Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.25 KB, 56 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi gia nhập WTO hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đã có
những sự thay đổi tích cực cả về chất và về lượng. Với việc gia nhập tổ chức
thương mại này, các Ngân hàng Việt Nam sẽ có thêm nhiều cơ hội phát triển
hơn tuy nhiên kèm theo đó là cuộc cạnh trang khốc liệt mang tính toàn cầu.
Đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, với việc xuất hiện ngày càng
nhiều của các ngân hàng có vốn 100% nước ngoài. Đứng trước sự cạnh tranh
đó, các ngân hàng Việt Nam không còn cách nào khác là phải tìm ra cho riêng
mình những chính sách phù hợp để thu hút khách hàng, nâng cao tính cạnh
tranh để chiếm thị phần. Trong các cạnh tranh ấy, cạnh tranh về nguồn vốn
huy động cũng đang diễn ra khá gay gắt. Vì vốn là nhân tố đầu tiên, nhân tố
trung tâm và đồng thời là nhân tố quyết định đến mọi hoạt động của các hoạt
động kinh tế nói chung và của ngân hàng thương mại nói riêng. Xuất phát từ
việc nhận thức được vai trò quan trọng của vốn huy động, trong những năm
gần đây Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, chi nhánh Hà Nội đã có những
kế hoạch thu hút vốn dài hạn và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tuy
nhiên vẫn còn tồn tại những khó khăn chung trong công tác huy động vốn. Vì
vậy nâng cao hiệu quả huy động vốn là vấn đề được Ngân hàng Ngoại
Thương Hà Nội quan tâm trong thời gian sắp tới.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này nên trong
thời gian thực tập, em đã đi sâu tìm hiểu về hoạt động huy động vốn của Ngân
hàng Ngoại Thương Hà Nội và hoàn thành đề tài:
“ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương Việt Nam, chi nhánh Hà Nội ”
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Ngân hàng thương mại và những vấn đề cơ bản về công tác huy
động vốn của ngân hàng thương mại
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại
thương, chi nhánh Hà Nội
Chương 3: Các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn


tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam, chi nhánh Hà Nội
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
CHƯƠNG 1
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Ngân hàng thương mại và các hoạt động chủ yếu của ngân hàng
thương mại
1.1.1.Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương
mại chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân
hàng.
Ở Việt Nam, pháp lệnh Ngân hàng ban hành ngày 23/5/1990 xác định:”
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả
và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán”
1.1.2.Vai trò của ngân hàng thương mại
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự ra đời và phát triển của
NHTM đã đóng góp đáng kể trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thế
giới và mỗi quốc gia. Ở tất cả các nước, hệ thống NHTM không ngừng phát
triển, đóng vai trò tập trung những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền
kinh tế để cung ứng vốn cho những nhà đầu tư cần vốn, đó là quá trình huy
động vốn và sử dụng vốn của các NHTM. Nền kinh tế chỉ có thể cất cánh,
phát triển với tốc độ cao nều có một hệ thống ngân hàng vững mạnh vì ngân
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
hàng và nền kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, vai trò của
NHTM được thể hiện ở một số mặt như sau:

1.1.2.1. NHTM là nơi huy động, tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã
hội để cung cấp cho nhu cầu vốn của nền kinh tế
Trong bất cứ nền kinh tế nào luôn luôn tồn tại tình trạng thừa và thiếu
vốn một cách tạm thời. Những cá nhân, tổ chức có tiền nhàn rỗi tạm thời thì
muốn bảo quản số tiền một cách an toàn và có hiệu quả nhất. Trong khi đó
những cá nhân, tổ chức có nhu cầu về vốn thì muốn vay được những khoản
vốn nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì lẽ đó,
NHTM là một trung gian tài chính tốt nhất để thực hiện chức năng cầu nối
giữa cung và cầu về vốn. Bằng vốn huy động được trong xã hội mà chủ yếu là
thông qua hoạt động tín dụng, NHTM đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động
kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình sản xuất. Nhờ
có hoạt động của hệ thống NHTM và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các
doanh nghiệp, cá nhân có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, công
nghệ để nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng
sản phẩm cho xã hội
1.1.2.2. NHTM là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường
Để có thể tiếp cận thị trường và tìm kiếm lợi nhuận, các doanh nghiệp
cần phải quan tâm tới thị trường đầu vào mà yếu tố đầu vào quan trọng nhất
chính là vốn, đây luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh doanh vì
nó đặt nền tảng đầu tiên cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp không thể trông chờ vào vốn tự có mà phải biết khai thác
các nguồn vốn khác tài trợ cho dự án của mình. Nguồn vốn tín dụng của
NHTM sẽ giúp doanh nghiệp giải quyết được những khó khăn về vấn đề vốn.
Như vậy, NHTM với địa vị là một trung gian tài chính thực hiện chức năng là
chiếc cầu nối giữa cung và cầu về vốn trên thị trường đã góp phần đẩy nhanh
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
hoạt động của nền kinh tế, đem lại thuận lợi cho hoạt động của các cá nhân, tổ
chức trong việc tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Việc
vay vốn từ ngân hàng của doanh nghiệp đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải có
phương án sản xuất tối ưu và có hiệu quả kinh tế thì mới có thể trả lãi và trả

