Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Thực tiễn áp dụng luật cạnh tranh ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (963.22 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ THANH HUYỀN

THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT CẠNH TRANH
Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ THANH HUYỀN

THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT CẠNH TRANH
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Duy Nghĩa


HÀ NỘI - 2012

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trần Thị Thanh Huyền

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các sơ đồ
Danh mục các biểu đồ
Danh mục các hộp

MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ LUẬT CẠNH TRANH

7

1.1.

Lịch sử hình thành pháp luật cạnh tranh trên thế giới

7

1.1.1.

Khái niệm cạnh tranh

7

1.1.2.

Lịch sử hình thành của pháp luật cạnh tranh

9

1.2.

Sự du nhập của pháp luật cạnh tranh vào việt nam


12

1.2.1.

Tư tưởng về chống độc quyền

14

1.2.2.

Tư tưởng bảo vệ các tác nhân kinh tế

20

1.2.3.

Tư tưởng bảo vệ người tiêu dùng

22

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG LUẬT CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM

26

2.1.

Từ góc độ các cơ quan nhà nước

26


2.1.1.

Cơ quan quản lý cạnh tranh

26

2.1.1.1. Chức năng, nhiệm vụ

26

2.1.1.2. Thực tế thi hành pháp luật cạnh tranh

27

2.1.2.

Các cơ quan thi hành pháp luật

42

2.1.2.1. Cơ quan đăng kí kinh doanh và Cơ quan đăng kí đầu tư

42

2.1.2.2. Cơ quan thuế và các cơ quan thi hành pháp luật khác

53

2.2.


Từ góc độ cộng đồng doanh nghiệp

4

54


2.2.1.

Thực tiễn khả năng nhận thức và áp dụng Luật Cạnh tranh
của cộng đồng doanh nghiệp

54

2.2.2.

Nguyên nhân của thực trạng nhận thức của doanh nghiệp về
Luật Cạnh tranh

60

2.2.2.1. Văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp

60

2.2.2.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

61

2.2.2.3. Chế tài xử phạt chưa đủ mạnh của Luật Cạnh tranh


63

2.3.

Từ góc độ người tiêu dùng

65

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VÀ

70

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH LUẬT CẠNH TRANH

3.1.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện luật cạnh tranh

70

3.1.1.

Quy định về đối tượng áp dụng của Luật Cạnh tranh

70

3.1.2.

Quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh


72

3.1.3.

Quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc
quyền của Luật Cạnh tranh

74

3.1.4.

Quy định về hành vi tập trung kinh tế của Luật Cạnh tranh

75

3.1.5.

Quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

75

3.1.6.

Chế tài của Luật Cạnh tranh

76

3.1.7.


Về cơ quan quản lý cạnh tranh

78

3.1.8.

Về tố tụng cạnh tranh

79

3.2.

Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành Luật
Cạnh tranh

80

3.2.1.

Tăng nguồn nhân lực cho Cục Quản lý cạnh tranh

80

3.2.2.

Nâng cao năng lực, kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ nhân
viên của cơ quan quản lý cạnh tranh

82


3.3.3.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cạnh tranh

83

3.3.4.

Đào tạo kiến thức về cạnh tranh cho các thẩm phán

84

3.3.5.

Xóa bỏ sự bảo hộ của nhà nước đối với các doanh nghiệp
độc quyền

84

KẾT LUẬN

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

88

5



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Số lượng các vụ việc được thông báo đến Cục Quản lý

41

bảng
2.1

cạnh tranh từ 2006-2011
2.2

So sánh những thiệt thòi nhà đầu tư phải gánh chịu khi

47

thực hiện thủ tục đăng kí kinh doanh và đăng kí đầu tư
2.3

So sánh những thiệt thòi nhà đầu tư phải gánh chịu khi

49

thực hiện thủ tục thay đổi đăng kí kinh doanh và xin cấp

Giấy chứng nhận đầu tư
2.4

Mức độ nhận biết của doanh nghiệp đối với chức năng, nhiệm

57

vụ và quyền hạn của cơ quan thực thi Luật Cạnh tranh
2.5

Mức độ nhận biết của doanh nghiệp đối với trình tự, thủ

58

tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, mức phạt theo quy định
của Luật Cạnh tranh
3.1

