóa... Quá trình toàn cầu hóa diễn ra với sự hỗ trợ của
một hệ thống các thể chế quốc tế, tổ chức đa và xuyên quốc gia. Tiến trình toàn cầu hóa này tác
động theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực tới sự phát triển kinh tế - xã hội toàn cầu. Xét vềtừ
khía cạnh thời điểm xuất hiện, quan điểm trên này được chia sẻ bởi những người theo chủ nghĩa
hoài nghi (Sceptics) với lập luận rằng thực ra không có cái gọi là “tiến trình toàn cầu hoá” – không
có thời điểm xuất hiện của toàn cầu hóa. Bằng cách so sánh giá trị thương mại thế giới qua các thời
kỳ (tính từ thế kỉ thứ 19), trường phái này cho rằng những gì diễn ra trong nền kinh tế thế giới hiện
nay không phải là điều gì ngoài dự báo. Đó là một nền kinh tế được hình thành bởi ‘quy luật một
giá’, phản ánh mức độ cao của hiện tượng quốc tế hoá; và là sự tương tác giữa các nền kinh tế trên
thế giới. Trên thực tế, thế giới ngày càng trở nên ít gắn kết hơn so với trước đây; quyền lực của các
quốc gia được tăng cường; các nhà nước và thị trường sẽ kiểm soát và quyết định mức độ toàn cầu
hoá các vấn đề kinh tế, xã hội.
Trái lại, những người có quan điểm thiên về toàn cầu hóa (hyperglobalist) nhấn mạnh rằng
toàn cầu hoá là một giai đoạn đặc biệt, đột biến trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Trong
giai đoạn này, các vấn đề kinh tế và chính trị được toàn cầu hoá; vai trò của các chính phủ bị suy
giảm và động lực chính để thúc đẩy toàn cầu hoá là vốn và công nghệ. Hệ quả là: “toàn cầu hoá
kinh tế đang dẫn đến việc ‘phi quốc gia hoá’ các nền kinh tế thông qua việc thiết lập các mạng lưới
xuyên quốc gia về sản xuất, thương mại và tài chính”. Cũng tương tự với quan điểm trên, những
người theo chủ nghĩa cải biến (transformationalists) khẳng định toàn cầu hoá là một hiện tượng
chưa từng xảy ra. Toàn cầu húa tạo nên các mối liên hệ lẫn nhau ở mức độ cao nhất từ trước tới nay
giữa các quốc gia, và vì vậy, quyền lực của các quốc gia sẽ được điều chỉnh, cơ cấu lại.
Ở Việt Nam, theo tác giả Nguyễn Duy Quý và một số tác giả khác: “..., trình độ cao và chất
lượng mới của quốc tế hoá kinh tế, nay được gọi là toàn cầu hoá, chỉ mới xuất hiện từ hơn một thập
kỉ nay. Xét đến nguyên nhân tạo thành các động lực thúc đẩy của toàn cầu hoá, hầu hết các nhà
nghiên cứu trên thế giới đều cho rằng tiến trình toàn cầu hoá mới ở những bước đầu ...”. Các tác giả
cũng nhấn mạnh: “... toàn cầu hoá là xu thế lớn của thời đại, song xu thế ấy có khách quan đến mấy
thì cũng vẫn do con người tạo ra, nó là kết quả phức hợp của nhiều yếu tố, mà mỗi yếu tố đều là sản
phẩm của con người...”.
Với tác giả Đỗ Lộc Diệp và một số đồng tác giả của cuốn Chủ nghĩa Tư bản đầu Thế kỉ
XXI, thì toàn cầu hoá bắt đầu từ khi “... cuộc cách mạng tin học trở thành trung tâm của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ. Thông tin trở thành nguồn lực chủ yếu bên cạnh những nguồn lực cổ
truyền (nguồn lực thiên nhiên, tài chính, sức lao động cơ bắp cña con người). ChuyÓn biến này làm
cho nền sản xuất của các nước hữu quan mang trong lòng nó xu hướng toàn cầu hoá. Nó thúc đẩy
quá trình nhất thể hoá cao hơn ở trong nước và trong nền kinh tế thế giới, đưa xã hội hoá sản xuất
lên trình độ toàn cầu ở mức cao”. Đây là một trong những cách nhìn nhận về toàn cầu hoá kinh tế
được nhiều học giả ở cả các quốc gia phát triển và đang phát triển chia sẻ nhiều nhất. Trong cuốn
“Vượt ra khỏi toàn cầu hóa: Định hình một nền kinh tế toàn cầu bền vững”, tác giả Hazel
Henderson nhận định:
“... Tiến trình toàn cầu hoá được thúc đẩy bởi 2 yếu tố chính. Thứ nhất là công nghệ - yếu tố
đã làm tăng tốc việc sáng tạo trong điện tín, máy điện toán, sợi quang học, vệ tinh, và các phương
tiện truyền thông khác. Sự kết hợp của các công nghệ này với vô tuyến truyền hình, hệ thống thông
tin đại chúng toàn cầu... Yếu tố thứ hai là làn sóng kéo dài 15 năm trong việc phi điều tiết húa, tư
nhân hoá, tự do hoá các luồng tư bản, mở cửa các nền kinh tế quốc gia, mở rộng thương mại toàn
cầu và chính sách tăng trưởng nhờ xuất khẩu đã dẫn đến sự sụp đổ của chế độ hối đoái cố định
Bretton Woods vào đầu những năm 1970.
Như vậy, cũng theo Hazel Handerson, ngoài công nghệ thông tin và ý chí chủ quan mang
màu sắc chính trị của các chính phủ, các thể chế quốc tế cũng là một trong những yếu tố quan trọng
thúc đẩy tiến trình toàn cầu hoá trong những năm vừa qua.
Quan điểm về toàn cầu hóa cũng có sự khác biệt xét từ khía cạnh chính trị. Theo hầu hết các
nước đang phát triển (hay là nhóm các nước phương Nam, theo cách gọi của một số học giả để phân
biệt với các nước công nghiệp phát triển, chủ yếu tập trung ở phương Bắc), toàn cầu hoá đơn giản
chỉ là một chiến lược thực dân hoá lần nữa của Mỹ. Theo chiến lược này, Mỹ sẽ từng bước thiết lập
ảnh hưởng của mình ở các nước đang phát triển thông qua các thể chế kinh tế quốc tế, qua các hiệp
định về thương mại tự do song phương với từng nước hoặc đa phương với từng nhóm nước ở những
khu vực khác nhau trên thế giới. Tuy nhận định này chưa được kiểm chứng, song không thể phủ
nhận một điều là Mỹ, với GDP chiếm 1/3 GDP thế giới, có thể đủ tiềm năng để mở rộng ảnh hưởng
và chi phối nền kinh tế thế giới.
Như vậy, có thể nói các quan điểm về toàn cầu hoá nói chung cũng như về toàn cầu hoá kinh
tế nói riêng là rất đa dạng, thậm chí còn mõu thuẫn và trái ngược nhau cả về mặt học thuật và trong
thực tiễn. Song bất luận các quan điểm về toàn cầu hoá có thể còn khác xa nhau thế nào, không thể
phủ nhận một thực tế là nền kinh tế thế giới trong những năm cuối của thế kỉ XX đã có những thay
đổi lớn về cơ sở hạ tầng, đang vận động với một phương thức sản xuất khác xa với phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa trước đâymới; trong đó quá trình quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm
được thực hiện với một bản chất và quy mô mới.
Xuất phát từ những quan niệm trên, chúng tôi cho rằng toàn cầu hoá kinh tế là một tiến trình
khách quan xét cả về mặt lí thuyết và thực tiễn: Toàn cầu hóa kinh tế là một giai đoạn trong tiến trình
phát triển của nền kinh tế thế giới, phù hợp với i quy các quy luật kinh tế, xã hội và thấm đậm màu
sắc chính trị của thế giới trong những thập niên cuối của Thiên niên kỉ thứ Hai. Trong giai đoạn này,
các yếu tố sản xuất của nền kinh tế thế giới có sự chuyển biến về chất, là hệ quả của một quá trình
tích luỹ lâu dài từ trước đó, phụ thuộc và đan xen với các yếu tố văn hoá, chính trị và đang hình
thành nên một lực lượng sản xuất mới. Lực lượng sản xuất mới này đã, đang và sẽ hình thành nên
một quan hệ sản xuất mới trên quy mô toàn cầu, trong đó các nền kinh tế được vận động theo xu
hướng tự do hơn và cũng tuỳ thuộc lẫn nhau nhiều hơn.
Toàn cầu hóa là "một xu hướng làm các mối quan hệ trở nên ít bị ràng buộc bởi địa lý lãnh
thổ", là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra
bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc
độ văn hoá, kinh tế, v.v. trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu
như được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do
thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô
toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hoá.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của toàn cầu hoá kinh tế - một số đặc trưng của toàn cầu
hóa kinh tế
1.2.1. Cơ sở lý luận của toàn cầu hóa kinh tế
Hầu hết các học thuyết kinh tế học, cổ điển cũng như hiện đại, đều cho thấy sẽ có sự tương
tác giữa các nền kinh tế khi các hoạt động kinh tế quốc tế mang lại lợi ích ở những mức độ khác
nhau cho các nền kinh tế. Mặc dầu còn một số khiếm khuyết, các lý thuyết về thương mại cổ điển
đều khẳng định vai trò quan trọng của thương mại quốc tế. Thuyết thương mại dựa trên lợi thế tuyệt
đối của Adam Smith là cơ sở để giải thích quá trình chuyên môn hóa trong một số ngành sản xuất
của một số quốc gia trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới trong 200 năm qua. Tuy nhiên, trong
giai đoạn toàn cầu hoá, do dựa trên giả định là thương mại chỉ xảy ra giữa hai nước, chi phí vận tải
bằng không và lao động là yếu tố duy nhất, song không di chuyển ra ngoài biên giới quốc gia và với
điều kiện cạnh tranh hoàn hảo, lý thuyết này chỉ một phần nào lý giải được xu hướng chuyên môn
hóa lao động trong từng quốc gia riêng lẻ song không lý giải được xu hướng chuyên môn hóa trong
các ngành công nghiệp trên quy mô toàn cầu, ở cả những quốc gia không hề có lợi thế tuyệt đối
trong lĩnh vực đó.
Thuyết thương mại dựa trên lợi thế so sánh tương đối của David Ricardo đã giải thích được
động lực của thương mại quốc tế trong mô hình kinh tế đơn giản, chứng minh được thương mại vẫn
mang lại lợi ích nếu một quốc gia có lợi thế tương đối trong một ngành sản xuất nào đó, dù rằng
quốc gia đó không có lợi thế tuyệt đối trong ngành sản xuất đó so với quốc gia khác. Nói cách khác,
một quốc gia sẽ được lợi nhiều hơn mất nếu quốc gia đó có hoạt động thương mại với quốc gia khác
và chuyên môn hoá vào lĩnh vực mà quốc gia đó có thế mạnh nhất.
Mô hình Hecksher-Ohlin đã tiến một bước xa hơn trong việc đưa ra khái niệm hàm lượng
các yếu tố và mức độ dồi dào của các yếu tố sản xuất nhằm giải thích bản chất của lợi thế so sánh.
Theo thuyết này, cơ sở của thương mại quốc tế chính là mức độ dồi dào tương đối các yếu tố sản
xuất của từng quốc gia và hàm lượng các yếu tố sản xuất được sử dụng để sản xuất. Tuy nhiên,
cũng như thuyết lợi thế so sánh, nhược điểm của mô hình Hecksher – Ohlin là dựa trên nhiều giả
định, trong đó giả định các yếu tố sản xuất không thể di chuyển giữa các quốc gia và môi trường
cạnh tranh hoàn hảo là những giả định hoàn toàn trái ngược với hiện thực thương mại trong giai
đoạn toàn cầu hóa.
Như vậy, mặc dù chưa thể lý giải một cách đầy đủ về các khía cạnh của toàn cầu hoá kinh tế
trong giai đoạn hiện nay, các lý thuyết kinh tế học cổ điển cũng đã cho thấy thương mại quốc tế là
một động lực quan trọng, đồng thời cũng phản ánh bản chất, của tiến trình toàn cầu hoá kinh tế
trong hai thập kỉ qua.
Cơ sở lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động của dòng vốn FDI cũng giúp lý giải
tiến trình toàn cầu hoá trong những năm qua. Theo He Liping, một học giả Trung Quốc, hội nhập
kinh tế quốc tế tức là “sự tương tác giữa các lực lượng của nền kinh tế nội địa với các lực lượng của
nền kinh tế thế giới”. Sự tương tác này được thực hiện qua việc các yếu tố của lực lượng sản xuất di
chuyển vượt ra ngoài biên giới lãnh thổ của một nền kinh tế một cách nhanh chóng và với quy mô
rộng lớn hơn trên toàn cầu. Cũng tương tự với quan điểm trên, Deepack Nayyar thuộc Viện Nghiên
cứu Thế giới về Kinh tế Phát triển thì: “Nền kinh tế thế giới đã trải qua một tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế từ năm 1950. Tuy nhiên, mức độ toàn cầu hoá đã trở nên nổi bật trong những năm cuối
thế kỉ 20. Hiện tượng này thể hiện ở ba khía cạnh lớn là thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và tài
chính quốc tế, những yếu tố tạo nên đặc thù của toàn cầu hoá”. Theo một số tác giả khác như Chase
Dunn, Tehranian, Modelski…, hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những khía cạnh của toàn cầu
hoá và gắn liền với toàn cầu hoá. Theo các tác giả này, toàn cầu hoá là một quá trình từ 5000 năm
nay, song phát triển mạnh mẽ nhất kể từ sau sự sụp đổ của Liên Xô. Các khía cạnh nổi bật nhất của
toàn cầu hoá là kinh tế, chính trị, sinh thái, văn hoá và thông tin. Trong đó toàn cầu hoá kinh tế có
đặc trưng là sự di chuyển xuyên biên giới của các yếu tố của lực lượng sản xuất như vốn, lao động,
công nghệ, tri thức và kĩ năng quản lý, thông tin… Động lực thúc đẩy sự di chuyển các yếu tố trên
là hoạt động của các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức trong lĩnh vực thông tin truyền thông, các
tổ chức liên chính phủ, phi chính phủ.