vốn cho ngân hàng.
1.1.2.3.NHTM là một công cụ để Nhà nước điều tiễn vĩ mô nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM là một công cụ hữu hiệu để Nhà nước
điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các
NHTM trong hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiêng
trong lưu thông. Hơn thế nữa, bằng việc cung cấp các khoản tín dụng cho nền
kinh tế, NHTM thực hiệc việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp, phân chia vốn của
thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả.
Trong hoạt động của mình, NHTM có thể giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu
thông bằng cách tăng lãi suất huy động để thu hút tiền mặt vào đồng thời tăng lãi
suất ở đầu ra để hạn chế lượng tiền mặt ra trong thời kỳ có lạm phát cao, hoặc các
Ngân hàng có thể hành động ngược lại nếu như nền kinh tế có hiện tượng giảm
phát. Qua đổi chính sách huy động và cho vay như trên, Ngân hàng góp phần làm
ổn định sức mua của đồng tiền, ngăn chặn sự tăng giá đột ngột, kiềm chế lạm
phát, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng theo phương châm:” Nhà nước điều tiết
ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”
1.1.2.4. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Trong thời đại ngày nay, áp lực cạnh trang buộc nền kinh tế mỗi quốc
gia khi mở cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh và toàn diện về mọi mặt
mà quan trọng nhất là tài chính. NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia
và thế giới, tạo điều kiện cho việc hòa nhập của nền kinh tế trong nước với
nền kinh tế trong khu vực và nền kinh tế thế giới. Với hoạt động rộng khắp
của mình, các ngân hàng góp phần đảm bảo được nguồn vốn trong nước, tạo
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có thể mở rộng hoạt động của họ
ra nước ngoài một cách dễ dàng hơn, hiệu quả hơn nhờ hoạt động thanh toán
quốc tế. Chính từ sự mở rộng các quan hệ quốc tế mà nền kinh tế trong nước
có sự thâm nhập vào thị trường quốc tế và tăng cường khả năng cạnh tranh
với các nước khác trên thế giới.
1.1.3Chức năng của ngân hàng thương mại

1.1.3.1.Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ
chức trong nền kinh tế. Các các nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu,
tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những
người cần bổ sung vốn; và các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức
là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ
và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức
này hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm
có thu hiện tại lớn hơn chi tiêu sang nhóm cần bổ sung vốn. Ngân hàng là
trung gian tài chính khi nó là cầu nối giữa người thừa vốn và người thiếu vốn.
Nói các khác, ngân hàng sau khi huy động được các nguồn tiền tạm thời nhàn
rỗi trong nền kinh tế sẽ hình thành nên các quỹ cho vay của ngân hàng và sử
dụng nó để đáp ứng nhu cầu vay vốn của các chủ thể trong nền kinh tế. Đối
với ngân hàng, họ sẽ tìm được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay
và lãi tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở cho
NHTM tồn tại và phát triển.
1.1.3.2. Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị
hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng thuận lợi và tiết kiệm
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như
thanh toán bằng séc, uy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng
lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng
cần. Các ngân hàng còn thực hiện bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung
Ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán.
Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt
động kinh tế. Trước hết thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng góp
phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt và đảm bảo thanh toán an toàn.

NHTM sẽ cung cấp cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán nhanh chóng
và thuận tiện, điều này góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, luân
chuyển vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội. Mặt khác, chức năng
này còn góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng thông qua việc thu phí thanh
toán làm tăng uy tín cho ngân hàng và tạo điều kiện cho ngân hàng thu hút
nguồn vốn tiền gửi, chinh điều này giúp ngân hàng tăng thêm nguồn vốn cho
vay.
1.1.3.3. Tạo phương tiện thanh toán
Đây là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt động ngân hàng, từ
một số dự trữ ban đầu thông qua quá trình cho vay và thanh toán bằng chuyển
khoản của ngân hàng thì lượng tiền mới được tạo ra và nó lớn hơn so với
lượng dự trữ ban đầu nhiều lần.
Từ một khoản tiền ban đầu thông qua chức năng trung gian tài chính,
ngân hàng sử dụng để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử
dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền
gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao
dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ, tức là ngân hàng
đã tạo ra phương tiện thanh toán.
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
Với chức năng này, NHTM đã giảm được khối lượng tiền mặt trong lưu
thông, tiết kiệm được chi phí, giúp điều tiết lượng tiền cung ứng, làm tăng
tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế để đáp ứng nhu cầu xã hôi.
1.1.4.Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa, cung cấp vốn
cho nền kinh tế. Với sự phát triển kinh tế và công nghệ hiện nay, hoạt động
ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh, đa dạng và phong phú song ngân
hàng vẫn duy trì những nghiệp vụ cơ bản sau:
1.1.4.1.Nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm
mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các