Số nhân viên của mô hình cơ quan cạnh tranh trên thế giới

81

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu
sơ đồ
2.1

Tên sơ đồ
Phương pháp đo lường chi phí tuân thủ


6

Trang

46


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

Tên số lượng các vụ việc hạn chế cạnh tranh được Cục

28

biểu đồ
2.1

Quản lý cạnh tranh điều tra và xử lý từ 2006-2011
2.2

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh được Cục Quản lý

35


cạnh tranh điều tra và xử lý từ 2006-2011
2.3

Quá trình tiếp nhận và xử lý các vụ việc cạnh tranh không

36

lành mạnh từ 2006-2011
2.4

Chi phí tuân thủ thủ tục hành chính xin cấp mới Giấy chứng

48

nhận đăng kí kinh doanh và Giấy chứng nhận đầu tư
2.5

Chi phi tuân thủ thủ tục hành chính thay đổi Giấy chứng

50

nhận đăng kí kinh doanh và xin cấp lại Giấy chứng nhận
đầu tư
2.6

Tỉ lệ các doanh nghiệp biết đến Luật Cạnh tranh

55

2.7


Khả năng nhận biết Luật Cạnh tranh

66

2.8

Nhận biết vai trò Luật Cạnh tranh

67

2.9

Nhận biết hành vi điều chỉnh của Luật Cạnh tranh

68

2.10

Nhận biết vai trò Cơ quan thi hành Luật Cạnh tranh

68

7


DANH MỤC CÁC HỘP

Số hiệu


Tên hộp

Trang

Vụ lạm dụng ví trí thống lĩnh thị trường của Công ty Tân

29

hộp
2.1

Hiệp Phát
2.2

Vụ việc lạm dụng vị trí độc quyền của VINAPCO

30

2.3

Vụ việc các Công ty Bảo hiểm thoả thuận hạn chế cạnh tranh

31

2.4

Vụ việc vi phạm của Công ty cổ phần Mua sắm Hạnh Phúc

38


2.5

Vụ việc Công ty Panasonic quảng cáo nhằm cạnh tranh

39

không lành mạnh

8


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tạo lập và duy trì một môi trường kinh doanh bình đẳng, kiểm soát
độc quyền, kiểm soát các hành vi gây hạn chế cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của nền kinh tế thị
trường trong bối cảnh mở cửa thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Để đạt
được những mục tiêu nêu trên, Nhà nước - với tư cách là người quản lý xã
hội, song song với các chính sách phát triển kinh tế cần phải xây dựng và ban
hành các chính sách pháp luật về cạnh tranh. Ở Việt Nam, sự ra đời của Luật
Cạnh tranh với mục đích tạo dựng và duy trì một môi trường cạnh tranh lành
mạnh, kiểm soát độc quyền trong kinh doanh là biểu hiện tích cực về sự nỗ
lực của Nhà nước trong việc quản lí xã hội, đồng thời đây cũng chính là một
bước thể chế hóa nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX:
"Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành
mạnh, hợp pháp, văn minh. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình
đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển..." [23, tr. 22].
"Pháp luật cạnh tranh của hầu hết các nước ra đời đều bắt nguồn từ
nhu cầu tự thân của nền kinh tế" [23, tr. 17 ], ở Việt Nam, Luật Cạnh tranh ra

đời trong khuôn khổ chương trình hoàn thiện khung pháp lí phục vụ tiến trình
Hội nhập kinh tế quốc tế, dường như dưới sức ép mạnh mẽ từ bên ngoài, mà
cụ thể là tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Để tuân
thủ nguyên tắc "không phân biệt đối xử và cạnh tranh bình đẳng" của WTO
trước yêu cầu hội nhập, Luật số 27/2004/QH11 về cạnh Tranh đã được Quốc
hội thông qua tại kỳ họp thứ 6 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2005.
Với mục tiêu tạo lập và duy trì một môi trường kinh doanh bình đẳng,
bảo vệ tất cả các loại hình doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
Luật Cạnh tranh được xem là công cụ để các doanh nghiệp tự do cạnh tranh

9


trong khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh chỉ có thể hoàn thành
sứ mệnh của mình khi các quy định của Luật được thi hành trên thực tế. Sau
hơn bảy năm thi hành, liệu pháp luật cạnh tranh có hoàn thành được sứ mệnh
của mình?
Để trả lời câu hỏi này, luận văn giải quyết những vấn đề nghiên cứu
dưới đây:
- Nhận diện những học thuyết pháp luật cạnh tranh Việt Nam đã du
nhập, phân tích tiền đề để các học thuyết này được triển khai và thực hiện
thông qua các quy phạm nội dung của Luật Cạnh tranh.
- Đưa ra và phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật cạnh tranh
dưới góc nhìn đa chiều, đặc biệt là từ góc độ của cơ quan quản lý cạnh tranh,
cơ quan thi hành pháp luật, dưới góc độ doanh nghiệp và người tiêu dùng;
- Từ những phân tích và đánh giá ở trên, đưa ra những khuyến nghị
lập pháp và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật cạnh tranh trên thực tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, đã có một số đề tài, công trình khoa học ở trong nước
tập trung nghiên cứu vấn đề thực tiễn áp dụng Luật Cạnh tranh ở Việt Nam.

Cục Quản lý cạnh tranh trong hai năm 2010 và 2011 đã ban hành "Báo cáo
hoạt động thường niên Cục Quản lý cạnh tranh" trong đó tổng kết công tác
thực thi pháp luật cạnh tranh thông qua việc thống kê cụ thể các vụ việc cạnh
tranh mà Cục đã xử lý bao gồm các vụ việc hạn chế cạnh tranh, các vụ việc
cạnh tranh không lành mạnh và tập trung kinh tế. Báo cáo của Cục Quản lý
cạnh tranh đồng thời cũng phân tích các hoạt động hỗ trợ thực thi pháp luật
cạnh tranh, đánh giá mặt tích cực và mặt hạn chế trong công tác thi hành và
đưa ra các phương hướng hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả thi hành Luật
Cạnh tranh như xây dựng đề xuất sửa đổi Luật Cạnh tranh, hoàn thiện các vụ
việc điều tra, tăng cường năng lực trong việc xử lý các vụ việc liên quan đến
hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh… Báo cáo hoạt động thường niên của