Mô hình của John Dunning (Owership -– Location - –I Internalization/OLI) về hoạt động
của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng cho thấy tiến trình toàn cầu hoá kinh tế được thúc đẩy
mạnh mẽ bởi các dòng FDI trên toàn cầu. Theo mô hình này, một công ty sẽ thực hiện hoạt động
đầu tư khi các điều kiện sau xuất hiện: (1) Công ty có lợi thế so sánh so với các công ty khác qua
việc sở hữu những yếu tố sản xuất đặc biệt. Các yếu tố này có thể là vốn, công nghệ, bí quyết, kĩ
năng…và tạo điều kiện để công ty này có lợi thế cạnh tranh so với các công ty khác ở trong nước
cũng như ở nước ngoài; (2) Địa điểm dự kiến đầu tư cũng có những lợi thế và có thể kết hợp với các
yếu tố sản xuất của công ty có vốn đi đầu tư. Các lợi thế này có thể xuất phát từ nguồn lao động, tài
nguyên, cơ sở hạ tầng, môi trường chính trị, kinh tế… (3) Quá trình nội địa hóa các yếu tố nguồn
lực. Trên thực tế, dưới tác động của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin; với
hoạt động ngày càng mạnh mẽ hơn của các công ty xuyên quốc gia (TNC), với xu hướng tự do hoá
và phi điều tiết trong hai thập kỉ qua, FDI đã trở thành một trong những động lực quan trọng của
toàn cầu hoá.
Xét từ góc độ kinh tế chính trị, theo học thuyết kinh tế chính trị Mác-Lênin, lịch sử loài
người đã trải qua một số phương thức sản xuất khác nhau. Phương thức sản xuất sau bao giờ cũng
có yếu tố kế thừa, có yếu tố phát triển, đột biến và tiến bộ hơn phương thức sản xuất trước. Sự
chuyển hóa từ một phương thức sản xuất lạc hậu sang một phương thức sản xuất tiến bộ hơn là do
sự vận động, tương tác giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, và là quy luật khách quan của
sự vận động và phát triển. Chúng ta có thể nhận thấy sự phát triển của nền kinh tế thế giới trong vài
thập kỉ qua có sự kế thừa của các yếu tố của lực lượng sản xuất, có sự phát triển đột biến, thay đổi
tương quan trong lực lượng sản xuất; và bước đầu đang có sự điều chỉnh trong quan hệ sản xuất. Có
thể nói, toàn cầu hóa là một giai đoạn phát triển đặc biệt của nền kinh tế thế giới, nhất là từ những
năm 1980 trở lại đây khi khoa học và công nghệ có những thành tựu nổi trội, được ứng dụng rộng
rãi và đang dẫn đến những thay đổi về chất của lực lượng sản xuất. Đây cũng là cách thức mà
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời vào cuối thế kỉ 16, đầu thế kỉ 17, khi lực lượng sản
xuất của nền kinh tế thế giới, nhất là ở khu vực Tây Âu, có những tích lũy về lượng và thay đổi về
chất khi cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ tại nước Anh.
Tính từ thời điểm từ cách mạng công nghiệp tại Anh từ thế kỷ 17, sự ra đời của hàng loạt
những phát minh công nghệ mới như máy hơi nước, máy điện tín... v.v...., đã tạo ra sự xuất hiện và
trưởng thành của một lực lượng sản xuất mới cú sự khác biệt cơ bản về chất so với lực lượng sản
xuất của giai đoạn trước đó. Tư liệu sản xuất, trong đó công cụ sản xuất được phát triển, tạo năng
suất lao động cao hơn, đồng thời cũng làm trỡnh độ của nguồn nhân lực ngày càng trưởng thành về
nhiều mặt. Hệ quả là, chính các thành tựu khoa học trên đã tạo tiền đề cho một phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa với năng lực quy mô lớn hơn nhiều lần ra đời. Các quốc gia tư bản lớn ở châu
Âu và Bắc Mỹ, dựa vào sự tiến bộ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ưu việt này đã từng
bước khẳng định vị thế của mình và ngày càng tăng cường, mở rộng ảnh hưởng trong khu vực và
trên thế giới. Đây cũng chính là cơ sở để các quốc gia tư bản phương Tây thực hiện các cuộc xâm
lược chiếm lĩnh thuộc địa từ thế kỉ 17 đến giữa thế kỉ 20. Có thể nói, quá trình thuộc địa hóa này
cũng là một trong những biểu hiện cụ thể của quá trình quốc tế hóa sản xuất trong giai đoạn này,
tuy mức độ, quy mô và lĩnh vực của tiến trình này không thể sánh được với hiện thực phát triển của
nền kinh tế thế giới trong những năm cuối của thế kỉ 20.
Với tác động tương tự như sự chuyển hóa về chất của lực lượng sản xuất trong thế kỉ 17,
thành tựu khoa học và công nghệ của thế kỉ 20 trong các lĩnh vực nông lâm, sinh học, hóa học, vật
liệu mới…v.v. đó từng bước làm cho lực lượng sản xuất của nền kinh tế thế giới lớn mạnh lờn và
bước đầu có sự thay đổi về chất. Những thành tựu này vừa là sự tích lũy và kế thừa kết quả của các
thành tựu khoa học trước đó, song cũng có những thành tựu đột biến, nhất là trong công nghệ thông
tin. Chính sự đột biến này tạo động lực cho toàn cầu hóa và làm cho quy mô, tốc độ toàn cầu hóa
trong những năm cuối của thiên niên kỉ thứ hai trở nên rộng khắp và nhanh chóng hơn bao giờ hết.
Từ những năm cuối của thập kỷ 80 tới những năm cuối của thập kỷ 90 sự phát triển vượt bậc
của cụng nghệ sinh học trong lĩnh vực nghiên cứu về gien; của công nghiệp trong lĩnh vực năng
lượng và vật liệu mới; đặc biệt sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng của tin học vào quá trình sản
xuất, quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm đã tạo nên một nền kinh tế toàn cầu, trong đó các yếu
tố của lực lượng sản xuất gồm vốn, lao động và tri thức được di chuyển với quy mô rộng lớn hơn bao
giờ hết. Song song với sự di chuyển của các yếu tố của lực lượng sản xuất, các sản phẩm của quá
trình sản xuất cũng được lưu thông trên quy mô toàn cầu với mức độ tự do ngày càng lớn nhờ những
thành tựu trong lĩnh vực giao thông vận tải, và không kém phần quan trọng là những quan hệ kinh tế
ngày càng mở hơn giữa các quốc gia.
Như vậy, lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới từ những năm đầu của chủ nghĩa tư bản
tới hiện tại cho thấy những tiến bộ vượt bậc của khoa học và công nghệ đã dẫn đến sự thay đổi về
chất của lực lượng sản xuất ở những quy mô khác nhau và sự xuất hiện một quan hệ sản xuất mới với
những phương thức sản xuất và phân phối sản phẩm mới. Khoa học và công nghệ là động lực chính,
chủ yếu và đầu tiên của quá trình này. Chính khoa học và công nghệ đã kéo theo những đột biến
trong các yếu tố khác của lực lượng sản xuất và làm thay đổi về chất lực lượng sản xuất toàn cầu; và
sau đó tạo nên một quan hệ sản xuất trên quy mô toàn cầu.
Khoa học và công nghệ, thực chất đã khởi động tiến trình toàn cầu hoá kinh tế. Quá trình
này cũng phù hợp với quy luật của chủ nghĩa duy vật biện chứng là “chuyển hóa từ những thay đổi
về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại” và quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử là
“quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Theo đó, lực lượng sản
xuất của chủ nghĩa tư bản trong những năm cuối của thập kỉ 1990, đặc biệt là khoa học, công nghệ
và trình độ quản lý đã đạt được những thành tựu mới về chất và đòi hỏi sự điều chỉnh trong quan hệ
sản xuất trên quy mô toàn cầu.
Nếu chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Mác có thể lý giải về một lực lượng
và quan hệ sản xuất mới và việc hình thành một phương thức sản xuất “hậu tư bản” mà ở đây tạm gọi
là “phương thức sản xuất toàn cầu hoá”, thì các lý thuyết về Quy luật Cung - Cầu, Lợi thế So sánh
tương đối và Lợi thế Cạnh tranh có thể giải thích được về bản chất của việc di chuyển của các yếu
tố của lực lượng sản xuất trên quy mô toàn cầu - sự vận động đã dẫn đến những thay đổi về chất
của lực lượng sản xuất.
Xét xu hướng phát triển nền kinh tế thế giới từ những năm đầu của lịch sử xã hội loài người,
điều dễ nhận thấy là các phương thức sản xuất đã vận động, tiến hoá theo cấp độ từ thấp đến cao.
Phương thức sản xuất sau bao giờ cũng có một quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất tiến bộ hơn, có
năng suất lao động cao hơn và tính liên kết của nền kinh tế của từng khu vực và thế giới cũng chặt chẽ
hơn. Theo logíc đó, tính liên kết cao của nền kinh tế thế giới trong những năm cuối của Thiên niên kỉ
thứ hai chỉ là hệ quả tất yếu của tiến trình tiến hoá của nền kinh tế thế giới trong vài ngàn năm
qua. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng để có thể tiến hoá từ một phương thức sản xuất từ cấp độ thấp
lên cấp độ cao, nền kinh tế thế giới cần hội tụ được đầy đủ những yếu tố cần thiết, trong đó lực lượng
sản xuất, hoặc phải được tích luỹ đầy đủ theo thời gian để có một sự thay đổi về chất, hoặc phải có
một đột biến nào đó đủ mạnh để dẫn đến thay đổi về chất, và tiếp đó là dẫn đến những thay đổi trong
quan hệ sản xuất.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của toàn cầu hóa kinh tế
Toàn cầu hóa xuất hiện như một xu hướng khách quan. Tính khách quan này được quy định
bởi cả các yếu tố kinh tế và chính trị trên thế giới trong giai đoạn cuối thập kỉ 1980 và đầu 1990.
Xét từ khía cạnh kinh tế, một lực lượng sản xuất mới đã tạo động lực cho toàn cầu hoá kinh
tế. Biểu hiện của lực lượng sản xuất này là những tiến bộ vượt bậc của khoa học và công nghệ, với
sự ứng dụng và chuyển giao trờn quy mô rộng khắp thông qua nghiên cứu, triển khai và đầu tư trực
tiếp nước ngoài; được thúc đẩy bởilà sự vận động di chuyển tự do hơn của các yếu tố sản xuất
nhưcủa các dòng vốn vốn thông qua hoạt động của các công ty xuyên quốc gia, các thể chế, thiết
chế tài chính và thị trường chứng khoán; là sự di chuyển tự do hơn và khả năng tham gia vào sản
xuất một cách linh hoạt hơn của lực lượng lao động toàn cầu; và là một thị trường rộng lớn, cạnh
tranh hơn được hình thành bởi các thể chế thương mại quốc tế như WTO và các khu vực mậõu dịch
tự do như NAFTA, AFTA, MERCOSUR...v.v. Trong các yếu tố này, khoa học và công nghệ đóng
vai trò tiên quyết, đặt nền móng cho tiến trình toàn cầu hoá trong những năm cuối của thiên niên kỉ
thứ hai. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét vai trò của những thành tựu khoa học công nghệ và những tác
động mang tính hệ quả tất yếu của chúng đối với tiến trình toàn cầu hoá.
Peter Marcuse, trong cuốn “Ngôn ngữ của Toàn cầu hoá” đã nói đến hai khía cạnh của toàn
cầu hoá (mà thực chất đó là hai khía cạnh của một giai đoạn phát triển mới của chủ nghĩa tư bản) là:
“sự phát triển của công nghệ và quyền lực trở nên tập trung hơn”. Tác giả nhấn mạnh rằng công nghệ
đã tạo “khả năng mở rộng tầm kiểm soát từ một trung tâm ra những lục địa khác nhau...” và làm cho
“... cũng một lượng hàng hoá và dịch vụ tốt như vậy có thể được sản xuất ra với một nỗ lực ít hơn,
hoặc nếu cũng bằng một nỗ lực như vậy, thì một lượng hàng hoá và dịch vụ nhiều hơn có thể được
sản xuất ra”. Thực vậy, công nghệ thay đổi phương thức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm; trực
tiếp tham gia như một yếu tố của lực lượng sản xuất và nâng cao năng suất lao động. Với một nền
tảng công nghệ, gồm công nghệ thụng tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ vũ trụ, những tiến bộ kĩ thuật trong ngành giao thông vận tải, năng lượng... một cơ sở
hạ tầng mới của nền kinh tế thế giới được hình thành. Trên nền hạ tầng này, các quốc gia, các thể chế
quốc tế, các công ty và các lực lượng xã hội từng bước thiết lập một quan hệ sản xuất và phân phối
sản phẩm mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, di chuyển lao động và tự do hoá thương mại.
Khoa học và công nghệ, đã làm thay đổi hàm sản xuất của nền kinh tế thế giới. Đó là “tăng
đầu ra trên cùng một lượng đầu vào”. Quá trình này diễn ra thông qua các hoạt động nghiên cứu,
phát minh, triển khai, chuyển giao và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào việc đổi mới
phương thức quản lý quá trình sản xuất, huy động nguồn lực và cơ cấu lại nền kinh tế. Hệ quả là
hàm lượng tri thức được kết tinh qua các công nghệ tiên tiến và quy trình quản lý hiệu quả hơn đã
tạo ra bước nhảy vọt trong năng suất lao động và từng bước đặt nền móng cho việc hình thành một
quan hệ sản xuất trên quy mô toàn cầu.