khoản tiền gửi. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có
tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn.
Ngân hàng nhận tiền gửi từ khách hàng dưới các hình thức tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác.
Qua hoạt động này Ngân hàng đã thu hút được một lượng lớn tiền tạm thời
nhàn rỗi để phục vụ cho các hoạt động của mình như hoạt động cho vay và
thông qua đó cung cấp phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Trong cuộc
cạnh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho
tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu
tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
1.1.4.2. Hoạt động tài trợ của ngân hàng
Trên cơ sở lượng tiền gửi từ nền kinh tế mà ngân hàng tiếp nhận và
quản lý được sau khi trừ đi phần dự trử bắt buộc theo quy định của NHTW,
phần còn lại sẽ được ngân hàng tài trợ cho các hoạt động của mình.
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
a. Tài trợ cho hoạt động của Chính Phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng vốn của ngân hàng đã
trở thành trọng tâm chú ý của các Chính Phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn của
Chính Phủ và thường là cấp bách trong khi thu không đủ chi hoặc chưa đủ thì
Chính Phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản vay của ngân
hàng.Phương thức được sử dụng nhiều nhất là ngân hàng thực hiện nghiệp vụ
mua bán tín phiếu, trái phiếu hoặc làm đại lý phát hàng các giấy tờ có giá cho
Chính Phủ. Qua nghiệp vụ này, một mặt vừa thực hiện nghĩa vụ với nhà nước
mặt khác vừa đem lại thu nhập cho Ngân hàng
b. Tài trợ cho nền kinh tế
Bất cứ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế
thị trương đều phải có nguồn lực tài chính đủ mạnh, trước hết là để tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh, sau đó là để mở rộng quy mô sản xuất và
tham gia cạnh tranh. Nguồn lực này ngoài vốn tự có của các doanh nghiệp thì
phần lớn các doanh nghiệp đều phải dựa vào nguồn vốn đi vay. Tùy theo nhu

cầu và loại hình kinh doanh, Ngân hàng sẽ chấp nhận cho doanh nghiệp vay
theo các phương thức khác nhau trên cơ sở thỏa mãn các điều kiện vay vốn
của ngân hàng đưa ra.
Cho vay:
Là hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng giao cho khách hàng một
khoản tiền để sử dụng trong một khoảng thời gian và theo mục đích nhất định
trên cở sở nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Cho vay gồm có cho vay
thương mại, cho vay tiêu dùng và tài trợ cho dự án
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn:
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn,
nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê ( thay vi bán ) các thiết bị.
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua. Rất nhiều khách hàng tích cực
cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần
thiết thông qua hợp đông thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và khách
hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải
trả tới hớn 2/3 giá trị tài sản cho thuê.
Góp vốn đầu tư:
Là hình thức Ngân hàng cùng một số đối tác cùng góp vốn để thực hiện
các dự án sản xuất kinh doanh. Có thể là hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián
tiếp, và ngân hàng được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ như một cổ đông
thường.
Mua nợ: Ngân hàng có thể tài trợ cho khách hàng thông qua việc mua lại các
khoản nợ, hay chiết khấu các chứng từ có giá.
c. Mua bán ngoại tệ
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là tra đổi,
mua bán ngoại tệ- một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một
loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Số lượng ngoại tệ mà ngân hàng mua
được có thể dùng để cho vay đối với các khách hàng có nhu cầu vay bằng
ngoại tệ hoặc dùng để thanh toán trong các giao dịch bằng ngoại tệ.

d. Các dịch vụ của ngân hàng
*) Cung cấp tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán hộ
Thông qua việc thu hút khách hàng ( Cá nhân hoặc tổ chức) mở tài
khoản giao dịch tại ngân hàng, ngân hàng sẽ quả lý tài khoản của khách
hàng và tiến hành chi trả tiền hàng hóa dịch vụ cũng như thu hộ các khoản
phải thu của chủ tài khoản theo lệnh của họ. Thực hiện nghiệp vụ này một
mặt Ngân hàng sẽ giúp cho khách hàng giảm bớt được chi phí trong quá
trình thanh toán,mặt khác Ngân hàng tập trung được một lượng tiền lớn để
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
sử dụng cho các hoạt động của mình.
*) Bảo quản vật có giá
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho
khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách
hàng tờ biên nhận. Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận,
nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền- dùng để thanh toán các
khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Đó là hình
thức đầu tiên của Ngân hàng. Ngày nay vật có giá được tách khỏi tiền gửi và
khách hàng phải trả phí bảo quản.
*) Dịch vụ bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và
do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín
trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng sẽ được hưởng một khoản mức
phí gọi là phí bảo lãnh, mức phí này tùy thuộc vào mức độ rủi ro của từng
hợp đồng bảo lãnh. Ngày nay, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và
phát triển mạnh.
*) Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn đầu tư
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có rất nhiều
chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã
nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy
thác phát triển sang cả ủy thác vay hộ, ủy thác cho vay hộ, ủy thác phát

hành, ủy thác đầu tư…Thậm chí, các ngân hàng đóng vai trò là người được
ủy thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời. Nhiều
khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính, Ngân
hàng sẵn sang tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán,
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
sát nhập doanh nghiệp. Nghiệp vụ này ở các nước trên thê giới phát triển rất
mạnh nhưng với Việt Nam, tư vấn đầu tư còn chưa phát triển.
*) Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho
phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do
khiến các khách hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung
cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán
khác mà không cần nhờ đến kinh doanh chứng khoán. Với trình độ của đội
ngũ cán bộ nhân viên và hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, Ngân hàng đã
cung cấp cho khách hàng các thông tin về chứng khoán và đầu tư chứng
khoán như các danh mục đầu tư, quản lý tài khoản, mua bán hộ, bảo quản
chứng khoán…
*) Cung cấp các dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi
nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng ( thường ngân
hàng lớn ) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác, như
thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối
trong đồng tài trợ…
1.2 Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm vốn
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy
động được dùng để đầu tư, cho vay hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh
khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của NHTM. Vốn huy động chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM, nó đóng vai trò rất quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nó quyết định sự tồn tại và