10


Cục Quản lý cạnh tranh chưa chỉ ra và phân tích được nguyên nhân của việc
thi hành kém hiệu quả pháp luật cạnh tranh cũng như chưa đề ra các giải pháp
cụ thể để cải thiện vấn đề này. Ngoài ra, Cục Quản lý cạnh tranh vào năm
2009 cũng ban hành "Báo cáo nghiên cứu, khảo sát mức độ nhận thức của
cộng đồng đối với Luật Cạnh tranh" với những số liệu cụ thể về khả năng
nhận thức Luật Cạnh tranh của cộng đồng doanh nghiệp và người tiêu dùng
thông qua các nhóm câu hỏi liên quan đến: đối tượng áp dụng, phạm vi điều
chỉnh, cơ quan quản lý cạnh tranh… Báo cáo đưa ra các kết luận và kiến nghị
về hoàn thiện thể chế; tăng cường năng lực cho cơ quan quản lý cạnh tranh,
tòa án; đầu tư cho công tác phổ biến, thông tin pháp luật; đẩy mạnh hợp tác
quốc tế… tuy nhiên Báo cáo chủ yếu chỉ nêu kiến nghị mà chưa đưa ra, phân
tích giải pháp cụ thể trong từng kiến nghị. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ:
"Xây dựng mô hình cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh, chống bán phá
giá, chống trợ cấp và tự vệ trong thương mại quốc tế. Kinh nghiệm quốc tế và
đề xuất cho Việt Nam" do Tiến sĩ Đinh Thị Mỹ Loan làm chủ nhiệm đề tài và

cử nhân Trịnh Anh Tuấn làm thư kí khoa học đã nghiên cứu một cách tổng
thể mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh ở các nước và đưa ra các kiến nghị
nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý cạnh
tranh Việt Nam.
Ngoài ra, Cục Quản lý cạnh tranh đã tổ chức nhiều hội thảo về vấn đề
này như: Hội thảo "Thực thi Luật Cạnh tranh ở các nước ASEAN và thực tiễn
quốc tế" tại thành phố Hồ Chí Minh tháng 12/2009, Hội thảo "Thực tiễn áp
dụng Luật Cạnh tranh trong một số lĩnh vực chuyên ngành - kinh nghiệm của
Nhật Bản và thực tiễn ở Việt Nam - Những vấn đề đặt ra" tại Đà Nẵng đầu
năm 2010, Hội thảo công bố "Báo cáo đánh giá cạnh tranh trong 10 lĩnh vực
của nền kinh tế" tại Thành phố Hồ Chí minh tháng 10 năm 2010…
Bên cạnh các đề tài khoa học, còn có một số bài viết của các nhà luật
học liên quan đến khía cạnh thực tiễn thi hành Luật Cạnh tranh như, tác giả
Nguyễn Hữu Huyên bài viết "Điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh", đăng trên

11


Tạp chí Luật học, số 6/2006; PSG.TS. Nguyễn Như Phát bài viết "Đưa pháp
luật chống cạnh tranh không lành mạnh vào cuộc sống", đăng trên Tạp chí
Luật học, số 6/2006; TS. Nguyễn Văn Tuyến bài viết "Áp dụng Luật Cạnh
tranh trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng", đăng trên Tạp chí Luật học, số 6/2006;
tác giả Nguyễn Thanh Tú, Phan Huy Hồng với bài viết "Một số bất cập trong
quá trình thực thi pháp luật cạnh tranh: nhìn từ một vụ việc", đăng trên tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2011…
Tất cả các công trình nghiên cứu, hội thảo, bài báo nêu trên - mỗi tài
liệu chỉ phân tích một hoặc một số khía cạnh nhất định trong vấn đề thực tiễn
áp dụng Luật Cạnh tranh ở Việt Nam, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu về
thực tiễn áp dụng pháp luật cạnh tranh dưới góc nhìn đa chiều xuất phát từ sự
du nhập pháp luật cạnh tranh vào Việt Nam. Do vậy, nghiên cứu đề tài tác giả

hi vọng sẽ có những đóng góp nhất định vào việc thi hành hiệu quả Luật Cạnh
tranh tại Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Tác giả sẽ tập trung nghiên cứu về sự du nhập pháp luật cạnh tranh
vào Việt Nam thông qua các quy định hiện hành của Luật Cạnh tranh và thực
tế thi hành Luật Cạnh tranh dưới bốn góc độ: cơ quan quản lý cạnh tranh, cơ
quan thi hành pháp luật, cộng đồng doanh nghiệp và người tiêu dùng. Trên cơ
sở các nghiên cứu tổng hợp nêu trên, đề tài mong muốn đưa ra một số đề xuất
nhằm hoàn thiện thể chế pháp luật cạnh tranh và nâng cao hiệu quả thi hành
Luật Cạnh tranh trên thực tế.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ đề tài "Thực tiễn áp dụng Luật Cạnh tranh ở Việt
Nam", tác giả sẽ:
- Nhận diện những học thuyết pháp luật cạnh tranh Việt Nam đã du
nhập, phân tích tiền đề để các học thuyết này được triển khai và thực hiện
thông qua các quy phạm nội dung của Luật Cạnh tranh;