Trước hết, khoa học công nghệ, với công nghệ thông tin là mũi nhọn, đã làm thay đổi
phương thức quản lý sản suất, bao gồm từ việc tổ chức sản xuất đến huy động nguồn lực. Việc tổ
chức sản xuất đã được hỗ trợ một cách đắc lực bởi công nghệ truyền thông và thông tin như hệ
thống quản lý dữ liệu trên mạng nội bộ, thư điện tử, in-tơ-nét, thương mại điện tử ... Với các công
cụ này, một chính phủ điện tử có thể thực hiện hoạt động quản lí điều hành quốc gia hiệu quả hơn;
hoặc các nhà quản lý doanh nghiệp có thể giám sát được hoạt động sản xuất và kinh doanh không
chỉ của một văn phòng, xưởng máy, nhà máy mà còn của cả các chi nhánh của công ty trên quy mô
một quốc gia hoặc toàn cầu, gần như tức thì, để có thể đưa ra những quyết sách kịp thời. Khả năng
này cho phép các công ty đa quốc gia ngày càng mở rộng hoạt động của mình trên thế giới. Quan
trọng hơn cả, nhà quản lý có thể bỏ được nhiều khâu trung gian trong khi điều hành quá trình sản
xuất, giảm chi phớ trong khi vẫn mở rộng được quy mô sản xuất. Theo thống kê của Hal Varian,
Robert E. Litan, Andrew Elder và Jay Shutter tại một nghiên cứu khảo sát năm 2002 mang tên
“Nghiên cứu về tác động của mạng” đối với lợi ích kinh tế của các ngành công nghiệp tại Mỹ, Anh,
Pháp và Đức thì tính từ năm 1998 đến thời điểm kết thúc cuộc điều tra, các tổ chức, công ty của 4
nước trên đã tiết kiệm được 163,5 tỷ USD thông qua ứng dụng mạng internet vào hoạt động. Như
vậy đầu ra của hàm sản suất đã tăng thực tế thông qua khoản tiết kiệm này.
Thứ hai, khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, là công cụ đắc lực để huy
động các nguồn lực sản xuất một cách có hiệu quả nhất. Công nghệ thông tin, với hệ thống internet,
thư điện tử, fax... là những công cụ lý tưởng để ý tưởng, tri thức, và kinh nghiệm... được chuyển tải
một cách nhanh và rộng khắp nhất. .. Thực tế, “Cách mạng công nghệ trong lĩnh vực giao thông và
truyền thông đã xoá dần đi những rào cản về không gian và thời gian”. Với công nghệ thông tin,
việc quản lý các luồng vốn cũng trở nên hiệu quả hơn. Các khoản vốn lớn được lưu chuyển từ quốc
gia này sang quốc gia khác với sự trợ giúp của thị trường chứng khoán toàn cầu và các ngân hàng
điện tử là yếu tố mạnh mẽ thúc đẩy đầu tư. Hơn thế, công nghệ thông tin còn giúp huy động và di
chuyển lực lượng lao động trên quy mô toàn cầu. Trên thực tế, một lao động đang sống ở quốc gia
này có thể vẫn được huy động để được sử dụng sức lao động của mình dưới hình thức chất xám,
thông qua mạng internet.
Thứ ba công nghệ thông tin còn là công cụ đắc lực trong thương mại quốc tế và đã mở ra
một phương thức giao dịch và thanh toán chưa từng có trong lịch sử kinh tế thế giới. Thương mại
điện tử bùng nổ với 2 tỷ USD năm 1996, 100 tỷ USD năm 1999, và ước tính khoảng 3 ngàn tỷ USD
năm 2003.
Thứ tư, khoa học và công nghệ cũng đã làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế toàn cầu . Với
cuộc cách mạng công nghiệp, cơ cấu của nền kinh tế thế giới đã dần chuyển từ lĩnh vực nông
nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GDP thế giới càng
tăng mạnh trong những năm cuối của thiên nhiên kỉ thứ hai với sự xuất hiện của ngành công nghiệp
điện toán. Hàng loạt các sản phẩm liên quan tới công nghệ thông tin ra đời như các phần cứng, phần
mềm của máy tính, phụ kiện ... đã tạo cơ hội cho nhiều nước đang phát triển tận dụng nguồn lực của
mình.
Nói cách khác, khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã tạo nền tảng cho
tiến trình toàn cầu hoá, mang lại những bước tiến mạnh mẽ trong nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên,
khoa học và công nghệ cũng tạo ra những khoảng cách trong phát triển giữa các nước tư bản phát
triển và những nước đang phát triển. Một thực tế là, những quốc gia có điều kiện tiếp cận với công
nghệ thông tin nhiều hơn sẽ là những quốc gia có lợi thế cạnh tranh hơn trong một nền kinh tế toàn
cầu.
Như vậy, nền kinh tế thế giới từ những năm cuối thập kỉ 1980 - thời điểm mà nền khoa học và
công nghệ của thế giới, nhất là công nghệ thông tin, sinh học, năng lượng, hoá học ... có những bước
nhảy vọt (cũng tương tự như sự xuất hiện của máy hơi nước trong thể kỉ 17 hay sự xuất hiện của điện
tín trong những năm cuối của thế kỉ 18 tạo nên bước nhảy vọt về công nghệ trong giai đoạn này) - tới
nay, đã có những bước phát triển vượt bậc so với nền kinh tế thế giới trong những năm trước đó. Đó
là sự khác biệt về cơ sở hạ tầng, về quan hệ sản xuất, về phương thức huy động nguồn lực, về cơ cấu
nền kinh tế, về phương thức phân phối sản phẩm, và về giá trị gia tăng tính trên các yếu tố đầu vào,
trong đó tri thức và công nghệ đang chiếm một tỉ lệ ngày càng tăng. Đó là sự thay đổi về chất mang
tính khách quan, là hệ quả và cũng là quy luật vận động và phát triển của nền kinh tế thế giới
trong nhiều năm qua.
Như đã trình bày, sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ trong những năm cuối
của thiên niên kỷ thứ II là yếu tố cơ bản, có tính quyết định với tiến trình toàn cầu hoá kinh tế
đang diễn ra mạnh mẽ. Khoa học và công nghệ vừa là đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất,
vừa là điều kiện để các yếu tố sản xuất khác được huy động một cách hiệu quả hơn; đồng thời có
vai trò ngày càng lớn hơn trong quá trình tự do hoá thương mại toàn cầu. Như vậy, việc các yếu tố
sản xuất như lao động và vốn được di chuyển tự do hơn và xu hướng tự do hoá thương mại vừa là
hệ quả của tiến trình toàn cầu hoá, vừa thúc đẩy tiến trình toàn cầu hoá. Bên cạnh các yếu tố kinh tế,
được điều tiết bởi bàn tay vô hình của thị trường như khoa học công nghệ, thị trường vốn và thị
trường lao động...v.v, các yếu tố chính trị, được dẫn dắt bởi lợi ích của một số quốc gia, nhóm quốc
gia và khu vực thông qua vai trò của một số thể chế kinh tếtế, thương mại quèc tế như WTO, IMF,
ILO, các tổ chức thuộc hệ thống của Liên hiệp quốc và của một số chính phủ, hoặc nhóm chính
phủ, hoặc các tổ chức phi chính phủ...v.v cũng tác động mạnh mẽ đến tiến trình toàn cầu hoá.
Xét từ khía cạnh chính trị, sự phát triển nhanh chóng của tiến trình toàn cầu hoá trong giai đoạn
này cũng là hệ quả tất yếu của một loạt những biến động về địa chính trị thế giới, bắt đầu bằng sự kiện
Liên Xô tan rã, chấm dứt thời kì chiến tranh lạnh giữa các nước tư bản phương Tây do Mỹ cầm đầu và
các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu do Liên xô cầm đầu. Trong thời kì chiến tranh lạnh, thay vì hợp
tác, các quốc gia thuộc hai khối này lại loại trừ và phủ nhận các giá trị của đối phương, đi ngược quy
luật của kinh tế thị trường, bất chấp sự tổn hại về kinh tế một cách phi lô gíc. Động cơ để hợp tác trong
hầu hết các lĩnh vực đều bị triệt tiêu.
Sự tan rã của Liên Xô và các nước thuộc khu vực Đông Âu đã phá vỡ tình trạng này. Tuy còn
nhiều khác biệt, song cái biên giới ý thức hệ đã tạm thời được rỡ bỏ và tạo nên một động lực cho tiến
trình toàn cầu hoá kinh tế. Trước hết, đó là việc Liên Xô và hầu hết các quốc gia ở Đông Âu - được
gọi là các nền kinh tế đang chuyển đổi - đã áp dụng cơ chế thị trường và tạo ra một làn sóng rỡ bỏ các
quy định điều tiết, đẩy nhanh phi tập trung hóa, tư nhân hoá và tự do hoá. Đây cũng chính là mảnh đất
màu mỡ để tiến trình toàn cầu hoá kinh tế có thể phát triển nhanh chóng. Thực vậy, cơ chế thị trường một phương thức huy động nguồn lực và phân phối sản phẩm - dựa trên quy luật Cung/Cầu – đã tạo
ra nền tảng cho sự hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế giữa các quốc gia này với các quốc gia phát
triển. Các yếu tố sản xuất như vốn, lao động, công nghệ từ các nước tư bản phát triển lần lượt đổ vào
các nền kinh tế đang chuyển đổi. Một thị trường hàng hoá và dịch vụ được mở ra cho cạnh tranh. Quá
trình này đã liên kết các quốc gia với nhau, buộc các quốc gia phải thương lượng, hợp tác và cuối
cùng phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn cả về kinh tế chính trị và các khía cạnh khác của xã hội.
Một tác động nữa của việc chiến tranh lạnh kết thúc đối với tiến trình toàn cầu hoá kinh tế là
sau khi Liên Xô tan rã và không còn khả năng chi phối các nước đồng minh Xã hội Cchủ nghĩa ở
Đông Âu, một khoảng trống về quyền lực về chính trị và kinh tế đã được tạo ra ở khu vực Đông Âu
và tạo cơ hội vàng để các quốc gia phương Tây mở rộng ảnh hưởng của mình, gây sức ép về kinh
tế, chính trị thông qua cơ chế thị trường; và từng bước chiếm lĩnh thị trường ở khu vực này. Quá
trình này, trước hết được thực hiện qua việc gây sức ép để các nước thuộc khu vực này tham gia vào
các thể chế chính trị, quân sự và kinh tế như NATO, Liên minh châu Âu, Uỷ ban châu Âu… vốn đã
được các nước Tây Âu và Mỹ hình thành trước đó. Tiếp đó, các thể chế kinh tế, thương mại và tài
chính quốc tế như WTO, WB, IMF, các công ty xuyên quốc gia (TNC)… được “bật đèn xanh” bởi
Mỹ và các nước Tây Âu đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường đang “đói vốn” này. Trên thực tế
dòng FDI đổ vào các nước thuộc khu vực này đã tăng đáng kể từ mức 0% năm 1980 lên 1,2% năm
2000 và đạt mức 2,5% năm 2005, chưa kể các khoản cho vay của các thể chế tài chính – tiền tệ
quốc tế.
Đáng lưu ý, qua quá trình rót vốn và tự do hoá thương mại này, các quốc gia Đông Âu ngày
càng phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn lực từ các quốc gia bên ngoài cũng như vào các luật định quốc
tế. Như vậy, từ nhu cầu tự thân là cần vốn để phát triển, cùng với tham vọng chiếm lĩnh thị trường
và gây ảnh hưởng chính trị của các quốc gia phương Tây, tiến trình toàn cầu hoá kinh tế đã diễn ra
mạnh mẽ trên mọi khía cạnh, không chỉ ở khu vực này mà còn ở bất cứ khu vực nào trên thế giới có
nhu cầu về phát triển. Cũng trong tiến trình toàn cầu hoá, thị trường mới được mở ra, các yếu tố sản
xuất được di chuyển tự do hơn, các giá trị về văn hoá và chính trị đan xen và va chạm với nhau…
với một mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận kinh tế và chính trị.
Nếu các thành tựu về khoa học và công nghệ trong những năm cuối của thập kỉ 1980 và đầu
1990 là kết quả của quá trình tích luỹ trước đó và hệ quả tất yếu của nó là sự hình thành một cơ sở
ban đầu cho một nền kinh tế toàn cầu, thì sự kiện chiến tranh lạnh kết thúc lại mang tính đột biến, là
chất xúc tác cho tiến trình toàn cầu hoá được đẩy nhanh hơn về quy mô và sâu hơn về chất. Tuy
nhiên, bên cạnh ý chí chính trị và mục tiêu kinh tế của các quốc gia tư bản phát triển phương Tây và
Mỹ, các tổ chức quốc tế, phi chính phủ, các thể chế tài chính, kinh tế… cũng đóng một vai trò
không thể thiếu được trong tiến trình toàn cầu hoá.
Như vậy, toàn cầu hoá là một tiến trình khách quan, được khởi động bởi những thành tựu
vượt bậc của khoa học và công nghệ trong những năm cuối của thập kỉ 1980 và đầu 1990; đồng thời
được thúc đẩy bởi hàng loạt các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội khác như đã trình bày ở trên. Ngược
lại, cũng chính tiến trình toàn cầu hoá lại có tác động trở lại đối với các yếu tố đã tạo tiền đề và thúc
đẩy sự phát triển của nó. Những tác động qua lại trên đã làm cho tiến trình toàn cầu hoá, nhất là
toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ hơn và trở thành một xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế
giới.