phát triển của Ngân hàng.
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
Vốn của ngân hàng được hình thành qua các nguồn khác nhau, để bắt
đầu hoạt động của ngân hàng thì chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất
định, được gọi là vốn ban đầu. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng
khối lượng vốn của mình thông qua các hoạt động huy động vốn như nghiệp
cụ tiền gửi, nghiệp vụ đi vay và các nghiệp vụ khác.
1.2.2. Kết cấu vốn của NHTM
1.2.2.1. Vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng chủ ngân hàng phải có một lượng vốn
nhất định, đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành trang
thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành
loại vốn này rất đa dạng tùy theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ
ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Mặc dù chỉ chiếm một tỷ
trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng , song lại là điều kiện pháp lý
bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Vì đây là nguồn vốn ổn định, nên một
mặt ngân hàng chủ động sử dụng nó vào mục đích kinh doanh của mình, mặt
khác lại coi như tài sản đảm bảo, tạo dựng niềm tin đối với khách và duy trì
khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp rủi ro tín dụng. Vốn chủ
sở hữu của NHTM được hình thành bởi nguồn vốn hình thành ban đầu, vốn
bổ sung, các quỹ, nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
1.2.2.2. Vốn huy động
Vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân hàng,
đó là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động từ các tổ chức kinh tế và
các cá nhân trong xã hội. Ngân hàng chỉ có quyền sự dụng mà không có
quyền sở hữu nguồn vốn này và phải có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc
và lãi khi chủ sở hữu có nhu cầu rút vốn.
Trong nguồn vốn huy động thì tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên
quan trọng nhất của NHTM. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động thì nghiệp
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A

vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách
hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ
chức và của dân cư. Tài khoản tiền gửi bao gồm:
• Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán )
• Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
• Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
• Tiền gửi của các ngân hàng khác
1.2.2.3. Vốn đi vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên khi cần ngân hàng
thường vay thêm.
• Vay NHNN
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
NHTM. Trong trường hợp thiếu dự trữ ( thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh
toán ) NHTM thường vay NHNN. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là
tái chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn ). Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu
cho những thương phiếu có chất lượng ( thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả
nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kỳ.
• Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín
dụng kháh trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang thiếu hụt số dự
trữ bắt buộc có thể vay các ngân hàng khác để đảm bảo tính thanh khoản. Như
vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và
chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho
nguồn vay mượn từ NHNN. Khoản vay có thế không cần đảm bảo, hoặc được
đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc.
• Vay trên thị trường vốn
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng
cách phát hành các giấy nợ ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu ) trên thị trường
vốn. Rất nhiều NHTM thiều nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không

đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản trung và
dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và
đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo.
Những ngân hàng cố uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn.
Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này. Khả năng
vay mượn còn tùy thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo
khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng.
• Các nguồn khác
Ngoài các hình thức huy động vốn trên thì ngân hàng có thể huy động vốn
từ nhiều nguồn khác như nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán…
1.2.3. Vai trò của vốn huy động với hoạt động kinh doanh của NHTM
NHTM kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, chi vay, đầu tư và
cung cấp các dịch vụ khác. Dưới bất kỳ hình thức nào các NHTM luôn đặt lợi
nhuận lên hàng đầu. Để đạt được điều đó, công cụ cần thiết mà các ngân hàng
phải có được là vốn. Một ngân hàng với nguồn vốn huy động dồi dào sẽ hoàn
toàn tự quyết định trong hoạt động kinh doanh của mình, nắm bắt các cơ hội
kinh doanh. Vì vậy, huy động vốn hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM đóng
vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của ngân hàng.
• Vốn huy động là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Khác với doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, hoạt
động cuat ngân hàng có những đặc trưng riêng, vốn không chỉ là phương tiện
kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là tổ chức
kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường tiền tệ ( thị trường vốn ngắn
hạn ) và thị trường chứng khoán ( thị trường vốn dài hạn ). Trong cơ cấu vốn
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
của ngân hàng thì ngoài thành phần vốn tự có thì còn có vốn huy động, vốn
vay và các nguồn vốn khác. Một ngân hàng không chỉ hoạt động nhờ nguồn
vốn tự có và vốn đi vay vì vốn tự có của ngân hàng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ
trong tổng cơ cấu vốn của ngân hàng còn vốn đi vay thì ngân hàng phải phụ
thuộc vào đối tượng cho vay về thời hạn, số lượng và chi phí khác. Do đó có