12


- Nghiên cứu các văn bản pháp lý trong lĩnh vực cạnh tranh;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng Luật Cạnh tranh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng để đánh giá mối quan
hệ của pháp luật Việt Nam với các quan điểm của pháp luật nước ngoài trong
bối cảnh toàn cầu hóa.
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để xác định và luận
giải các vấn đề liên quan đến quy định của pháp luật cạnh tranh, thực tế thi
hành và khả năng tiếp nhận pháp luật cạnh tranh.
6. Ý nghĩa và điểm mới của đề tài

Thực tiễn áp dụng Luật Cạnh tranh không phải là đề tài mới, tuy
nhiên, tiếp cận vấn đề thực tiễn áp dụng từ sự du nhập pháp luật cạnh tranh
vào Việt Nam và nghiên cứu vấn đề thực tiễn thi hành dưới góc nhìn đa chiều
thì hiện chưa có công trình nào giải quyết toàn diện tất cả vấn đề này. Mỗi
một văn bản luật ban hành, chúng ta luôn có thói quen và khẩu hiệu đưa pháp
luật vào cuộc sống trong khi rất ít nhìn nhận dưới khía cạnh liệu thực tiễn đã
được phản ánh trong pháp luật hay chưa và chúng ta có tiền đề để thi hành
pháp luật không. Luật Cạnh tranh Việt Nam được ban hành từ năm 2004
trước sức ép hội nhập của nền kinh tế Việt Nam. Xét về quy phạm pháp luật,
quá trình tiếp nhận luật được xem là thành công. Tuy nhiên, sau 7 năm chính
thức thi hành, sức lan tỏa của Luật Cạnh tranh vào nền kinh tế Việt Nam được
đánh giá là yếu ớt. Việt Nam đã có bài học từ sự thất bại trong việc du nhập
Luật phá sản và hiện tại chúng ta đang cố gắng duy trì sức sống của Luật
Cạnh tranh. Với việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng Luật Cạnh tranh thông qua
cách tiếp cận từ những tư tưởng điều tiết cạnh tranh được du nhập vào Việt
Nam, tác giả hy vọng rằng, kết quả của Luận văn sẽ là những đóng góp nhất
định cho quá trình hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả thi hành Luật
Cạnh tranh để Luật Cạnh tranh hoàn thành sứ mệnh của mình trong việc bảo

13


vệ môi trường kinh doanh, bảo vệ cộng đồng doanh nghiệp và bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về Luật Cạnh tranh.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng Luật Cạnh tranh ở Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện thể chế và nâng cao

hiệu quả thi hành Luật Cạnh tranh.

14


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ LUẬT CẠNH TRANH

1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁP LUẬT CẠNH TRANH TRÊN THẾ GIỚI

1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Về khái niệm cạnh tranh, có rất nhiều cách hiểu khác nhau xuất phát từ
phạm vi sử dụng: phạm vi quốc gia, phạm vi liên quốc gia, phạm vi ngành, phạm
vi doanh nghiệp.
Trong phạm vi quốc gia
Cạnh tranh đối với một quốc giá là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện
thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng
được các đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng được thu
nhập thực tế của người dân nước đó (theo Ủy ban cạnh tranh công nghiệp của
Tổng thống Mỹ). Như vậy, trong phạm vi quốc gia, mục tiêu của cạnh tranh là
nâng cao mức sống, thu nhập và phúc lợi cho nhân dân.
Trong phạm vi liên quốc gia
Cạnh tranh được hiểu là "khả năng của nước đó đạt được những thành
quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng
kinh tế cao được xác định bằng các thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) tính trên đầu người theo thời gian" [7, tr. 9].
Trong phạm vi doanh nghiệp và phạm vi ngành
Theo K. Marx: "Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các
nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu
dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch" [Dẫn theo 25, tr. 113]. Khái

niệm cạnh tranh của K. Marx gắn liền với sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa
và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Theo K. Marx, quy luật cơ bản của cạnh tranh

15


tư bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân, và qua đó
hình thành nên hệ thống giá cả thị trường.
P.A Samuelson và W.D.Nordhaus - hai nhà kinh tế học Mỹ trong cuốn
Kinh tế học (xuất bản lần thứ 12) cho rằng: Cạnh tranh là sự kình địch giữa
các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để dành khách hàng hoặc thị trường.
Cùng quan điểm xem cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo
như P.A Samuelson và W.D.Nordhaus, D.Begg, S. Fischer và R. Dornbusch người Mỹ cho rằng: cạnh tranh hoàn hảo, là ngành trong đó mọi người đều tin
rằng hành động của họ không gây ảnh hưởng tới giá cả thị trường, phải có
nhiều người bán và nhiều người mua. R.S. Pindyck và D.L Rubinfeld trong
cuốn kinh tế học vĩ mô viết rằng: Một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, hoàn
thiện có rất nhiều người mua và người bán, để cho không có người mua hoặc
người bán duy nhất nào có ảnh hưởng có ý nghĩa đối với giá cả
Theo Từ điển Kinh doanh của Anh năm 1992 "Cạnh tranh là sự ganh
đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành
cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía
mình" [17, tr. 11].
Từ điển Tiếng Việt "Bách khoa tri thức phổ thông" của Việt Nam cũng
giải thích cạnh tranh là sự ganh đua giữa những nhà sản xuất hàng hóa, giữa
các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế nhằm giành các điều
kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất [1, tr. 26].
Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau, tuy nhiên, tựu chung lại muốn
có cạnh tranh, phải hội tụ tối thiếu các yếu tố sau:
Về chủ thể: Tham gia cạnh tranh phải có nhiều chủ thể. Các chủ thể
này cùng nhằm tới một mục tiêu, có nghĩa cùng chung kết quả cần đạt được.