1.2.3. Một số đặc trưng của toàn cầu hoá kinh tế và tác động của nó đến sự phát triển kinh tế
ở các quốc gia
Toàn cầu hoá kinh tế bắt đầu từ cuối thập kỉ 80 là một giai đoạn phát triển mới của nền kinh
tế thế giới, có nguồn gốc từ những tích luỹ về lượng của của các yếu tố sản xuất như vốn, lao động
và công nghệ; trong đó công nghệ đóng vai trò tiên quyết, góp phần làm thay đổi về chất các yếu tố
đầu vào của quá trình sản xuất. Toàn cầu hoá được thúc đẩy và phát triển mạnh mẽ sau sự kiện
mang tính đột biến là sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, phá vỡ trật tự thế giới hai cực
và tạo ra thế giới một cực với Mỹ là siêu cường duy nhất có khả năng mở rộng thế lực kinh tế và
chính trị của mình trên quy mô toàn cầu. Trong tiến trình toàn cầu hoá, các yếu tố sản xuất được
huy động, di chuyển tự do hơn trên quy mô toàn cầu và xu hướng tự do hoá thương mại là chủ đạo.
Quá trình di chuyển các yếu tố sản xuất và xu hướng tự do hoá thương mại tạo nên sự tuỳ thuộc lẫn
nhau ngày càng sâu sắc hơn giữa các nền kinh tế, đồng thời tác động tới nền kinh tế thế giới theo cả
chiều hướng tích cực và tiêu cực, đặc biệt tới đầu tư trực tiếp nước ngoài, tới lực lượng lao động và
thương mại thế giới. Trên cơ sở thực tiễn của tiến trình toàn cầu hoá trong những năm qua, có thể
xác định một số đặc trưng cơ bản của tiến trình toàn cầu hóa như sau:
1. Xu hướng tự do hoá các hoạt động kinh tế quốc tế gồm hoạt động thương mại, đầu tư, sản
xuất và di chuyển nguồn lực…v.v. Trong đó có di chuyển nguồn nhân lực;
2.
3. Khoa học và công nghệ làm thay đổi phương thức quản lí sản xuất và phân phối sản
phẩm; trực tiếp tham gia như một yếu tố đầu vào của sản xuất; giảm chi phí vận tải, thông tin liên
lạc, thu hẹp không gian kinh tế; đồng thời tự thân là một yếu tố thu hút FDI;
4. Các công ty xuyên quốc gia (TNC) là động lực chính trong việc di chuyển các nguồn lực
trên phạm vi quốc tế, trong đó có các hoạt động đầu tư quốc tế thông qua sáp nhập, nghiên cứu và
triển khai, sản xuất và phân phối hàng hoá và dịch vụ …;
5. Các thể chế kinh tế, tài chính, thương mại toàn cầu và khu vực có vai trò ngày càng quan
trọng trong điều tiết các hoạt động kinh tế quốc tế, trong đó có sự vận động của dòng FDI;
6. Các nước tư bản phát triển, một số nền kinh tế và liên kết kinh tế lớn đóng vai trò chủ đạo
trong xuất khẩu và tiếp nhận FDI.
Đặc trưng nổi bật nhất và chi phối các đặc trưng khác của toàn cầu hoá là xu hướng tự do
hoá cao độ các hoạt động kinh tế và quốc tế hoá các nguồn lực. Tuy nhiên, song song với tiến trình
tự do hoá này, các nền kinh tế, các quốc gia cũng trở nên phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn; đồng thời
cũng có xung đột lợi ích nhiều hơn. Trong đó, các quốc gia phát triển, với những lợi thế so sánh của
mình, chắc chắn sẽ có khả năng chi phối nhiều hơn đối với nền kinh tế thế giới so với các quốc gia
và nền kinh tế đang phát triển. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến những mâu thuẫn ngày càng sâu sắc hơn
giữa các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, và mâu thuẫn nội tại của quá trình phát triển: đó
là mâu thuẫn giữa nhu cầu gia tăng tài sản tiêu dùng của thế giới với nguồn tài nguyên ngày càng
cạn kiệt. Mâu thuẫn này, tới lượt nó lại đòi hỏi phải được giải quyết trên quy mô toàn cầu với sự
hợp tác của các quốc gia và tiếp tục thúc đẩy tiến trình toàn cầu hoá như một chu kì khép kín: Hợp
tác – mâu thuẫn – hợp tác. Chu kì này phản ánh bản chất khách quan của tiến trình toàn cầu hoá,
đồng thời cũng chứa đựng trong nó những đặc trưng như đã trình bày ở trên.
Xuất phát từ những đặc điểm trê, chúng ta có thể khái quát những tác động của toàn cầu
hóa đến nền kinh tế (ở đây đề cập đến các nước đang phát triển) ở những khía cạnh sau:
• Tác động tích cực của toàn cầu hoá
(1) Phát huy được lợi thế so sánh để phát triển
Toàn cầu hoá tạo ra những thời cơ thuận lợi cho sự phát triển của các nước đang phát triển.
Một trong những thời cơ thuận lợi đó là các nước đang phát triển nếu chủ động, linh hoạt, sáng tạo
trong hội nhập thì sẽ phát huy được lợi thế so sánh của mình trong quan hệ kinh tế quốc tế.
(2) Tăng nguồn vốn đầu tư
Kinh tế toàn cầu hóa biểu hiện nổi bật ở dòng luân chuyển vốn toàn cầu. Điều đó tạo cơ hội
cho các nước đang phát triển có thể thu hút được nguồn vốn bên ngoài cho phát triển trong nước,
nếu nước đó có cơ chế thu hút thích hợp. Thiết lập một cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư nội địa hợp
lý là cơ sở để định hướng thu hút đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm các ưu
đãi từ những điều kiện và môi trường đầu tư bên trong để thúc đẩy chương trình đầu tư của họ.
(3) Nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ
Trước xu thế toàn cầu hóa, các nước đang phát triển tuỳ theo vị thế, điều kiện lịch sử cụ thể
và trình độ phát triển của mình đều có cách thức riêng phát triển theo con đường rút ngắn. Hai trong
số nhiều con đường phát triển là: Thứ nhất, du nhập kỹ thuật - công nghệ trung gian từ các nước
phát triển để xây dựng những ngành công nghiệp của mình như là một bộ phận hợp thành trong
tầng công nghiệp hiện đại. Tuỳ thuộc vào khả năng vốn, trí tuệ... mà các nước đang phát triển lựa
chọn một hoặc cùng lúc cả hai con đường phát triển nói trên. Toàn cầu hóa cho phép các nước đang
phát triển có điều kiện tiếp nhận các dòng kỹ thuật - công nghệ tiên tiến, hiện đại từ các nước phát
triển để nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ của mình. Nhưng điều đó còn phụ thuộc vào khả
năng của từng nước biết tìm ra chiến lược công nghiệp hoá rút ngắn thích hợp.
(4) Thay đổi được cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực
Toàn cầu hóa đòi hỏi nền kinh tế của các quốc gia, trong đó có các nước đang phát triển phải
tổ chức lại với cơ cấu hợp lý. Kinh tế thế giới đang chuyển mạnh từ nền kinh tế công nghiệp sang
nền kinh tế tri thức. Quá trình toàn cầu hóa sẽ dẫn đến tốc độ biến đổi cao và nhanh chóng của nền
kinh tế toàn cầu, điều đó buộc nền kinh tế mỗi nước, muốn phát triển, không còn con đường nào khác
là phải hoà nhập vào quỹ đạo vận động chung của nền kinh tế thế giới.
(5) Mở rộng kinh tế đối ngoại
Toàn cầu hóa làm cho quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế trở thành xu hướng tất yếu và
diễn ra hết sức mạnh mẽ do sự phát triển cao của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ. Toàn cầu hóa đang diễn ra với tốc độ cao, càng đòi hỏi mạnh mẽ việc
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nền kinh tế, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
(6) Cơ sở hạ tầng được tăng cường
Quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra cơ hội để nhiều nước đang phát triển phát triển hệ thống cơ
sở hạ tầng về giao thông vận tải, về bưu chính viễn thông, về điện, nước thông qua việc thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.
(7) Học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến
Các nước có nền kinh tế phát triển thường có phương thức, cách thức quản lý nền kinh tế
tiên tiến với những công cụ quản lý hiện đại. Thông qua các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế các
nước đang phát triển học tập những kinh nghiệm quản lý tiên tiến hiện đại của các nước phát triển.
Học tập trực tiếp qua các dự án đầu tư, qua các Xí nghiệp, Công ty liên doanh...., qua việc đàm
phán ký kết các hợp đồng kinh tế...
• Tác động tiêu cực của toàn cầu hoá
(1) Tăng trưởng kinh tế không bền vững do phụ thuộc vào xuất khẩu
(2) Lợi thế của các nước đang phát triển đang bị yếu dần
(3) Nợ nần của các nước đang phát triển tăng lên
(4) Sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu kém
(5) Mở rộng lãnh thổ, tăng thêm dân số.
(6) Phân hoá giàu nghèo giữa hai nhóm nước: phát triển và đang phát triển tăng lên
(7) Môi trường sinh thái ngày càng xấu đi
Trong khuôn khổ và mục tiêu của đề tài, mặc dù toàn cầu hoá diễn ra trong nhiều lĩnh vực,
Chương II của đề tài sẽ chỉ tập trung phân tích tác động của toàn cầu hoá đến năng lực nền kinh tế
xét trên khía cạnh các nguồn lực cho việc thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại
Việt Nam.
CHƯƠNG 2
TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ ĐẾN VIỆC CẢI THIỆN NĂNG LỰC KINH
TẾ VIỆT NAM
2.1. Tác động tích cực của toàn cầu hóa đến việc cải thiện các nguồn lực kinh tế của Việt
Nam
2.1.1. Toàn cầu hóa là phương cách để tạo dựng và mở rộng thị trường xuất nhập khẩu điều kiện quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển của nước ta trong giai đoạn hiện nay
Từ nền kinh tế hướng nội, khép kín chuyển sang nền kinh tế thị trường hướng về xuất khẩu,
thị trường xuất nhập khẩu luôn đóng vai trò quyết định trong bước chuyển chiến lược. Vượt qua
cách tiếp cận của các nước Đông Á trước đây, Việt Nam đã tận dụng tốt hiệu ứng tác động của toàn
cầu hóa để đẩy mạnh hội nhập, mở rộng các quan hệ đối tác thương mại theo đó, thị trường xuất
khẩu của ta đã phát triển nhanh, rộng khắp với hầu hết các quốc gia và lãnh thổ. Sau gần 20 năm đổi
mới từ chỗ phụ thuộc đáng kể vào khu vực thị trường Đông Âu, đến nay thị trường xuất khẩu của
Việt Nam đã mở rộng sang trên 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Riêng trong các năm gần đây Việt
Nam đã mở rộng được gần 25 thị trường xuất khẩu mới, ký thêm 13 Hiệp định song phương và 2
Hiệp định khung về kinh tế - thương mại. Đặc biệt đáng lưu ý, 4 đối tác thương mại hàng đầu thế
giới là Mỹ, EU, Nhật bản và Trung Quốc cùng với ASEAN đã chiếm gần 90% tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam. Nghĩa là, nếu như năm 2000 xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc và thị trường
Châu Á (80% tổng kim ngạch xuất khẩu) thì từ năm 2001 đến nay, phần của EU và Mỹ đã tăng lên
gần 40% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của ta. Riêng thị trường Mỹ: trong năm 2009, kim ngạch
xuất nhập khẩu của ta đã đạt tới 7 tỷ USD. Nhờ vậy, hoạt động xuất khẩu chung của Việt Nam đã
đạt được các kết quả rất đáng khích lệ. Nếu năm 1990 tổng kim ngạch xuất khẩu mới chỉ đạt 2,4 tỷ
USD, nhập khẩu là 2,7 tỷ USD thì đến năm 2009 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 56,584 tỷ USD và
nhập khẩu đạt 68,83 tỷ USD.
Thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu và chất lượng tiêu dùng của thị trường bên ngoài, cơ
cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng được đổi mới với mở rộng theo hướng đa dạng hóa
và tăng tỷ trọng hàng hóa đã qua chế biến. Nếu năm 1991 tỷ trọng xuất khẩu dầu thô sơ chế các mặt
hàng có nguồn gốc tự nhiên hơn 80,6% thì đến năm 2004 nón hàng này chỉ còn 43% và theo đó
hàng chế biến đã tăng lên tới 57%. Bằng chứng nổi bật là việc tham gia AFTA và theo đó, được
hưởng lợi từ Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) với thuế suất 0 – 5% đã góp
phần tích cực để Việt Nam phát triển và thúc đẩy xuất khẩu 15 nhóm mặt hàng sản phẩm công
nghiệp chế biến. Điều đó cũng có nghĩa là hội nhập kinh tế đã tạo bước ngoặt lớn để Việt Nam thoát
ra khỏi tình trạng các nước xuất khẩu tài nguyên và hơn nữa, trên cơ sở lợi thế của mình Việt Nam
có thể tham gia được vào hệ thống phân công lao động quốc tế một cách hiệu quả.
Với tỷ trọng thương mại quốc tế trên GDP đạt tới 127% và kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu
người là khoảng 325 USD năm 2009. Nền kinh tế Việt Nam đã trở thành một trong những nền kinh
tế mở và hội nhập ở mức tương đối cao trong hệ thống thương mại quốc tế. Theo đánh giá của các
chuyên gia kinh tế, điều này đã có tác động tích cực đối với phát triển thị trường trong nước. Bởi lẽ
việc thúc đẩy tự do hóa nhập khẩu theo hướng công nghiệp hóa với 94,5% nhóm hàng nhập khẩu là
thiết bị, phụ tùng nguyên liệu hoạt động nhập khẩu đã tạo ra tiền đề quan trọng để dịch chuyển cơ
cấu kinh tế nhằm phát triển các ngành công nghiệp chế tạo, chế biến. Hơn nữa, các nỗ lực cải cách
toàn diện bên trong nền kinh tế theo hiệu ứng của mở rộng thị trường bên ngoài sẽ góp phần làm
sống động và gia tăng mức độ tự do hóa thị trường nội địa. Bên cạnh hệ thống phân phối của các
doanh nghiệp trong nước, nhiều công ty nước ngoài đã mở rộng mức độ tham gia vào hệ thống dịch
vụ này và nhờ vậy, người tiêu dùng Việt Nam đã có thêm nhiều cơ hội để mua hàng hóa với nhiều
chủng loại và chất lượng tốt. Nói cách khác, văn minh thương mại ở Việt Nam đã gia tăng một
bước và đang trở thành điều kiện quan trọng có tác động tích cực trở lại sản xuất.