thể ngân hàng sẽ bỏ lỡ những cơ hội của mình nếu phụ thuộc vào nguồn này.
Ngược lại, một ngân hàng có nguồn vốn dồi dào sẽ rất chủ động trong hoạt
động kinh doanh của mình.
• Vốn huy động quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động khác
Tùy theo quy mô và cơ cấu nguồn vốn huy động được mà ngân hàng sẽ
quyết định quy mô và cơ cấu đầu tư, mở rộng hay thu hẹp tín dụng. Với
nguồn vốn huy động lớn,ngân hàng có đủ khả năng mở rộng phạm vi và khối
lượng cho vay không chỉ giới hạn trên thị trường trong nước mà còn cho vay
vượt ra khỏi lãnh thổ một quốc gia. Ngược lại, với nguồn vốn hạn hẹp, các
ngân hàng nhỏ thường không có những phản ứng nhanh nhạy trước sự biến
động của lãi suất, ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư. Do vậy, một
ngân hàng có nguồn vốn dồi dào sẽ đáp ứng được nhu cầu xin vay, dễ dàng
mở rộng thị trường tín dụng, tăng khả năng thanh toán và các dịch vụ khác
của ngân hàng.
• Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
trên thị trường tài chính
Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, nếu không có uy tín
thì ngân hàng không thể tồn tại và ngày càng mở rộng hoạt động của mình.
Uy tín đó phải thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán khi khách
hàng có yêu cầu. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả
dụng của ngân hàng càng lớn, đồng thời nó tạo cho hoạt động kinh doanh của
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
ngân hàng càng mở rộng, giúp ngân hàng có thể tiến hành các hoạt động cạnh
tranh, đảm bảo uy tín, nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thị trường.
• Vốn huy động quyết định năng lực cạnh trang của ngân hàng
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường, cạnh
tranh giúp các doanh nghiệp hoàn thiện mình hơn. Để có thể chiến thắng
trong cạnh tranh thì ngoài việc phải có chiến lược cạnh tranh hợp lý thì yếu tố
về khả năng tài chính luôn giữ vai trò quyết định cuối cùng. Quy mô vốn,
trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiền đề cho việc

thu hút nguồn vốn. Nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng
trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế cả về quy mô,
khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, lãi suất. Ngoài ra, ngân hàng còn
có thể phát triển thêm nhiều loại hình dịch vụ mới, tham gia vào nhiều hoạt
động khác như liên doanh, liên kết, đầu tư trên thị trường vốn, trên thị trường
tiền tệ…Bằng những hoạt động này, ngân hàng đã phân tán rủi ro, thu hút
thêm nhiều khách hàng, mở rộng thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh
với ngân hàng khác.
1.3 Huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.3.1. Cách thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Trong tổng nguồn vốn của một ngân hàng, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm
một phần rất nhỏ, còn đại bộ phận là nguồn vốn huy động từ các đối tượng
khác nhau. Vốn huy động sẽ quyết định đến khả năng mở rộng quy mô kinh
doanh, kết quả hoạt động kinh doanh của một NHTM. Một ngân hàng thành
công trong công tác huy động vốn sẽ có tiềm lực tài chính để nâng cao khả
năng cạnh tranh : mở rộng thêm nhiều điểm giao dịch với khách hàng, nghiên
cứu và đưa ra thị trường những sản phẩm mới bên cạnh những sản phẩm
truyền thống. Nhờ vậy, ngân hàng sẽ thu hút thêm nhiều khách hàng mới. Để
thu hút vốn hiệu quả, các NHTM áp dụng nhiều hình thức huy động vốn:
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
• Huy động vốn từ nguồn tài khoản tiền gửi
Tiền gửi khách hàng luôn là nguồn quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Một ngân hàng muốn tồn tại và
phát triển thì không thể bỏ qua nguồn vốn này
- Tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn là những giá trị tiền tệ mà khách hàng gửi vào ngân
hàng nhưng có thể rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải đáp ứng đầy đủ yêu
cầu của người gửi tiền. Ngân hàng phải trả mộ mức lãi suất thấp cho số tiền
gửi này bởi vì tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng rất biến động , khách
hàng có thể rút bất cứ lúc nào, do vậy nó là nguồn vốn biến động nhiều nhất,

ngân hàng không thể chủ động sử dụng số vốn này, ngân hàng phải dự trữ
một số tiền để đảm bảo có thể thanh toán ngay khi khách hàng có nhu cầu rút
tiền. Tiền gửi không kỳ hạn gồm hai loại:
* Tiền gửi thanh toán : Loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng để
thực hiện các khoản thanh toán về tiền mua hàng hóa, dịch vụ và các khoản
thanh toán khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách
hàng.
* Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy: Loại tiền gửi không kỳ hạn khách hàng
gửi vào ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn về tài sản. Tiền gửi không kỳ hạn
thuần túy cũng là tài sản của người ký thác, họ có quyền rút bất cứ khi nào họ
muốn, ngân hàng phải luôn đảm bảo có thể thanh toán, lãi suất tiền gửi không
kỳ hạn thuần túy cao hơn lãi tiền gửi thanh toán.
-Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là những giá trị tiền tệ mà khách hàng gửi vào ngân
hàng nhưng có sự thỏa thuận thời gian rút tiền. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền
gửi tương đối ổn định vì ngân hàng xác định được thời hạn rút tiền của khách
hàng để thanh toán cho khách hàng đúng thời hạn. Do đó, ngân hàng có thể
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
chủ động sử dụng số tiền gửi đó vào mục đích kinh doanh. Đối với loại tiền
gửi này, ngân hàng có rất nhiều loại thời hạn từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng và
nhiều nhất là 24 tháng. Mục đích là tạo cho khách hàng có được nhiều kỳ hạn
gửi phù hợp với thời gian nhàn rỗi của khoản tiền họ có. Lãi suất tiền gửi có
kỳ hạn cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn, và kỳ hạn của tiền gửi càng dài thì
lãi suất càng cao hơn.
-Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là khoản thu nhập của người dân tạm thời chưa sử dụng
đến, nhằm đảm bảo an toàn và tìm kiếm lợi nhuận họ gửi vào ngân hàng
hưởng lãi suất theo quy định. Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
• Phân loại theo đối tượng