Về môi trường cạnh tranh: Hành vi cạnh tranh của các chủ thể được
diễn ra trong một môi trường cạnh tranh nhất định, được điều chỉnh bởi các

16


chính sách cạnh tranh, quy luật cạnh tranh, quy phạm pháp luật về cạnh tranh
và thông lệ kinh doanh nói chung.
Về phạm vi: Cạnh tranh có thể diễn ra trên phạm vi rộng (diễn ra giữa
các quốc gia, các khu vực) hoặc diễn ra trong phạm vi hẹp (diễn ra trong một
ngành, một địa phương).
Về thời gian: Cạnh tranh có thể diễn ra trong một khoảng thời gian dài
(trong suốt quá trình tồn tại, hoạt động của một chủ thể) nhưng cũng có thể
diễn ra trong khoảng thời gian ngắn (trong một giai đoạn hoạt động nhất định
của chủ thể).
Như vậy, xem xét ở góc độ chủ thể của hành vi thì cạnh tranh được coi là
phương thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh
với vai trò quyết định của người tiêu dùng. Nếu nhìn khái quát trên quy mô toàn
xã hội, thì cạnh tranh là phương thức phân bổ các nguồn lực, tài nguyên một
cách tối ưu, do đó là động lực bên trong của nền kinh tế phát triển. Do vậy,
cạnh tranh vừa mang bản chất kinh tế vừa mang bản chất xã hội. Việc doanh
nghiệp nỗ lực để xây dựng cho mình một ưu thế chi phối thị trường vì mục
tiêu lợi nhuận là biểu hiện bản chất kinh tế của cạnh tranh. Uy tín của mỗi chủ
thể cạnh tranh trong mối quan hệ với người tiêu dùng, với các đối thủ cạnh
tranh khác và người lao động là biểu hiện bản chất xã hội của cạnh tranh.
Về hình thái của cạnh tranh, nếu xét theo cơ cấ u doanh nghiê ̣p và mức
đô ̣ tâ ̣p trung trong mô ̣t ngành , lĩnh vực kinh tế , cạnh tranh trên thị trường
được phân chia thành cạnh tranh hoàn hảo, độc quyền, cạnh tranh không hoàn
hảo; nếu căn cứ vào mu ̣c đić h và tiń h chấ t của các phương thức ca ̣nh tranh


,

cạnh tranh được phân chia thành cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không
lành mạnh.
1.1.2. Lịch sử hình thành của pháp luật cạnh tranh
Nhu cầu của nền kinh tế đã thúc đẩy Luật Cạnh tranh ra đời ở các
nước cũng như thúc đẩy quá trình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Cạnh

17


tranh để phù hợp với thực tiễn. Luật Cạnh tranh mặc dù tồn tại với nhiều tên
gọi khác nhau: Luật Cạnh tranh - Competition Law, Luật chống hạn chế cạnh
tranh, Luật chống độc quyền - Anti monopoly Act, Luật thương mại lành
mạnh - Fair Trade Law … nhưng tất cả đều có chung một mục đích là tạo lập
một môi trường cạnh tranh bình đằng giữa các chủ thể, duy trì sự cạnh tranh
lành mạnh và bảo vệ người tiêu dùng.
Pháp luật cạnh tranh ra đời sớm nhất ở Mỹ vào năm 1890 với tên gọi
là Luật chống độc quyền - Sherman Anti-Trust Act. Ngay khi ra đời, Luật
Sherman đã trở thành công cụ để điều chỉnh các thỏa thuận gây hạn chế
thương mại và cấm việc sử dụng các biện pháp phản cạnh tranh hoặc lạm
dụng vị trí độc quyền nhằm giành được vị thế độc quyền. Luật Sherman có
thể được thực thi như Luật dân sự hoặc như Luật hình sự. Các hành vi như: ấn
định giá tạm thời, thông đồng để thắng thầu sẽ bị truy tố hình sự. Sau 24 năm kể
từ khi Luật Sherman ra đời, vào năm 1914, hai bộ luật Liên bang nữa đã được
thông qua là Luật Clayton và Luật Ủy ban Thương mại Liên bang (FTC). Hiện
nay, hầu hết các Bang của Mỹ đã thông qua Luật của bang mình, tuy nhiên, tất
cả đều dựa trên nội dung nền tảng từ Luật Sherman và Luật FTC.
Ở Đức Luật chống hạn chế cạnh tranh, viết tắt là ARC có hiệu lực vào
năm 1958. Tính đến nay, Luật đã được sửa đổi, bổ sung 7 lần. Lần sửa đổi

cuối cùng có hiệu lực vào tháng 07/2005.
Luật Cạnh tranh kinh tế (Economic Competition Act) của Hà Lan ra
đời vào năm 1956. Sau đó vào năm 1997, Hà Lan đã ban hành Luật Cạnh
tranh mới thay thế cho Luật 1956. Qua nhiều lần sửa đổi, hiện tại, Hà Lan
đang áp dụng Luật Cạnh tranh được sửa đổi vào năm 2004.
Luật Thương mại lành mạnh được ra đời ở Anh vào năm 1973. Sau
hơn 20 năm thi hành, ngày 09/11/1998, Anh đã ban hành Luật Cạnh tranh để
sửa đổi Luật Thương mại lành mạnh 1973 với việc quy định thêm các điều
khoản cấm hành vi phản cạnh tranh.