Tóm lại, nhờ thúc đẩy hội nhập và hướng mạnh theo chính sách thương mại hóa tự do bằng
cách giảm dần, tiến tới xóa bỏ các hàng rào về thuế quan và phi thuế quan, xóa bỏ quyền ngoại
thương, mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp, thực hiện các biện pháp
khuyến khích xuất nhập khẩu thông qua các đòn bẩy: tỷ giá hối đoái, thuế quan, lãi suất, xúc tiến
thương mại, chủ động tích cực tham gia vào các định chế thương mại song phương, khu vực toàn
cầu, … thương mại Việt Nam đang trở thành một khu vực năng động, có hiệu ứng tích cực trong
việc phát huy nội lực, khai thác hiệu quả các nguồn lực bên ngoài để thực hiện mục tiêu tăng trưởng
nhanh, có hiệu quả và chất lượng trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
2.1.2. Toàn cầu hóa là phương thức khơi thông, huy động và phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực, trước hết là vốn và công nghệ
FDI đã giữ vai trò trọng yếu trong nền kinh tế Việt Nam. Trước hết đây là nguồn vốn bù đắp
vào tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng của nền kinh tế Việt Nam khi bắt đầu phát triển. Hơn nữa đây
là dạng vốn đầu tư an toàn, không gây nợ, ít hậu quả tiêu cực do FDI là dòng vốn dài hạn, không dễ
bị rút ồ ạt trước các thay đổi đột ngột về kinh tế chính trị. Nhưng điều quan trọng nhất, FDI tác
động lên tăng trưởng nhờ làm tăng và đổi mới các yếu tố đầu vào cùng với vốn là công nghệ mới,
kỹ năng quản lý, thiếp thị…. Tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, khai thác được lợi
thế so sánh và cuối cùng thông qua cải tiến năng suất lao động cũng như năng xuất tổng các nhân tố
(TFP) sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Kể từ năm 1998 đến hết năm 2006 đã có khoảng trên 6000 dự án được cấp phép với tổng vốn
đăng ký hơn 68 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện hơn 35 tỷ USD, có khoảng 800 doanh nghiệp thuộc
70 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Giai đoạn từ 1992 – 1996, thu hút vốn đầu
tư nước ngoài tăng nhanh. Từ năm 1997 – 2000 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền
tệ trong khu vực và một phần do sự chậm chễ trong việc cải thiện môi trường đầu tư của nước ta,
FDI vào Việt Nam giảm sút nghiêm trọng. Từ năm 2001 trở lại đây nhờ những nỗ lực quan trọng
của chính phủ Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư FDI vào Việt Nam đã tăng trở lại.
Năm 2009 thu hút FDI đạt 20 tỷ USD tăng 50% so với năm 2006. Tuy nhiên đây vẫn là con số thấp
so với năm 2008 (bằng 1/3) dự kiến của nhà nước dòng vốn FDI sẽ trở lại Việt Nam trong năm
2010.
Đầu tư nước ngoài đống góp phần tương đối quan trọng cho tăng trưởng GDP của Việt Nam.
Cơ cấu GDP, tỷ trọng FDI ngày càng gia tăng chiếm 6,41% năm 1994 lên 15,1% năm 2004. Trong
5 năm 2001 – 2005 khu vực đầu tư nước ngoài đóng góp khoảng 15,5% GDP. Giá trị xuất khẩu của
khu vực đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) cũng gia tăng nhanh chóng qua các năm trong năm
2001 – 2005 đạt trên 34 tỷ USD, đóng góp 35% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tính
cả dầu thô tỷ lệ này là 56%. Riêng năm 2006, xuất khẩu đạt 14,6 tỷ USD tăng 30,1% so với năm
trước.
Kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng ngày một gia tăng trong
những năm qua, Năm 2007 đạt 27,3 tỷ USD chiếm 56,9% trong tổng kinh ngạch xuất khẩu của cả
nước, gấp gần 30 lần so với năm 1996. Một điều cần quan tâm là xuất khẩu của khu vực này có xu
hướng tăng liên tục trong những năm gần đây và trở thành động lực chính dẫn dắt tăng trưởng xuất
khẩu nước ta. Xu hướng này thể hiện chủ trương khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài theo
hướng xuất khẩu đã phát huy tác dụng, góp phần tăng trưởng kinh tế và giảm thâm hụt cán cân
thương mại, làm lành mạnh hóa cán cân thanh toán nước ta.
Bảng 1: Kim ngạch và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khu vực có VĐT nước ngoài
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
2004
2001 – 2004
Tổng kim ngạch (triệu USD)
15.027
16.706
20.176
26.003
77.909
Tăng trưởng (%)
104
111
121
129
115,81
Doanh nghiệp 100% vốn trong nước
8.228
8.834
10.015
11.724
38.319
(triệu đồng)
Tăng trưởng (%)
108
107
113
117,2
111,23
DN có vốn ĐTNNN (triệu USD)
6.799
7.972
10.161
14.261
39.093
Tăng trưởng (%)
99,9
116
129
140,3
120,34
Như vậy nguồn vốn đâu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một bộ phận quan trọng trong tổng
đầu tư toàn xã hội ở nước ta. Mặc dầu chiếm tỷ trọng không cao (bình quân khoảng 17%) nhưng đã
đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Bảng 2: Đóng góp của FDI đối với vốn đầu tư phát triển giai đoạn 1995 – 2003
Tổng vốn đầu Khu vực kinh Khu vực ngoài
Khu vực
Tỷ trọng FDI
Năm
tư phát triển
tế nhà nước
quốc doanh
FDI
(%)
1995
72,4
30,34
20
23,39
32,3
1996
87,4
42,9
21,8
25
28,6
1997
108,4
53,6
24,5
33,9
31,3
1998
117,1
65
27,8
29,16
24,9
1999
131,2
76,9
31,5
23,88
18,2
2000
145,3
83,6
34,6
24,41
16,8
2001
163,5
95
38,5
39,24
24
2002
183,8
103,3
46,5
34
18,5
2003
217,6
123
58,1
36,4
16,8
FDI đóng góp một phần quan trọng vào việc tạo ra giá trị công nghiệp, đẩy nhanh quá trình
tăng trưởng sản lượng công nghiệp, góp phần thúc đẩy mạnh quá trình phát triển của kinh tế Việt
Nam. Khu vực FDI đã đóng góp tới 36,4% giá trị sản lượng công nghiệp thức là tương đươcng với
giá trị sản lượng công nghiệp của khu vực Nhà Nước. Hơn nữa khu vực FDI có tốc độ tăng giá trị
sản lượng công nghiệp nhanh hơn nhiều các khu vực khác của nền kinh tế. Chính khu vực này đã là
động lực chính làm cho sản lượng toàn ngành công nghiệp tăng hai chữ số ở thời kỳ những năm
1999 và đầu những năm 2000. Cũng cần phải nói rằng khu vực nhà nước tăng trường khá chậm so
với khu vực FDI và đặc biệt so với khu vực tư nhân trong những năm 2000.
Bảng 3: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp
Thời kỳ
Toàn ngành
DNNN
ngoài QD
FDI
1991 – 1995
13,7
13,4
10,6
23,3
1996 – 2000
13,9
9,8
11,6
22,4
2001 - 2003
15,1
12,1
19,8
15,6
Do các chủ thể của FDI là các công ty xuyên quốc gia nên sự hiện diện của dòng vốn này
đồng thời là quá trình đẩy nhanh sự phát triển của các ngành dựa trên công nghiệp tiên tiến, thúc
đẩy quá trình hiện đại hóa và tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển. Khi vào một thị trường mới,
FDI luôn gắn liền với áp dụng công nghệ mới, thực hiện chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý
từ các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường nội địa để đảm bảo tính cạnh tranh của sản phẩm. Do
đó khu vực FDI là khu vực tạo ra một động lực mạnh mẽ để phát triển nền kinh tế, áp dụng phương
pháp và phương tiện sản xuất tiên tiến nâng cao hàm lượng công nghệ mới trong sản phẩm. FDI
hiện gần như đóng vai trò quyết định cho việc phát triển những ngành dựa then công nghệ cao ở
Việt Nam. FDI đã giúp Việt Nam phát triển nhiều ngành công nghiệp và sản phẩm. Hiện nay, FDI
chiếm 100% về khai thác dầu, sản xuất ô tô, máy giặt, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ, thiết bị văn
phòng, … . FDI cũng chiếm 60% sản lượng thép tấm, 28% xi măng, 33% sản phẩm điện/điện tử,
76% thiết bị y tế.
Tóm lại FDI có vai trò đáng kể trong GDP của cả nước và góp phần nâng cao mức tăng
trưởng chung của nền kinh tế và dĩ nhiên, góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển của Việt Nam.
Trung bình khu vực FDI đóng góp gần 10% vào GDP trong giai đoạn 1995 – 2002 chỉ đứng sau
khu vực kinh tế nhà nước. Hơn nữa đóng góp của khu vực này có xu hướng tăng lên. Kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 14% của GDP năm 2002. Sự tăng nhanh và liên tục của phần đóng
góp của khu vực FDI với nền kinh tế đã góp phần tạo những tiền đề quan trọng cho tăng trưởng liên
tục đảm bảo được tính bền vững của tăng trưởng
Toàn cầu hóa kinh tế cũng đã bắt đầu khơi thông nguồn vốn gián tiếp nước ngoài rất cần thiết
và quan trọng cho sự phát triển các nguồn lực của kinh tế Việt Nam. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là
khoản đầu tư được thực hiện thông qua những định chế tài chính trung gian như quỹ đầu tư hoặc đầu
từ trực tiếp vào cổ phần của các công ty niên yếu trên thị trường chứng khoán. Tại các nước có thị
trường vốn được tự do hóa hoàn toàn, các công cụ điều tiết vĩ mô có tác dụng đầy đủ trong việc huy
động vốn đầu tư cho phục hồi kinh tế và tăng trưởng. Dĩ nhiên, xuất phát từ thực tế phát triển đất
nước, việc tự do hóa tài chính thường phải rất thận trọng song điều đó không đồng nghĩa với dè dặt,
ngập ngừng thậm chí quay lưng với luồng vốn gián tiếp. Mặc dù vậy, đầu tư trực tiếp vào các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam mới chỉ chiếm 0.6% GDP. Tổng giá trị của tất cả
các công ty niêm yết tại Việt Nam chỉ bằng 1/275 lần, tức là khoảng 0.4% tổng quy mô của thị trường
Indonexia, cũng là một thị trường vốn còn rất bé nhỏ. Tính thanh khoản của thị trường chứng khoán
cũng còn kém. Một số lý do dẫn đến việc thu hút vào thị trường đầu tư gián tiếp nước ngoài kém chủ
yếu là:
- Tính minh bạch của các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế còn thấp
- Do giới hạn mức 30% đầu tư nước ngoài vào các công ty thành lập theo luật doanh nghiệp,
và việc đầu tư bị giới hạn vào một số ngành nghề nhất định
- Danh sách các công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán còn nhỏ, khung pháp lý
còn hạn chế
Mặc dù điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cơ hội để Việt Nam tiếp cận với luồng
vốn gián tiếp còn là vô cùng lớn và sẽ là một kênh thu hút vốn quan trọng của Việt Nam trong thời
gian tới. Nó thực sự quan trọng thể hiện nền kinh tế Việt Nam đã thực sự là bộ phận hữu cơ của nền
kinh tế thế giới.
Toàn cầu hóa đã đẩy mạnh thu hút ODA vào các công trình kết cấu hạ tầng tạo điều kiện quan
trọng và căn bản cho phát triển nhanh và bền vững. Thực tế đã cho thấy rằng, phát triển hạ tầng cơ
sở như điện, đường, viễn thông… đóng vai trò hết sức quán trọng cho phát triển kinh tế vùng, đặc
biệt là các vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa. Phần lớn ODA vào Việt Nam đều sử dụng vào
phát triển kết cấu hạ tầng sản xuất xã hội, Trong đó điện chiếm khoảng 26%, giao thông vận tải
chiếm khoảng 27%, tính dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế: 10%, nông nghiệp: 14.3%.... Nguồn vốn
ODA cam kết vào Việt Nam liên tục tưng sau khi mở cửa và đẩy mạnh hội nhập. Mặc dù vãn đề
giài ngân vốn ODA hiện còn nhiều vướng mắc, cản trở lớn đến việc phát huy và tận dụng nguồn lực
quá trọng này cho phát triển bền vững nhưng sự đóng góp của ODA vào tăng trưởng kinh tế là rất
rõ ràng
Cùng với việc tiếp nhận các nguồn vốn bên ngoài, Toàn cầu hóa kinh tế đã tạo điều kiện và là
phương thức để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận và tích cực tranh thủ áp dụng những thành tựu
mới nhất của Khoa học kỹ thuật và công nghệ. Đó là các công nghệ mới tiên tiến được chuyển giao
thông qua các hoạt động của các công ty đa quốc gia, các công nghệ kỹ thuật được lựa chọn mua lại
từ các hợp đồng chuyển giao trực tiếp và nhất là một đội ngũ những người lao động có kỹ năng được
đào tạo trực tiếp từ các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Thông qua các công trình đầu tư nước ngoài khoảng 50 vạn lao động trực tiếp, trong đó có tới
8.000 cán bộ quản lý và 3.000 cán bộ kỹ thuật được đào tạo và trưởng thành. Ngoài ra từ năm 1991
đến nay, Việt Nam đã đưa hơn 400.000 người đi lao động, làm việc ở nước ngoài, hàng năm đem vè
cho đất nước trên 1 tỷ USD. Số người này cũng có cơ hội được đào tạo nâng cao tay nghề trong thời
gian làm việc ở nước ngoài. Số sinh viên đang học tập ở nước ngoài cũng ngày càng tăng. Hiện nya
có khoảng 30.000 học sinh. Sinh vien đang theo học tại nước ngoài tập trung chủ yếu tại Liên bang
Nga, Mỹ, Vương quốc Anh, Singapo, Australia, Đức, Pháp, Nhật Bản…
2.1.3. Toàn cầu hóa là “ngoại áp” để thúc đẩy cơ cấu lại ngành kinh tế và tạo dụng khả
năng cạnh tranh cho nền kinh tế Việt Nam
Mở cửa và tăng cường hội nhập đã làm thay đỏi tư duy phát triển về ngành và cơ cấu ngành
kinh tế. Các ngành kinh tế được phát triển gắn với thị trường hơn và gắn với lợi thế so sánh hơn.