- Tiền gửi của dân cư
Mỗi gia đình, mỗi cá nhân đều có những khoản tiền dự phòng cho tiêu dùng
và rủi ro trong tương lại. Khi xã hội càng phát triển thì các khoản dự phòng
càng tăng lên. Nắm bắt được những đặc tính đó, các NHTM tìm mọi cách
thức huy động các khoản tiết kiệm này vì đây là một nguồn vốn không nhỏ để
đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế đồng thời giúp ngân hàng kiếm được
khoản lợi nhuận không nhỏ.
-Tiền gửi của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh nên họ
thường gửi một khối lượng tiền lớn vào ngân hàng để hưởng tiện ích trong
thanh toán. Đây là nguồn có chi phí thấp nên các NHTM luôn tìm mọi cách
để gia tăng nguồn vốn này. Tuy nhiên nguồn vốn này có hạn chế là tính ổn
định và khối lượng vốn phụ thuộc vào quy mô, loại hình của doanh nghiệp.
• Huy động từ nguồn vốn vay
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
Tiền gửi của khách hàng luôn là nguồn vốn quan trọng nhất đối với mọi
NHTM, tuy nhiên trong thực tế có những lúc NH thiếu vốn trong ngắn hạn
mà nguồn vốn từ tiền gửi khách hàng chưa đáp ứng kịp thì NH có thể tiến
hành việc vay vốn để đáp ứng nhu cầu chi trả. Có rất nhiều cách thức mà NH
có thể vay để bổ sung thêm nguồn vốn của mình
-Vay NHTW
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của các
NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ ( dự trữ thanh toán) các NHTM
thường vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu là tái chiết khấu
( hoặc cấp vốn ). Tùy theo theo mục đích sử dụng vốn và hình thức vay vốn,
NHTM có thể vay NHTW các loại vốn : Vốn ngắn hạn nhằm bổ sung những
thiếu hụt tạm thời của NHTM trong thanh toán …Tùy từng thời kỳ, tùy thuộc
vào chính sách tiền tệ mà NHTW đang áp dụng, việc vay mượn của NHTM
sẽ được quản lý một cách chặt chẽ.
Trong thực tế, cho dù ở bất cứ thời điểm nào, cho dù NHTW áp dụng mức lãi

suất chiết khấu thế nào thì NHTW vẫn phải cho các NHTM vay khi các NH
này gặp vấn đề trong thanh toán nhằm tránh các cuộc khủng hoảng kinh tế có
thể xảy ra và cũng để thực hiện tốt chức năng của minh là : người cho vay
cuối cùng đối với các NHTM
-Vay các tổ chức tín dụng khác
Các NHTM luôn bị NHTW khống chế về số dự trữ bắt buộc, điều này
nhằm đảm bảo cho các NHTM trong vấn đề thanh toán. Trong một số trường
hợp, có những ngân hàng có số dự trữ lớn hơn số dự trữ bắt buộc của NHTW,
ngược lại có những ngân hàng lại không đủ số dự trữ bắt buộc. Lúc này
những ngân hàng thiếu hụt dự trữ có thể tiến hành viêc vay những ngân hàng
khác nhằm bổ sung số thiếu hụt đó, vì thế việc vay mượn giữa các ngân hàng
còn được gọi là vay trên thị trường liên ngân hàng. Quá trình vay mượn giữa
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
các ngân hàng rất đơn giản, không cần phải tài sản thế chấp mà chỉ cần dựa
vào uy tín của ngân hàng mình, vì những khoản vay này chỉ là những khoản
vay ngắn hạn, có khi chỉ là những khoản vay qua đêm ( overnight )
-Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá
Trong nhiều trường hợp NHTM thiếu hụt vốn, các NH có thể bổ sung
vốn thông qua việc phát hành các trái phiếu và kỳ phiếu ngân hàng. Kỳ hạn
của trái phiếu thường là trên 1 năm vì mục đích của ngân hàng là huy động
vốn trung và dài hạn, còn với kỳ phiếu thì kỳ hạn ngắn, nó được sử dụng với
mục đích huy động vốn ngắn hạn. Việc phát hành trái phiếu và kỳ phiếu ngân
hàng đều chịu sự quản lý chặt chẽ của NHTW và ảnh hưởng rất nhiều bởi uy
tín của ngân hàng. Ngân hàng mà có uy tín cao thì việc phát hành trái phiếu
càng được người dân chấp nhận dễ dàng. Việc phát hành trái phiếu và kỳ
phiếu không chỉ là việc tăng thêm nguồn vốn thiếu hụt của NHTM, nó còn thể
hiện chức năng của NHTM là giúp NHTW quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trong
điều kiện nền kinh tế có lạm phát cao thì việc NHTM phát hành trái phiếu hay
cổ phiếu sẽ góp phần đáng kể vào việc kìm chế lạm phát.
Tuy vậy, NHTM khi phát hành các công cụ nợ này cần phải có kế