18


Để bảo đảm quyền tự do kinh doanh và làm cho pháp luật của Italia
phù hợp với luật lệ của Cộng đồng Châu Âu, Italia đã ban hành Luật Cạnh
tranh và thương mại công bằng năm 1990 và pháp luật chống độc quyền quốc
gia vào năm 2004.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của Luật Cạnh tranh Châu Âu,
đáng chú ý, quy định nhằm bảo vệ cạnh tranh lành mạnh đã tồn tại trong hiệp
ước thành Rome - hiệp ước để thành lập cộng đồng kinh tế chung Châu Âu,
được ký ngày 27 tháng 5 năm 1957 bởi các quốc gia Pháp, Tây Đức, I-ta-li-a,
Bỉ, Ni-zơ-lan, và Lúc-xem-bua. Những điều khoản này đã được phát triển và
được luật hóa để trở thành một bộ Luật Cạnh tranh được ra đời vào những
năm 1970. Hầu hết Luật Cạnh tranh của các nước Châu Âu đều được phát
triển theo hướng phù hợp với các quy định chung của Luật Cạnh tranh Châu
Âu. Với sự gia nhập của nhiều quốc gia mới vào khối EU. Đến năm 2004 một
sự cải cách quan trọng nhất đối với Luật Cạnh tranh Châu Âu đã được tiến
hành theo đó yêu cầu tất cả các thành viên của EU phải đồng nhất sửa đổi và
áp dụng nguyên tắc phối hợp chung giữa các thành viên để tạo ra một hệ
thống Luật Cạnh tranh áp dụng chung cho tất cả các thành viên EU, và do vậy

lần đầu tiên tất cả các thành viên EU được yêu cầu áp dụng một hệ thống Luật
Cạnh tranh chung cho các hành vi vi phạm xảy ra tại khu vực này.
Ở Châu Á, sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, hầu hết các
nước ở Đông Bắc Á và Đông Nam Á đã ban hành Luật Cạnh tranh trước yêu
cầu chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Tại Hàn Quốc, Ủy ban Công bằng
Thương mại Hàn Quốc đã ban hành Luật công bằng thương mại và kiểm soát
độc quyền năm 1980 và sửa đổi, bổ sung vào các năm 1986, 1990, 1992,
1994, 1996, 1998, 1999. Tại Đài Loan, Luật chống cạnh tranh không lành
mạnh được Ủy ban Công bằng Thương mại Đài Loan ban hành năm 1991. Cơ
quan Phát triển Quốc gia của Mông Cổ ban hành Luật chống cạnh tranh
không lành mạnh năm 1993. Tại Trung Quốc, Luật chống cạnh tranh không

19


lành mạnh được ban hành năm 1993, tiếp theo, vào năm 1998, Cơ quan quản
lý Thương mại và Công nghiệp Quốc gia đã ban hành Luật giá cả; sau đấy,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Luật chống độc quyền vào ngày
30/8/2007, Luật chính thức có hiệu lực vào ngày 01/8/2008.
Tại các nước Đông Nam Á, Philippin là nước có Luật Cạnh tranh sớm
nhất, Luật độc quyền và liên kết của Philippin được Bộ Tư pháp ban hành
năm 1925, sau này, các quy định liên quan đến Luật độc quyền và liên kết
được chuyển thành điều luật trong Luật hình sự năm 1957. Thái Lan ban hành
Luật chống độc quyền và kiểm soát giá cả năm 1979, đến năm 1999, luật này
được thay thế bằng Đạo Luật Cạnh tranh thương mại. Tại Indonesia, Luật cấm
độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh được Ủy ban Giám sát Cạnh tranh
Kinh doanh ban hành năm 1999. Singapore và Việt Nam đều ban hành Luật
Cạnh tranh vào năm 2004 [5, tr. 94].
Như vậy, dù được ra đời từ rất sớm trong lịch sử hay ra đời muộn hơn,
pháp luật cạnh tranh cũng trở thành công cụ đắc lực của mỗi quốc gia để bảo

vệ cạnh tranh (bảo vệ thị trường), bảo vệ các tác nhân kinh tế và bảo vệ người
tiêu dùng.
1.2. SỰ DU NHẬP CỦA PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VÀO VIỆT NAM

Cho đến nay vẫn có nhiều ý kiến tranh luận về sự du nhập pháp luật
vào Việt Nam, trong đó có du nhập pháp luật cạnh tranh và hiệu quả của sự
du nhập này. Về khả năng du nhập pháp luật - tiếp nhận pháp luật nước ngoài
tồn tại nhiều ý kiến trái chiều. Pierre Legrand, một trong những tác giả không
ủng hộ khả năng tiếp nhận pháp luật nước ngoài, đã thẳng thừng bác bỏ: "Nói
một cách thẳng thắn, trong trường hợp tốt nhất, điều có thể du nhập từ nước
này vào nước khác chỉ là những từ ngữ vô hồn" [35, tr. 63]. Cùng quan điểm
phản đối du nhập pháp luật từ nước ngoài, các chuyên gia khác cho rằng: việc
tiếp nhận pháp luật nước ngoài có "tính rủi ro cao độ", "tiếp nhận mà không
cân nhắc sẽ gặp những hiểm họa nghiêm trọng" [33, tr. 41]. Ngược lại với