Tham gia vào thì trường quốc tế đã làm bật ra những lợi thế so sánh cũng như các điểm mạnh, điểm
yếu của nền kinh tế và vì thế làm cho một số ngành có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Nhờ mở cửa và
hội nhập cơ cấu ngành của Việt Nam dã chuyển dịch mạnh theo hướng tăng nhanh tỷ tọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP. Công nghiệp và dịch vụ có tỷ trọng tăng dần trong cơ cấu kinh tế
trong gần hai thập kỷ vừa qua. Nông – lâm – ngư nghiệp đã giảm mạnh trang tỷ trọng GDP, từ
38,06% năm 1986 xuống còn 21,80% năm 2003 tức giảm 16,26% điểm phần trăm Một số tỉnh, chỉ
trong vòng 15 năm từ một tỉnh thuần nông đã trở thành một tỉnh công nghiệp. Ví dụ như ở Bình
Dương công nghiệp và dịch vụ chiếm 95% tăng trưởng GDP, trong khi nông nghiệp chỉ còn khoảng
5% GDP, xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ đạt tới 85% - 90% tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu, gần bằng với mức của các nước NICs Đông Á trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa.
Như vậy, có thể nói hiệu ứng của Toàn cầu hóa kinh tế là khá tích cực đối với việc tạo đột phá trong
công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn
Nhìn chung trong cả nước có thể thấy các ngành công nghiệp xây dựng đã tăng tỷ trọng từ
28,88% năm 1986 lên đến 39,97% năm 2003 tức tăng 11,09 điểm phần trăm. Ngành dịch vụ tăng
tương đối rõ, tuy nhiên không đều.
Chuyển dịch cơ cấu ngành phụ thuộc khá nhiều vào tốc độ tăng trưởng nhanh của một số
ngành công nghiệp khai khoáng và chế biến là những ngành có liên quan mật thiết đến xuất khẩu và
sự biến động của thị trường thế giới. Ngành khai thác mỏ đã có những bước tiến vượt bậc trong gần
hai thập niên vừa qua. Ngành dầu khí từ chỗ chưa khai thác được gì nay đã có sản lượng gần 20
triệu tấn/năm. So với thời kỳ đầu đổi mới, sản lượng than tăng gấp 3 lần và đạt tới 20 triệu tấn/năm.
Các ngành mỏ và khai khoáng đã có mức tăng trưởng về giá trị gia tăng tới 20%/năm tạo nên sự
thay đổi quan trọng về vị trí của ngành này trong cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng của ngành này trong GDP
đã tăng từ 1,84% năm 1986 lên đến 9,43% năm 2003. Ngành công nghiệp chế biến phát triển
nhanh, chiếm tới 80% giá trị sản lượng công nghiệp. Trong đó, một số ngành có tăng trưởng rất cao
như may mặc và da giầy do xuất khẩu được ra thị trường các nước phát triển. Chế biến thủy sản
cũng có những bước phát triển mạnh, phục vụ cho ngành công nghiệp dân dụng. Các ngành này
chính là động lực của sự chuyển đổi và gia tăng hơn 11 điểm phần trăm của toàn ngành công nghiệp
và xây dựng trong hơn 20 năm qua, góp phần quan trọng vào việc đẩy mạnh phát triển nền kinh tế
đất nước.
Cũng phải nói thêm rằng dù chiếm tới 80% giá trị sản lượng ngành công nghiệp các ngành công
nghiệp chế biến chỉ đóng góp 50% giá trị tưng của toàn ngành công nghiệp và xây dựng. Lý do là các
nghành chế biến hiện còn tập trung nhiều vào sản xuát các sản phẩm gia công và sản phẩm chế biến
có giá trị thấp. Bên cạnh đó, sản phẩm của ngành khai khoáng vẫn là than và dầu thô là chủ yếu mà
chưa có nhiều các sản phẩm hóa chất và sản phẩm đã qua chế biến. Tình trạng đó làm cho khả năng
cạnh tranh của các ngành công nghiệp này vẫn còn thấp.
Trong khu vực dịch vụ, tài chính và tín dụng là các phân ngành có tốc độ tăng trưởng cao, tới
10,89% trong giai đoạn 1999 – 2003 và ……., tốc độ này còn cao hơn đáng kể tốc độ tăng trưởng
trung bình của khu vực dịch vụ. Tuy nhiên do tỷ trọng của các phân ngành này trong tổng giá trị của
khu vực dịch vụ còn nhỏ chưa tạo được sự tăng trưởng mạnh. Dù vậy, tốc độ tăng trưởng cao của
phân ngành này cho thấy các ngành dịch vụ cao cấp đã tiềm tàng những yếu tố phát triển nhanh và
do đó, sẽ có ảnh hưởng mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của
nền kinh tế.
Toàn cầu hóa kinh tế làm tăng khả năng cạnh tranh của một số ngành kinh tế, biến các ngành
này thành các ngành mũi nhọn cho phát triển kinh tế. Dệt may, da giầy chế biến thủy sản, chế biến
nông sản của Việt Nam là những ví dụ điển hình. Mặc dù chưa phải là những ngành có khả năng
cạnh tranh cao trên thế giới, nhưng ít ra đã có một số thương hiệu sản phẩm thuộc các nhớ hàng này
của Việt Nam được quốc tế công nhận. Tuy nhiên cạnh tranh trên thế giới đang ngày càng khốc liệt
hơn, đặc biệt là áp lực cạnh tranh từ các sản phẩm của Trung Quốc, Ấn Độ và các nước trong khu
vực Châu Á - là những nước sản xuất nhiều chủng loại sản phẩm tương tự với các ngành xuất khẩu
chủ lực của nước ta. Áp lực này đòi hỏi Việt Nam luôn luôn chủ động nâng cao khả năng cạnh
tranh.
Chính vì thế có thể khẳng định rằng cơ hội để tăng khả năng cạnh tranh từ hội nhập thì có
nhưng để tận dụng được cơ hội đó còn là một vấn đề nan giải. Toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành
một kênh quan trọng để biến các cơ hội đó thành hiện thực, tạo ra khả năng tiếp nhận thích nghi để
tiến tới phát triển các ngành công nghệ mới ở nước ta, cùng hợp lực với nguồn lực dồi dào, cần cù
sang tạo, hôi nhập kinh tế quốc tế đã giúp Việt Nam có điều kiện và cơ sở để có những bước rút
ngắn, nhảy vọt, tiếp cận kinh tế tri thức mà không cần phải trải qua nhiều những giai đoạn trăn trở
về tìm tòi, thử nghiệm. Nói cách khác, chúng ta có thể tận dụng được các lợi thể của người đi sau.
Tham gia hội nhập Việt Nam có thể có những cơ hội tham gia vào một số những mắt xích sản xuất
của mạng hoặc chuỗi sản xuất quốc tế, nơi áp dụng các công nghệ và kỹ thuật hàng đầu trên thế
giới, nơi áp dụng các công nghệ và kỹ thuật hàng đầu trên thế giới. Các công ty ô tô của Việt Nam
đã có kế hoạch sản xuất và xuất khẩu sản phẩm linh kiện ra nước ngoài. Người Việt Nam đã tham
gia vào những ngành công nghiệp cao như hàng không, vụ trụ… Nhiều công ty đã bắt đầu xuất
khẩu phần mềm ra nước ngoài. Rõ ràng, mở cửa và hội nhập đã cho phép các nước đi sau như Việt
Nam tham gia vào thị trường và mạng sản xuất quốc tế, tận dụng những lợi thế so sánh, đi sau vào
sản xuất chuyên môn hóa, phát triển nhanh các ngành công nghiệp mới, và do đó, tạo ra được
những động lực quan trọng đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa.
Song song với tác động tới các hàng hóa xuát khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu sang thị
trường nước ngoài, Toàn cầu hóa kinh tế cũng tạo ra sức ép nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản
phẩm hàng hóa tiêu thụ ở trong nước. Mở cửa hội nhập nền kinh tế là đi kèm với giảm bớt các hàng
rào thương mại, đầu tư, tài chính, thể chế… làm cho các luồng hàng hóa và vốn thông thương với bên
ngoài. Mở cửa tạo ra mộ dòng hàng hóa từ bên ngoài đổ vào thị trường trong nước. Điều đó tạo ra
một sức ép cạnh tranh đối với các hàng hóa sản xuất trong nước và hướng vào đáp ứng nhu cầu của
thị trường trong nước. Yêu cầu cạnh tranh về chất lượng, giá cả, mẫu mã… đến lượt nó lại thúc ép các
nhà sản xuất nội địa phải nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của mình để tồn tại trên thị trường.
Cuộc chiến cạnh tranh trở nên quyết liệt ngay chính trên thị trường nội địa sẽ tạo ra một động lực
mạnh mẽ nhằm phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp truyền thống
lẫn các ngành công nghiệp mới.
Hội nhập cũng góp phần tạo ra các thay đổi quan trọng trong di chuyển tự do về lao động nhất
là lao động có kỹ năng giữa các ngành và các vùng. Sự phát triển của các ngành công nghiệp có lợi
thế so sánh khi hội nhập vào kinh tế thế giới sẽ tạo ra một sự dịch chuyển lào động từ ngành không
có lợi thế so sánh sang ngành có lợi thế so sánh. Các ngành công nghiệp chế biến, sử dụng nhiều
nhân công lao động rẻ là những ngành đóng vai trò trụ cột trong tạo việc làm và sử dụng nguồn
nhân lực phong phú ở Việt Nam. Do các ngành này có năng suất cao hơn và tiền lương cao hơn nên
có sự dịch chuyển về lao động giữa các ngành và các vùng địa lý: từ các ngành có năng suất thấp
sang các ngành có năng suất cao hơn, từ vùng nông thôn có nhiều lao động thừa tuyệt đối và thừa
một phần thời gian sang các thành phố và vùng phát triển về dịch vụ và tập trung nhiều nhà máy, xí
nghiệp của các ngành công nghiệp chế biến. Mặc dù lao động vẫn tập trung chủ yếu trong khu vực
nông lâm ngư nghiệp truyền thống, song tỷ trọng lao động của nông lâm ngư nghiệp trong tổng số
lao động đã giảm ở Việt Nam. Năm 1990 lao động trong khu vực này chiếm 73,02% tổng lao động
cả nước, đến năm 2000, tỷ lệ này chỉ còn 68,24%. Lao đọng trong khu vực công nghiệp xay dựng
chiếm 11,24% lao động cả nước năm 1990 đã tăng lên 12,11% năm 2000. Khu vực dịch vụ chiếm
tới 9,65% tổng lực lượng lao động năm 2000 tỷ lệ lớn thứ hai trong 3 ngành. Các số liệu trên cho
thấy tốc độ chuyển dịch rõ rệt về lao động giữa các ngành trong thập niên 90. Tốc độ tăng bình
quân hàng năm của khu vực công nghiệp và dịch vụ cao hơn hẳn. Điều đó có nghĩa là lao động
đang chuyển mạnh từ nông lâm ngư nghiệp sang công nghiệp xây dựng và dịch vụ.
Toàn cầu hóa kinh tế không những tạo ra sự dịch chuyển lao động giữa các ngành trong nền
kinh tế mà còn tạo ra sự di chuyển lao động sang các nước khác. Vào những năm 1980, dòng di
chuyển lao động quốc tế chính của Việt Nam là đến Liên Xo và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu. Tuy nhiên số người lao động Việt Nam hiện đang sống và làm việc tại các nước này đã giảm
xuống còn khoảng 200.000 người. Trong những năm đầu 1990, số người đi lao động ở nước ngoài
rất khiêm tốn, chủy yếu là đi Lào, làm các công việc liên quan đến xây dựng cầu, đường, nhà cửa.
Tuy hiên cho đến những năm gần đây, số các nước nhận lao động Việt Nam đã tăng từ 13 nước
năm 1992 lên đến 42 nước năm 2008 với tổng số người là hơn 35.000 người. Tăng xuất khẩu lao
động như vậy đã góp phần làm giảm bớt sức ép về việc làm đang tăng của thị trường lao động Việt
Nam. Trong một thập kỷ vừa qua, tỷ lệ tăng dân số trung bình hàng năm là 1,7%, trong khi mức
tăng trung bình hàng năm của dân cư trong độ tuổi lao động cao hơn rất nhiều, 2,6%. Kết quả là
mỗi năm Việt Nam có 1,3 triệu người bước vào tuổi lao động. Điều đó cho thấy sức ép về việc làm
hiện là rất lớn. Hội nhập quốc tế vừa góp phần làm giảm sức ép việc làm trong nước, vừa biến lực
lượng lao động của nước ta thành một lợi thế so sánh với các nước đang thiếu hụt lao động.