hoạch sử dụng vốn sao cho phù hợp, cần phải căn cứ vào đầu ra để quyêt định
quy mô vốn huy động, thời hạn và lãi suất
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động
1.3.2.1. Nhân tố khách quan
* Môi trường chính trị pháp luật
Hoạt động ngân hàng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của nền
kinh tế. Việc huy động và sự dụng vốn ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tăng
trưởng kinh tế của một quốc gia, thu nhập của dân cư, tình hình lạm phát.
Chính vì lẽ đó, hoạt động ngân hàng lại càng chịu sự quản lý chặt chẽ của
pháp luật hơn các doanh nghiệp khác. Thực tế, các NHTM ngoài việc chịu sự
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
quản lý trực tiếp của NHTW, còn bị sự điều chỉnh của rất nhiều chính sách,
các quy định, nghị định của Chính Phủ : Luật dân sự, luật kinh tế, luật doanh
nghiệp…Môi trường chính trị, các chính sách tiền tệ, tài chính, lãi suất có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc huy động vốn của các NHTM.
* Môi trường kinh tế- xã hội
Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động huy động và sử dụng
vốn bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng, thu
nhập, tình trạng thất nghiệo, lạm phát. Trong điều kiện kinh tế tăng trưởng
cao, thu nhập người dân tăng mạnh, tạo điều kiện cho tích lũy nhiều hơn,
khiến cho môi trường thu hút vốn của ngân hàng thuận lợi. Kinh tế tăng
trưởng khiến cho nhu cầu đầu tư tăng mạnh, các NHTM có thế nâng cao lãi
suất huy động để đáp ứng nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp. Ngược lại, khi
nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng cao khiến cho thu nhập thực của người
dân giảm khiến cho công tác huy động vốn của ngân hàng gặp nhiều khó
khăn.
*Môi trường văn hóa
Việc gửi tiền vào ngân hàng của người dân không chỉ phụ thuộc vào
các chính sách thu hút vốn của ngân hàng mà còn phụ thuộc vào chính tâm lý,
thói quen của dân cư. Ở những nước phát triển, việc gửi tiền ở ngân hàng

không còn là một điều gì mới mẻ với người dân.Ở những đất nước này, việc
dùng tiền mặt trong lưu thông là rất ít. Ngược lại, ở Việt Nam nói riêng và các
nước đang phát triển nói chung thì tiêu dùng của người dân vẫn chủ yếu bằng
tiền mặt. Chính vì vậy yếu tố tâm lý, thói quen, thái độ với rủi ro trong việc
giữ tiền mặt của người dân cũng ảnh hưởng lớn đến công tác huy động vốn
của ngân hàng.
* Cạnh tranh trên thị trường tài chính
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
Không một doanh nghiệp nào tồn tại trên thị trường mà tránh khỏi sự
cạnh tranh. Cạnh tranh giúp doanh nghiệp đó ngày càng phát triển bền vững
hơn. Ngân hàng cũng không ngoại lệ. Với việc xuất hiện ngày càng nhiều
ngân hàng mới và các tổ chức tài chính phi ngân hàng c làm cho sự khác biệt
giữa ngân hàng và các tổ chức phi ngân hàng này không còn khác biệt lữa,
điều này khiến người dân có nhiều lựa chọn hơn khi quyết định vay hay gửi
tiền. Xu hướng cạnh tranh trong ngành ngân hàng là điều không thể tránh
khỏi với bất cứ một ngân hàng nào muốn tồn tại và phát triển. Cạnh tranh diễn
ra dưới nhiều hình thức, không chỉ dưới hình thái lãi suất mà còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác như : uy tín ngân hàng, chính sách marketing… Chính
vì vậy, cạnh tranh là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến khả năng thu hút vốn của
NHTM
1.3.2.2. Nhân tố chủ quan
* Các hình thức huy động vốn và chất lượng các dịch vụ do ngân hàng cung
ứng
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quy mô, chất lượng nguồn vốn
huy động là hình thức, kỳ hạn và các dịch vụ kèm theo. Do nhu cầu của khách
hàng là đa dạng nên nếu như ngân hàng có nhiều hình thức và kỳ hạn huy
động phong phú sẽ dễ dàng đáp ứng được các nhu cầu đó của khách hàng.
Chất lượng của các dịch vụ của ngân hàng cũng là điều mà các ngân hàng cần
quan tâm. Khi mà lãi suất và các hình thức huy động hay kỳ hạn của các ngân
hàng là giống nhau thì yếu tố quyết định một người sẽ gửi tiền tại ngân hàng