20


quan điểm phủ nhận hoàn toàn khả năng tiếp nhận pháp luật nước ngoài, nhà
nghiên cứu Jhering có câu trả lời rõ ràng:
Việc tiếp nhận các thiết chế pháp luật nước ngoài không
phải là vấn đề xuất xứ của chúng, mà là chúng có hữu ích và cần
thiết hay không. Không ai mất công đem một thứ từ xa về nếu ở nhà
mình đã có thứ tốt bằng hoặc hơn như thế. Nhưng cũng chỉ có kẻ
ngốc nghếch mới từ chối không chịu nuôi thứ cây mới lạ chỉ vì nó
không mọc lên từ vườn nhà anh ta [34, tr. 17].
Còn tác giả Watson có quan điểm, "việc tiếp nhận luôn luôn diễn ra từ
trước tới nay, tiếp nhận pháp luật có lịch sử lâu đời như chính pháp luật, tiếp
nhận hiện nay vẫn diễn ra như đã từng có thời Hammurabi" [32, tr. 21].
Thực tế, không thể phủ nhận hoàn toàn khả năng tiếp nhận pháp luật

nước ngoài, quan điểm có thể tiếp nhận pháp luật nước ngoài phù hợp hơn với
lịch sử lâu đời của pháp luật và phù hợp với những nước mà thể chế pháp luật
kém phát triển. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để tiếp nhận pháp luật
nước ngoài thành công, muốn vậy, các quy định tiếp nhận phải được chọn lọc
sao cho phù hợp với bối cảnh, lịch sử, văn hóa của nước mình.
Du nhập pháp luật, du nhập thể chế từ lâu đã trở thành nguyên lý trong
xây dựng và ban hành pháp luật ở Việt Nam. Rất nhiều văn bản Luật mà sự
du nhập cho đến thời điểm hiện tại được đánh giá là khá thành công nổi bật là
sự du nhập của Luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng có không ít sự du nhập
pháp luật mà ở thời điểm hiện tại quy định của Luật vẫn "ìm lìm" trên giấy.
Luật phòng chống bạo lực gia đình được ban hành năm 2007 được xem là
bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, bảo vệ
hạt nhân gia đình và thể hiện nỗ lực của Đảng, của Nhà nước Việt Nam trong
việc thực hiện các Điều ước Quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là
thành viên. Tuy nhiên, những quy định "tốt đẹp" của Luật rất khó có thể thi
hành trên thực tế xuất phát từ tư tưởng, văn hóa truyền thống và phẩm chất

21


cam chịu của người phụ nữ Việt Nam. Sự du nhập của Luật phá sản đến thời
điểm hiện tại cũng là ví dụ điển hình về du nhập pháp luật không thành công
tại Việt Nam.
Từ bỏ kinh tế kế hoạch hóa và trước sức ép của tiến trình hội nhập,
Việt Nam đã ban hành Luật Cạnh tranh vào năm 2004 với nhiều tư tưởng về
điều tiết cạnh tranh được du nhập từ nước ngoài.
1.2.1. Tƣ tƣởng về chống độc quyền
Chống độc quyền (kiểm soát độc quyền) là một trong những mục tiêu
hàng đầu của Luật Cạnh tranh nhằm bảo vệ thị trường, bảo vệ các tác nhân
kinh tế và bảo vệ người tiêu dùng. Nhấn mạnh mục tiêu này, Luật Cạnh tranh

của rất nhiều nước tồn tại dưới tên gọi là Luật chống độc quyền.
Để chống độc quyền, Luật Cạnh tranh ở hầu hết các nước đều xây dựng
các quy phạm nội dung gồm ba bộ phận cơ bản: các quy phạm điều chỉnh thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh trên thị trường, các quy phạm điều chỉnh hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và các quy phạm về tập trung kinh tế.
Vận dụng quy phạm pháp luật từ Luật Cạnh tranh mẫu của Ủy ban
Liên hiệp Quốc về thương mại và phát triển và Luật Cạnh tranh ở các nước:
Nhật Bản, Liên minh Châu Âu, Mỹ… Luật Cạnh tranh Việt Nam được kết
cấu gồm hai phần: nhóm quy phạm nội dung với những quy phạm về hành vi
hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh và tập trung kinh tế;
nhóm quy phạm về thủ tục bao gồm các quy phạm về cơ quan quản lý cạnh
tranh và trình tự, thủ tục thụ lý, giải quyết vụ việc cạnh tranh.
Thực hiện mục tiêu chống độc quyền, việc thực thi pháp luật cạnh tranh
của Việt Nam dựa trên hai khái niệm cơ bản là thị trường liên quan và cấu
trúc thị trường.
Theo quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam, một doanh nghiệp được
xem là có vị trí thống lĩnh thị trường "nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị

22


trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng
kể" [31, Điều 11 khoản 1].
Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường
nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong
các trường hợp sau đây: a) Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50%
trở lên trên thị trường liên quan; b) Ba doanh nghiệp có tổng thị phần
từ 65% trở lên trên thị trường liên quan; c) Bốn doanh nghiệp có tổng
thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan [31, Điều 11 khoản 2].
Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh

nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh
trên thị trường liên quan. Như vậy, về bản chất, doanh nghiệp có vị trí độc
quyền là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh nắm giữ 100% thị phần trên thị
trường liên quan.
Thị trường liên quan được xác định:
Bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý
liên quan. Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những
hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử
dụng và giá cả. Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ
thể trong đó có những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau
với các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể
với các khu vực lân cận [31, Điều 3 khoản 1].
Trong khi đó, thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng hoá,
dịch vụ nhất định được hiểu:
Là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh
nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh
doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ
lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với
tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh

23


loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quý,
năm [31, Điều 3 khoản 5].
Bản thân vị trí thống lĩnh hay vị trí độc quyền của doanh nghiệp không bị
cấm, chỉ khi nào doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để loại
bỏ đối thủ cạnh tranh, làm ảnh hưởng đến quy luật cạnh tranh trên thị trường thì
hành vi của doanh nghiệp mới bị xem xét xử lý. Các hành vi bị cấm theo quy định
của Luật Cạnh tranh Việt Nam là:

Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ
nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh; Áp đặt giá mua, giá bán hàng
hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt
hại cho khách hàng; Ngăn cản việc tham gia thị trường của những
đối thủ cạnh tranh mới; Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương
thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính
đáng…[31, Điều 13 Điều 14].
Như vậy, thị phần là yếu tố duy nhất để xác định vị trí thống lĩnh thị
trường của một doanh nghiệp tại Việt Nam, ngoài yếu tố thị phần không có
một yếu tố nào khác được sử dụng kết hợp để xác định vị trí thống lĩnh thị
trường của doanh nghiệp. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, bản thân thị phần
không được coi là yếu tố quyết định sức mạnh thị trường mà các yếu tố khác
cũng cần được xem xét (như rào cản gia nhập, phản ứng của người mua và
đối thủ cạnh tranh…) [6, đoạn 5.8]. Theo Luật Cạnh tranh Singapore, một chủ
thể có thị phần dưới 60% trên thị trường liên quan vẫn có thể bị coi là có vị trí
thống lĩnh thị trường nếu các yếu tố khác có thể chứng tỏ rõ ràng sự hiện diện
của sức mạnh đó [6, đoạn 5.8]. Ủy ban cạnh tranh sẽ xem xét chủ thể tiến
hành hành vi đó có thể giải thích một cách hợp lí về hành vi của mình hay
không, Ủy ban sẽ ra quyết định cuối cùng trên cơ sở cân nhắc giữa hành vi
hạn chế cạnh tranh và những lợi ích phát sinh từ hành vi đó đối với cạnh tranh
và nền kinh tế [24, tr. 69]. Tương tự pháp luật cạnh tranh và án lệ Pháp cũng

24


không lấy yếu tố thị phần là yếu tố duy nhất để xác định vị trí thống lĩnh thị
trường của một doanh nghiệp, ngoài thị phần, các yếu tố khác như: vị trí
tương đối, khả năng tài chính của mỗi bên doanh nghiệp tham gia thị trường,
khả năng khoa học kỹ thuật của mỗi bên, địa vị pháp lý… cũng là những căn
cứ quan trọng để xem xét xác định vị trí thống lĩnh thị trường của một doanh

nghiệp tại Pháp [19, tr. 23]. Tại Hàn Quốc "khi xét đoán các doanh nghiệp
thống lĩnh thị trường, cần phải tính đến các yếu tố như thị phần, sự tồn tại và
quy mô của các hàng rào đối với việc thâm nhập thị trường và quy mô tương
đối của các doanh nghiệp cạnh tranh" [2, Điều 2 khoản 7]. Trong pháp luật
cạnh tranh của các nước Hoa Kỳ hay liên minh Châu Âu, để xác định sức
mạnh thị trường của một doanh nghiệp, cơ quan cạnh tranh thường phải tiến
hành những nghiên cứu toàn diện và phức tạp dựa trên việc phân tích rất
nhiều yếu tố như cấu trúc thị trường, thị phần, tỷ lệ tập trung, chỉ số HHI, rào
cản gia nhập thị trường, rào cản mở rộng thị trường, sức mạnh của người
mua, khả năng loại bỏ cạnh tranh…[24, tr. 70].
Mức thị phần làm thước đo để suy đoán sức mạnh thị trường của một
doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định là 30%. Mức thị phần này là tương
đối thấp so với thị phần được xác định trong pháp luật cạnh tranh của nhiều nước.
Theo Luật Cạnh tranh Hàn Quốc, một doanh nghiệp được xem là doanh nghiệp
thống lĩnh thị trường khi thị phần của doanh nghiệp lớn hơn 50% [2, Điều 4].
Ở Singapore, mức thị phần được xác định là 60% [24, tr. 71], ở Thái Lan là
75% [3, Điều 30]. Sự cứng nhắc và sơ sài của Luật Cạnh tranh trong việc
đánh giá sức mạnh thị trường của một doanh nghiệp rất dễ dẫn đến sai lầm và
tùy tiện trong các quyết định xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh hoặc
lạm dụng vị trí độc quyền, vừa gây lãng phí nguồn lực, vừa kìm hãm sự phát
triển của nền kinh tế.
Về tập trung kinh tế, với những quy định về các hình thức tập trung
kinh tế, các biện pháp kiểm soát và nguyên tắc xử lý đối với tập trung kinh tế

25


×