Dưới tác động của hội nhập, năng suất lao động cũng thay đổi mạnh mẽ. Khu vực công
nghiệp xây dựng có tốc độ tăng nhanh hơn về lao động: 8,1 so với 2,7 của khu vực nông lâm ngư
nghiệp trong cả thập kỷ 199. Năng suất lao động ở trong hai ngành công nghiệp xây dựng và dịch
vụ cao hơn hẳn năng suất lao động ở khu vực nông lâm ngư nghiệp. Năng suất lao động của ngành
công nghiệp xây dựng cao hơn khoảng 8,6 lần, năng suất của ngành dịch vụ cao hơn khoảng 2,2 lần
năng suất lao động của ngành nông lâm ngư nghiệp
Bảng 5: So sánh tăng năng suất lao động trong một số phân ngành tiêu biểu
(đơn vị tăng %)
Tăng năng suất lao
Tăng GDP
Tăng lao động
động
Cả nước
7,6
2,2
5,2
Một số ngành tốt về năng suất lao động
Khai thác
14,9
-1,8
17,0
Điện, ga, nước
11,7
0,5
11,1
Tài chính, tín dụng
11,8
-0,3
12,2
Một số ngành chưa tốt về năng suất lao động
Thương mại
6,6
7,1
-0,4
Thủy sản
5,1
9,7
-4,2
Dịch vụ tư vấn
7,1
12,3
-4,7
Như vậy nhìn từ tất cả các góc độ: chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu lao động và khả năng
cạnh tranh rõ ràng Toàn cầu hóa kinh tế đã tạo ra một bước chuyển biến thực sự trong cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa và nâng cao khả năng cạnh ranh của nền kinh tế Việt Nam. Ngoài
các tác động trực tiếp lên tăng trưởng, mức song của người dân… nền tảng và diện mạo của nền
kinh tế Việt Nam đã được nâng cao một bước to lớn và thích ứng hiệu quản hơn với các thay đổi
của bối cảnh quốc tế, khu vực.
2.1.4. Toàn cầu hóa kinh tế thúc đẩy quá trình hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường từ một nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, các thể chế thị trường vì thế chưa thể thiết lập đầy đủ ngay được. Tuy vậy, mở cửa và
toàn cầu hóa kinh tế đã góp thúc đẩy quá trình xây dựng và thiết lập các thể chế thị trường cần thiết.
Hội nhập kinh tế quốc tế trước hết làm bật ra nhu cầu và các vấn đề cần phải giải quyết của thị
trường và theo đó, là các thể chế tương thích để điều tiết các vấn đề ngày. Dựa trên ba yếu tố có tính
khuôn khổ:
- Thông tin về các điều kiện thị trường, hàng hóa và các bên tham gia
- Xác định và thực thi quyền sở hữu cũng như hiệu lực thi hành hợp đồng
- Đẩy mạnh cạnh tranh trên thị trường Toàn cầu hóa kinh tế đã đóng vai trò rà soát, kiểm định
hệ thống thể chế hỗ trợ thị trường, phat hiện ra những khiếm khuyết và non yếu của thể chế.
Điều này càng đặt biệ quan trọng và có ý nghĩa đối với các nước có thu nhập thấp, nơi thị
trường thường bị phân khúc, có nhiều rủi ro do hoạt động dựa vào các thể chế phi chính thức, chi
phí giao dịch cao do thiếu thông tin, quyền sở hữu không rõ ràng và quyền kinh doanh vẫn còn có
những hạn chế nhất định.
Nhận thức được phát triển kinh tế thị trường là điều kiện để hội nhập kinh tế quốc tế và chủ
dộng tích cực Toàn cầu hóa kinh tế là phương thức để thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường, từ
những năm cuối của thập kỷ 80, chính phủ đã chủ trương đẩy mạn cải cách kinh tế theo hướng thị
trường. Và theo đó chúng ta đã xóa bỏ độc quyền ngoại thương, mở rộng quyền kinh doanh thương
mại, xác lập quyền sở hữu, ban hành lật thương mại, luật doanh nghiệp, luật đầu tư nước ngoài….
Các loại thị trường cũng đang trong quá trình hình thành như thị trường đất đai, thị trường chứng
khoán thị trường khoa học công nghệ…
Như đã phân tích Toàn cầu hóa kinh tế vừa tạo sức ép trong việc thực hiện các cam kết quốc
tế, tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia nhiều hơn vào mạng lưới sản xuất quốc tế, tự do hóa mạnh
hơn thị trường trong nước, vừa tạo ra sức ép để cải cách đổi mới thể chế. Vì thế, Việt Nam phải
thiết lập và hoàn chỉnh thể chế nói chung và thể chế kinh tế nói riêng đáp ứng yêu cầu phát triển và
nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đất nước. Chẳng hạn để có được một môi trường kinh
doanh hấp dẫn đầu tư nước ngoài, tăng cường năng lực cạnh tranh và phát triển, các thể chế vè thị
trường đất đai phải được hoàn thiện. Dĩ nhiên việc hoàn thiện hệ thống thể chế bao gồm rất nhiều
yếu tố, như là: hoàn thiện các thể chế tạo dựng khả năng tiếp cận thị trường, khả năng quản trị hiệu
quả đối với doanh nghiệp, các thể chế tài chính, hệ thống tư pháp, hệ thống thể chế cạnh tranh…
Hội nhập kinh tế tạo ra một sức ép phải đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý
của Việt Nam theo thông lệ quốc tế. Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống pháp luật về các vấn đề
giao dịch vốn, cạnh tranh, chống độc quyền, bảo hộ sản phẩm nội địa, bảo hộ thương hiệu sản
phẩm, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu tài sản… Bên cạnh đó, hội nhập cũng đòi hỏi phải
nâng cao năng lực và hiệu lực của các cơ quan công quyền đáp ứng được với yêu cầu thị trường
hiện đại.
Việc hình thành các thể chế hỗ trợ thị trường cũng xuất phát từ yêu cầu và tác động hội nhập.
Các thay đổi và điều chỉnh về thể chế để đáp ứng được yêu cầu Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
cho thấy, việc thiết lập và hoàn thiện thể chế có liên quan rất mật thiết đến mở cửa và hội nhập.
Trong vụ kiện bán phá giá sản phẩm cá basa và tôm sang thị trường Mỹ, các phán quyết của tòa án
Mỹ về việc Việt Nam thiếu các yếu tố của thị trường là một ví dụ điển hình cho thấy việc tạo ra một
thể chế hỗ trợ thị trường ở các nước đi sau là khá khó khăn và thiếu nó sẽ ảnh hưởng đến cạnh
tranh. Hiệp định thương mại Việt Mỹ hay các cam kết trong khuôn khổ AFTA là những ví dụ nữa
cho thấy một khi hội nhập kinh tế, Việt Nam sẽ phải có những điều chỉnh về thể chế để tuân thủ
cam kết quốc tế, mở cửa các thị trường, trong đó có thị trường dịch vụ cho các nhà đầu tư.
2.2. Các thách thức chủ yếu của toàn cầu hóa đến các nguồn lực kinh tế của Việt Nam
2.2.1. Mối đe dọa trực tiếp đến sự sống còn của một số ngành Công nghiệp
Bên cạnh những cơ hội to lớn, Toàn cầu hóa kinh tế đã tạo ra những thách thức và đe dọa trực
tiếp đến sự sống còn của một số ngành sản xuất trong nước khi cạnh tranh với các sản phẩm của
nước ngoài. Mở cửa và hội nhập làm giảm và xóa bỏ các rào cản về thương mại - đầu tư, tăng
cường chuyển giao công nghệ và theo đó, sẽ có một dòng hàng hóa từ nước ngoài đổ vào thị trường
Việt Nam. Dòng hàng hóa này sẽ cạnh tranh và làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại một bộ phận
các phân ngành sản xuất trên thị trường nội địa. Một số nhà sản xuất trong nước lâm vào tình trạng
khó khăn trong cạnh tranh và có thể phải phá sản. Đối với thị trường hàng xuất khẩu cũng vậy, các
ngành sản xuất các mặt hàng sử dụng lao động rẻ cũng gặp những khó khăn khi phải cạnh tranh với
hàng hóa của những nước cùng có những khó khăn khi cạnh tranh với hàng hóa của những nước
cùng có những lợi thế về lao động rẻ và cơ cấu xuất khẩu giống như Việt Nam, chẳng hạn như hàng
dệt may, da giầy của các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Indonexia… hàng chế biến nông sản
của Brazil, Thái Lan… Do bị cạnh tranh dữ dội trên thị trường quốc tế, một số ngành hàng của Việt
Nan có thể bị đẩy ra khỏi các thị trường khu vực và quốc tế. Ngành dệt may là ngành bị ảnh hưởng
nhiều nhất, đặc biệt là sau khi hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may bắt đầu được gỡ bỏ từ 1/1/2005.
Như vậy, bên cạnh những tác động tốt, hội nhập cũng có những tác động không tích cực tới sự phát
triển của một số ngành công nghiệp, do đó, làm ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu và làm cho
quá trình phát triển của Việt Nam có thể chậm hơn nếu không có những phản ứng chính sách phù
hợp. Tuy nhiên do những ảnh hưởng có tính trực tiếp nên nó ngắn hạn, tạm thời và sẽ giảm thiểu đi
nhiêu khi các điều chỉnh phù hợp trong nước được thực hiện
2.2.2. Sự ổn định của tiến trình hội nhập luôn đối mặt với tính trở nên dễ bị tổn thương
của nền kinh tế
Toàn cầu hóa kinh tế làm cho nền kinh tế một nước trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế
giới. Do đó, những cú sốc của kinh tế quốc tế như khủng hoảng dầu mỏ, năng lượng, tài chính, sự
thay đổi giá cả trong sản phẩm nông nghiệp,,, sẽ làm cho các bộ phận của nền kinh tế thế giới bị tác
động. Ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 là một ví dụ về tính
dễ tổn thương của các nền kinh tế khi đi vào hội nhập. Với mức độ hội nhập cao như hiện nay, nền
kinh té nước ta sẽ chịu tác động rất lớn từ các sự biến động này. Điều có thể thấy rõ trong năm
2004, khi giá dầu thế giới có nhiều biến động, đặc biệt là giá xăng dầu, thép, tân dược … chỉ số giá
cả trong nước đã tăng đột biến với mức trung bình 9.5% và khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008,
làm nền kinh tế Việt Nam biến động. Mặc dù cải cách kinh tế theo hướng hội nhập ở nước ta trong
thời gian qua đã góp phần quan trọng trong việc gia tăng khả năng chống đỡ các cú sốc từ bên
ngoài, đảm bảo an ninh tài chính, song trên thực tế hiện na vẫn còn nhiều vấn đề nổi cộm và thách
thức đối với ổn định kinh tế vĩ mô nói chung, an ninh tài chính nói riêng. Nói cách khác, các cú sốc
bên ngoài sẽ ảnh hưởng lớn đến tiến tình phát triển kinh tế, khi mức độ thực hiện cải cách kinh tế
bên tỏng theo các cam kết hội nhập còn chưa đầy đủ. Cụ thể:
Thứ nhất, Việt Nam cho đến nay vẫn là một trong những quốc gia còn nhiều rào cản thương
mại thuế quan vẫn còn phức tạp quá mức cần thiết, thuế suất bảo hộ vẫn còn cao. Chính sách
thương mại tuy có hướng tới minh bạch, dễ tiên liệu hơn trong dài hạn song các rào cản phi thuế
quan vẫn còn nhiều, được sử dụng một cách phổ biến, tùy tiện, thiếu minh bạch và khó dự đoán vì
vậy các rủi ro hội nhập vẫn là tiềm ẩn lớn trong nền kinh tế.
Thứ hai, Cơ cấu hàng xuất khẩu nước ta hiện đang chưa đựng yếu tố rủi ro (giá hàng nông sản
và hàng nguyên nhiên vật liệu đầu vào dễ biến động mạnh, giá trị gia tăng thấp) cũng có thể tác
động tiêu cực đối với thu ngân sách và phát triển xuất khẩu trong điều kiện thương mại hóa tự do
Thứ ba, chính sách thương mại bảo hộ cao cho một số ngành nhiều vốn, ít tạo ra việc làm,
hướng vào thay thế nhập khẩu gây nên méo mó trong đầu tư, tạo ra mức tăng trưởng GDP không bền
vững có thể là gia tăng gánh nợ nước ngoài trong điều kiện tự do hóa thương mại. Viêc gia tăng thâm
hụt cán cân thương mại của nước ta hiện nay cho thấy nếu không sử dụng hiểu quả vốn đầu tư vào
những ngành xuất khẩu mang lại giá trị gia tăng cao thì khả năng trả nợ trong dài hạn sẽ bị hạn chế,
ảnh hưởng đến an ninh tài chính và ổn định kinh tế vĩ mô.
Những năm gần đây, thâm hụt cán cân thương mại có xu hướng gia tăng. Điều này có thể lý
giải một cách đơn giản là do nước ta đẩy mạnh mở cửa, hôi nhập do nhu cầu cẩn thiết phải đẩy
nhanh hơn nữa sự công nghiệp hóa phát triển khu vực kinh tế tư nhân, nền kinh té cần phải chuyển
sang phát triển theo chiều sâu… Đây là kết quả tất yếu đối với các nước mới công nghiệp hóa.
Những biểu hiện đó là hiệu quả sử dụng vốn thấp: đầ tư vào những ngành cần nhiều vốn và mức
sinh lời thấp, thay thế nhập khẩu, sử dụng ít lao động và kích thích tiêu dụng trong nước hơn là xuất
khẩu, khả năng của những ngành xuất khẩu có giá trị gia tăng cao còn hạn chế, chuyển dịch cơ cấu
xuất khẩu sang công nghiệp chế biến và kỹ thuật cao thể hiện xu thể của công nghiệp hóa và hội
nhập sâu chưa rõ nét, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp và chậm chưa được cải thiện, quá
trình xây dựng các thể chế của kinh tế thị trường diễn ra chậm. Những lý do này làm hạn chế khả
năng tăng trưởng xuất khẩu trong dài hạn để bù đắp tham hụt cán cân thương mại.
Thứ tư, với độ mở kinh tế quá như hiện nay, nền kinh tế nước ta phụ thuộc quá lớn vào nền kinh
tế thế giới. Do đó, nếu không đẩy mạnh cải cách nâng cao năng lực cạnh tranh, thì nhưng biến động
củ thị trường thế giới sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô và biến động xã
hội. Sự biến động giá năm 2008 cho thấy chúng ta đang còn bị động trong việc đối phó với những cú
sốc bên ngoài và sự chịu đựng của nền kinh tế còn rất nhiều hạn chế.