này mà không phải ngân hàng khác chính là chất lượng dịch vụ mà ngân hàng
sẽ đáp ứng người dân..
* Chất lượng tín dụng
Nghiệp vụ huy động vốn luôn luôn gắn liền với nghiệp vụ sử dụng vốn.
Nếu như nghiệp vụ huy động vốn nhằm thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
nền kinh tế thì nghiệp vụ sử dụng vốn lại thực hiện việc sử dụng các nguồn
vốn vào nền kinh tế để sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tiêu dùng…để đem lại
lợi nhuận cho ngân hàng. Chính vì lẽ đó, một ngân hàng nếu như việc sử dụng
vốn gặp vấn đề thì trước hết nó sẽ là giảm quy mô vốn mà ngân hàng đó sẽ
huy động, sau đó uy tín của ngân hàng sẽ bị suy giảm nghiêm trọng, từ đó dẫn
đến việc thu hút vốn nhàn rỗi của ngân hàng là rất khó khăn. Ngược lại, nếu
như NH có chất lượng tín dụng tốt, điều đó góp phần vào tăng trưởng kinh tế,
làm tăng thu nhập của người dân khiến tích lũy của người dân nhiều hơn, dẫn
đến công tác huy động vốn của ngân hàng gặp nhiều thuận lợi hơn.
* Uy tín của ngân hàng
Việc người dân gửi tiền vào ngân hàng không chỉ đơn thuần là tìm
kiếm lợi nhuận đó còn là vì họ mong việc gửi tiền sẽ giúp họ giảm thiểu được
rủi ro khi cầm tiền. Chính vì vậy khi họ quyết định gửi tiền, họ sẽ chỉ tìm đến
những ngân hàng nào thật sự có uy tín, có thương hiệu trên thị trường. Với bất
cứ một doanh nghiệp nào thì vấn đề uy tín, thương hiệu luôn luôn là vấn đề
sống còn, vì khách hàng chỉ biết đến và tìm đến họ thông qua thương hiệu.
Chính vì vậy, nếu ngân hàng có uy tín cao thì sẽ dễ dàng thu hút vốn hơn. Uy
tín ngân hàng không chỉ tạo lập trong ngày một ngày hai, đó cần cả một quá
trình lâu dài và bền bỉ. Rất khó để một ngân hàng mới có thể tạo ngay được
hình ảnh của mình trong lòng khách hàng.
* Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Việc huy động vốn không chỉ tiến hành trong một thời kỳ ngắn hạn, nó
cần phải có một chiến lược huy động vốn dài hạn. Vì vậy mỗi ngân hàng cần
phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể, thích hợp với

mình. Chiến lược đó phải xây dựng dựa trên việc phân tích điểm mạnh, điểm
yếu, các cơ hội và thách thức của ngân hàng để từ đó đưa ra quyết định thu
hẹp hay mở rộng việc huy động vốn về mặt quy mô, có thể thay đổi các tỷ lệ
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A
các nguồn vốn, tăng hay giảm chi phí huy động. Mỗi ngân hàng cần có một
chiến lược kinh doanh cụ thể, riêng biệt phù hợp với những điều kiện bên
trong và bên ngoài của ngân hàng mình. Chiến lược kinh doanh có tính quyết
định đến hiệu quả không chỉ trong vấn đề huy động vốn mà còn liên quan đến
cả hệ thống hoạt động của ngân hàng đó. Trong từng thời kỳ, tùy thuộc vào
từng chính sách của Chính Phủ và NHTW mà NHTM sẽ có những chính sách
thu hút vốn sao cho hợp lý. Tranh tình trạng dư thừa hay thiếu hụt vốn quá
mức.
*Chính sách lãi suất
Việc cá nhân hay tổ chức gửi tiền vào ngân hàng thi điều đầu tiên họ mong
muốn là tìm kiếm lợi nhuận, chính vì vậy lãi suất chính là yếu tố đầu tiên họ
quan tâm. Vì vậy chính sách lãi suất là một trong những công cụ quan trọng
nhất bổ trợ đến việc huy động vốn của NH. Và NH sử dụng nó như một công
cụ để thay đổi quy mô nguồn vốn thu hút vào ngân hàng, đặc biệt là tiền gửi.
Để duy trì cạnh tranh với các ngân hàng khác, đồng thời thu hút thêm vốn,
ngân hàng phải có một mức lãi suất cạnh tranh đồng thời phải có thêm các ưu
đãi đối với các khách hàng lâu năm, có chính sách khuyến khích đối với
những khách hàng mới. Tuy nhiên không phải cứ ngân hàng đưa ra mức lãi
suất cao là có thể thu hút được khách hàng mà vấn đề ở chỗ lãi suất cụ thể mà
NH đưa ra là bao nhiêu vì lãi suất ngân hàng còn liên quan đến tỷ lệ lạm phát.
Vì vậy, ngân hàng phải đưa ra lãi suất tiền gửi lớn hơn tỷ lệ lạm phát để đảm
bảo người dân luôn được lợi nhuận khi gửi tiền, đồng thời cũng phải dự tính
được tỷ lệ lạm phát đó để đưa ra mức lãi suất phù hợp..
* Trình độ công nghệ ngân hàng
Ngày này cùng với việc đổi mới hoạt động ngân hàng thì các NHTM
ngày càng chú trọng vào việc áp dụng khoa học công nghệ hiện đại vào hoạt

động NH. Đây cũng là điều tất yếu trong công nghệ thông tin hiện nay.
Sinh viên: Lê Hải Hưng Lớp: Kế hoạch 47A

×