2.2.3. Tạo ra thách thức không nhỏ trong việc đảm bảo phát triển và bền vững
Toàn cầu hóa kinh tế đưa Việt Nam đến một tình huống phải đối mặt với những thách thức
không nhỏ trong việc đồng thời phải duy trì tăng trưởng cao cùng với phát triển bền vững trong đó
lấy phát triển con người làm trung tâm. Sự phát triển sản xuất không cân bằng, tự phát, không kết
hợp chặt chẽ với bảo vệ môi trường đã là nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh
hưởng tới chất lượng cuộc sống của người dân. Toàn cầu hóa kinh tế đã làm tăng nhanh quá trình
công nghiệp hóa ở các vùng đô thị và kết quả là tình trạng ô nhiễm không khí, nguồn nước, rác thải
ở các khu công nghiệp và đô thị đã đến tình trọng quá mức. Trong ba loại ô nhiễm môi trường: đất,
nước, không khí thì tình trạng ô nhiễn không khí ở các đô thị lớn và khu công nghiệp được đánh giá
là nghiêm trọng nhất do mức độ ô nhiễu vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép.
Suy giảm và cạn kiệt tài nguyên tuy không phải là hậu quả trực tiếp, song dước tác động của
hội nhập tình trạng nguồn tài nguyên của nước ta đang suy giảm tương đối nhanh. Trước đây chỉ có
các đơn vị kinh té quốc doanh được phép khai thác rừng do nhà nước quy định nên mức độ rừng bị
chặt phá còn hạn chế. Khi kinh tế thị trường ra đời, mọi thành phần kinh tế tham gia, rừng đã bị
khai thác và chặt phá ồ ạt với quy mô ngày càng lớn hơn. Tình trạng này đang làm diện tích đất
hoang hóa bạc mầu tăng lên, lũ ống, lũ quét xảy ra liên tục, ảnh hưởng đến cuộc sống của người
dân, và sự phát triển bền vững của đất nước trong lâu dài
Sự ô nhiễm còn làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, các bệnh tật nảy sinh từ việc
sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm, không đảm bảo vệ sinh đến hiện nay vẫn là nguyên nhân gây mắc
bệnh và tử vong cao ở trẻ em. Suy thoái môi trường làm giải hiệu năng của nhiều nguồn tài nguyên
mà con người sử dụng trực tiếp. Ô nhiễm làm ảnh hưởng đến hiểu quản của ngành nuôi trồng thủy hải
sản, tình trạng úng ngập do chặt phá rừng. Hâu quả của ô nhiễm môi trường là rất lớn tác động tới
mọi mặt của đời sống nhân dân. Vì thế hội nhập sẽ có tác động tiêu cực đến các chính sách phát triển
kinh tế ở trong nước không đảm bảo tính thân thiện với môi trường, không gắn phát triển các yếu tố
đảm bảo phát triển bền vững lâu dài.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HOÁ ĐẾN VIỆC
CẢI THIỆN NĂNG LỰC KINH TẾ VIỆT NAM
3.1. Tư duy mới cho việc tiếp tục triển khai chiến lược công nghiệp hóa rút ngắn của Việt
Nam
Thứ nhất, Việt Nam phải thoát hẳn khỏi các quan niệm truyền thống về rải đều mọi nguồn lực
để phát triển tất cả các ngành, nhất là những ngành không có lợi thế so sánh và theo đó, là lợi thế
cạnh tranh. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, quan điểm phát triển tất cả các ngành là không
hợp lý bởi nó đi ra ngoài "chuỗi giá trị" trong hệ thống phân công lao động khu vực, quốc tế và trên
thực tế, làm yếu khả năng tham gia và loại trừ niềm tin vào các kết quả hội nhập. Cũng tương tự như
vậy, sẽ là sai lầm nếu giữ tư duy "cân bằng" vùng lãnh thổ theo cách trải rộng nguồn nhân lực trong
khi sự thành công của thế giới bao giờ cũng bắt đầu từ các điểm đột phá, có điều kiện phát triển tốt
nhất và sau đó, thực hiện "hiệu ứng lan tỏa" để phát triển sang những ngành, vùng khác.
Cũng sẽ là thiếu hợp lý nếu nhà nước đầu tư tràn lan (cả địa phương và trung ương), thiếu quy
hoạch về phát triển các ngành và khu công nghiệp, thậm chí ồ ạt phát triển ở ngay cả những nơi xa thị
trường, hạ tầng yếu kém, hệ thống công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ chưa có, vùng nguyên liệu chưa xác
định. Có lẽ do tư duy thiếu thực tế mà nhiều nhà máy, công trình và dự án đầu tư lớn sau một thời
gian triển khai đã bị dư luận đòi dỡ bỏ, chấm dứt. Kiểu làm ăn tùy tiện, thiếu tacxs phong công
nghiệp là hoàn toàn xa lạ với tác phong công nghiệp hóa mới. Sau gần 20 năm đổi mới, chúng ta đã
hoàn toàn có thể xác định được Việt Nam có lợi thế cạnh tranh trên những mặt hàng và ngành nghề
gì. Ngay cả các ngành có lợi thế cạnh tranh trong tương lai, tức là có điều kiện, cũng cần phải được
xác định lại bởi trên thực tế, sự biến chuyển nhanh của thị trường thế giới đang khiến cho những
ngành có lợi thế so sánh mất đàn lợi thế cạnh tranh. Hoàn toàn không ai nghi ngờ rằng bỏ hạn ngạch
dệt may là tốt cho doanh nghiệp Việt Nam nhưng với cái cách mà hàng dệt may Việt Nam cạnh tranh
trên thị trường thế giới, chúng ta đang rất lo ngại là Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong xuất khẩu,
nhất là ở những thị trường mà sự hiện diện của hàng dệt may Việt Nam lại chủ yếu nhờ vào hạn
ngạch. Vì vậy, trong tư duy phát triển, cần biết tập trung vào những ngành nào có thể cạnh tranh tốt
và mang lại giá trị gia tăng cao hơn là phát triển tất cả bởi cuối cùng, không có ngành và sản phẩm
nào đứng vững trên thị trường khu vực, thế giới. Mặt khác, cần khuyếch trương lợi thế vùng lãnh thổ
để tập trung nguồn lực cho phát triển, rồi từ đó nhân rộng sang các vùng lân cận hơn là cùng lúc phát
triển hàng trăm khu công nghiệp như Việt Nam hiện nay. Nhìn lại, sự thành công của Bình Dương và
Đồng Nai gắn liền với các điều kiện hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ của Thành Phố Hồ Chí Minh, của
Quảng Nam trong quan hệ với Đà Nẵng, của Hải Dương- Bắc Ninh trong tam giác phát triển của Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh cho thấy, cần có sự rà soát, điều chỉnh hợp lý và tập trung phát triển
trong huy động và phân bổ nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện địa hóa đất nước.
Thứ hai, nên mở cửa thương mại theo quan điểm hiện đại thay vì dừng lại ở hoạt động xuất,
nhập khẩu hàng hóa hoặc tách thị trường trong nước với thị trường bên ngoài. Ở ý nghĩa thứ nhất sẽ
giúp chúng ta không khuôn khép công nghiệp hóa ngày nay chỉ dựa trên tăng trưởng xuất khẩu sản
phẩm hàng hóa trong khi đi liền với xuất khẩu hàng hóa là các vấn đề về đầu tư, dịch vụ, quyền sở
hữu trí tuệ và cơ chế giải quyết tranh chấp. Vì vậy, xuất khẩu không thể là bằng mọi giá mà là xuất
khẩu những sản phẩm có giá trị gia tăng, hấp thu được các đầu vào có chi phí thấp và mang lại giá trị
gia tăng cao cho nền kinh tế. Ở ý nghĩa thứ hai này cho thấy xuất khẩu trong hội nhập kinh tế quốc tế
cũng chính là xuất khẩu tại chỗ khi các mặt hàng sản xuất ra không được phân biệt đối xử với hàng
nước ngoài và luôn chấp nhận đối mặt với ự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường nội địa. Nó có thể bị
đào thải ra khỏi thị trường nội địa nếu bị thua kém trong cuộc cạnh tranh. Nói cách khác, là bộ phận
không thể tách rời với trị trường khu vực, quốc tế, việc chú trọng phát triển trị trường trong nước theo
nguyên tắc mở và tạo thuận lợi hóa cho mọi loại hình doanh nghiệp có tư cách "bình đẳng" là điều
kiện quan trọng để gia tăng khả năng chuyển đổi cơ cấu kinh tế và năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế. Từ đó, có thể khẳng định, không nên tập trung tất cả cho xuất khẩu mà là xuất khảu dựa trên lợi
thế so sánh (luôn thay đổi), thúc đẩy thị trường bên trong (tức là từ hội nhập mạnh bên trong để đẩy
mạnh hội nhập với bên ngoài), mở cửa mạnh cho tất cả các đối tác đầu tư, tiến tới giảm dần các tỷ lệ
quy định về sở hữu, thuế, phí... cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tiếp nhận những
nguyên tố đầu vào chi phí thấp (nhất là về chi phí dịch vụ và các ngành sản xuất trung gian)... để
nhằm tạo ra lợi thế mới cho cạnh tranh xuất khẩu trong tương lai.
Thứ ba, chú trọng và mạnh bạo trong sử dụng FDI và các Công ty xuyên quốc gia (TNC) để
đổi mới công nghệ và phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng. Nói một cách công bằng, công nghệ mới
tự nó đặt ra yêu cầu thay đổi về cơ cấu và vì vậy, sự đột phá trong chính sách cơ cấu phụ thuộc nhiều
vào việc lựa chọn nguồn và hình thức tiếp cận công nghệ. Ai cũng biết rằng đối với các nước đi sau,
tạo dựng và đổi mới công nghệ trước hết là tiếp nhận từ nước ngoài, nhất là từ các nước tiên tiến nhất
và con đường để có được chúng hoặc là nhập khẩu (vốn rất khó khăn và hạn chế ở các nước đi sau)
hoặc là bằng chuyển giao thông qua hoạt động đầu tư của các TNC. Trung Quốc đã thu hút được FDI
từ 80% trong số 500 tập đoàn TNC lớn nhất thế giới, nghĩa là, thực sự có bước đột phá trong chuyển
giao công nghệ, thay đổi cơ cấu và nâng cao cạnh tranh của Trung Quốc, trong khi tỷ lệ này ở Việt
Nam mới chỉ đạt 20%. Ngoài những lý do khách quan như đã chỉ ra, còn có vấn đề nhận thức về
TNC chư đúng, tức là vẫn còn e ngại về sự hiện diện của chúng có thể gây nguy hại đến nền kinh tế
độc lập tự chủ của ta trong khi chúng luôn phải hoạt động theo định hướng và không vượt ra ngoài
khuôn khổ pháp luật của ta. Lẽ ra, trong khuynh hướng mở rộng mạng lưới cắm nhánh của các TNC
dưới tác động của toàn cầu hóa kinh tế, chúng ta phải chủ động lợi dụng xu thê này và thể hiện ta
cũng cần đến chúng như một sự bổ sung hữu hiệu để phát triển thay vì tạo ra những sự ngăn cách,
phân biệt đối xử khiên cho các TNC có thể sẽ di chuyển đi nơi khác. Ngoài vai trò quan trọng về
cung cấp vốn, công nghệ...TNC là kênh rất hữu hiệu để tạo nguồn nhân lực cho bản thân chúng, đồng
thời cũng là cho nền kinh tế nước ta. Vì vậy, từ hiệu ứng tích cực của TNC, thái đọ hoan nghênh, sẵn
sàng hợp tác trong quan hệ với TNC, nhất là TNC đến từ các nước phát triển nhất luôn luôn là tác
nhân cần thiết cho mô hình công nghiệp hóa mới của chúng ta.
Thứ tư, khi xem xét các sức ép, cú sốc và rủi ro từ bên ngoài đến tiến trình công nghiệp hóa của
ta, cần phải phân tích thấu đáo, kịp thời để có phản ứng linh hoạt, hợp lý và hiệu quả. Ví dụ, tính toán
sát thực những tác động của sự tăng giá đầu lửa và giá cả nhóm hàng nông sản, thực phẩm thế giới
(2004-2006) ảnh hưởng đến tình hình biến động giá cả sản xuất trong nước và khả năng cạnh tranh
của ta để theo đó, làm rõ hiện tượng tăng giá đột biến trong nước còn có những lý do nào thuộc về
điều hành chính sách kinh tế vĩ mô của ta và mặt khác, cũng không được thổi phồng quá mức những
tác động này để đưa đến những quan điểm thoái lui, lùi bước, quay lưng với hội nhập. Trong nhiều
trường hợp cần thấy rõ sức ép và thách thức từ bên ngoài cũng là cơ hội cho tiến trình phát triển của
ta. Chẳng hạn, sức cạnh tranh yếu của ta là một thực tế và cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt
cũng là một thực tế. Vì vậy, ngay cơ bị loại ra khỏi thị trường khu vực, thế giới và cả thị trường nội
địa bắt buộc chúng ta phải chú trọng đổi mới công nghệ, giảm chi phí đầu vào, gia tăng tỷ lệ nội địa
hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm... Tham chiếu, rút kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, sự cần thiết
phải có dự báo và cơ chế cảnh báo sớm là rất quan trọng. Điều rất lạ là chúng ta biết trước thời điểm
hoàn thành lịch trình giảm thuế trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN, thời điểm chất dứt hiệp định
dệt may (ATC) trong khuôn khổ WTO... song dường như ở ta vẫn còn khá nhiều người chưa có sự
sẵn sàng chuẩn bị đối phó với các tình huống này. Đặc biệt, chính phủ cunga như các doanh nghiệp