Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Tác dụng HGM của sagydi trên đv TN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 78 trang )

1

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành tốt được bản khóa luận này, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt
tình và sự quan tâm sâu sắc của nhà trường, thầy cô, bệnh viện, gia đình và bạn bè.
Nhân dịp hoàn thành khóa luận, em xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến:
Ban giám hiệu, các phòng ban, bộ môn Dược lý trường đại học Y hà Nội
đã tạo điều kiện thuận lợi để em được học tập, nghiên cứu, và hoàn thành
khóa luận.
Đặc biệt, với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn
chân thành tới Ths. Đậu Thùy Dương – Bộ môn Dược lý trường đại học Y
Hà Nội, người đã luôn tận tình dạy dỗ, chỉ bảo, động viên em trong suốt thời
gian làm khóa luận. Qua đó, đã truyền dạy cho em không chỉ những kiến thức
khoa học mà còn là phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo, các anh chị kĩ thuật
viên của bộ môn Dược lý đã hết sức tạo điều kiện, góp ý, giúp đỡ em hoàn
thành khóa luận này.
Em xin được trân trọng cảm ơn Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới
gia đình, người thân, bạn bè, những người đã luôn luôn bên cạnh giúp đỡ,
ủng hộ, là chỗ dựa cho em những lúc khó khăn, động viên em trong suốt quá
trình học tập dưới mái trường đại học Y Hà Nội.

Hà Nội, ngày 09 tháng 06 năm
2014

Đỗ Thị Thu Hướng


2


LỜI CAM ĐOAN

Em là Đỗ Thị Thu Hướng, sinh viên tổ 8, lớp Y6B, Trường Đại học Y Hà
Nội. Em xin cam đoan khóa luận này đã được thực hiện một cách trung thực
và nghiêm túc. Các kết quả, số liệu, thông tin được sử dụng trong khóa luận
này là đúng sự thật.
Hà Nội, ngày 09 tháng 06 năm 2014
Đỗ Thị Thu Hướng


3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADA

: American Diabetes Association

ALX

: Alloxan

AMP

: Adenosin monophosphat

AMKP

: AMP active protein kinase

CM


: Chóc máu

DPP-4

: Dipeptidyl peptidase – 4

ĐTĐ

: Đái tháo đường

EASD

: European Association for the study of Diabetes
(Hiệp hội nghiên cứu Đái tháo đường Châu Âu)

FDA

: Food and Drug Administration
(Cục quản lý dược phẩm và thực phẩm Mỹ)

FFA

: Free fatty acid (Acid béo tự do)

G6P

: Glucose 6 phosphatase

GCL


: Giảo cổ lam

GK

: Glucose kinase

GLUT

: Glucose transporter (Chất vận chuyển glucose)

GLP-1

: Glucagon like peptid - 1

GIP

: Glucose dependent insulinotropic polypedtid
(Polypeptid kích thích tiết insulin phụ thuộc glucose)

HGM

: Hạ glucose máu

HDL

: High density lipoprotein (Lipoprotein tỷ trọng cao)

HFD


: High fat diet (Chế độ ăn giàu chất béo)

HLA

: Human leukocyte antigen (Kháng nguyên bạch cầu người)

IDF

: International Diabetes Federation
(Hiệp hội Đái tháo đường Thế giới)

IL

: Interleukin


4

IRS

: Insulin receptor substrate (Cơ chất của receptor insulin)

LDL

: Low density lipoprotein (Lipoprotein tỷ trọng thấp)

NADPH

: Nicotinamid adenin dinucleotid phosphate oxidase


NFD

: Normal fat diet (Chế độ ăn thường)

NST

: Nhiễm sắc thể

PI3-Kinase

: Phosphoinositide 3 kinase

RNA

: Ribonucleotid acid

STZ

: Streptozocin (Streptozotocin)

TC

: Total cholesterol (Cholesterol toàn phần)

TG

: Triglycerid

WHO


: World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới)

MỤC LỤC


5

DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC HÌNH ẢNH


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh rối loạn chuyển hóa mạn tính đặc
trưng bởi sự tăng glucose máu do thiếu insulin tương đối hoặc tuyệt đối [1],
[2]. Vào những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, ĐTĐ là bệnh không lây
phát triển nhanh nhất. Bệnh đái tháo đường là nguyên nhân gây tử vong đứng
hàng thứ 4 hoặc thứ 5 ở các nước đang phát triển. Bệnh cũng được xem là
“đại dịch” ở các nước phát triển. Hiện nay, bệnh ĐTĐ đang là một trong số
những chủ đề chiếm tỷ lệ cao nhất về số lượng các công trình nghiên cứu, tạp
chí, sách báo chuyên ngành [1]. Sự bùng nổ ĐTĐ typ 2 và những biến chứng
của bệnh đang là thách thức lớn đối với cộng đồng [1]. Theo thống kê của Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh ĐTĐ typ 2 chiếm khoảng 85-95% tổng số
người mắc bệnh ĐTĐ, ước tính đến năm 2025, sẽ có 330 triệu người mắc
bệnh ĐTĐ chiếm tỷ lệ 5,4% dân số thế giới [1], [3]. Theo báo cáo năm 2011
của Hiệp hội Đái tháo đường Thế giới (International Diabetes Federation) ước

tính trên toàn cầu năm 2011 có khoảng 366 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, dự
báo năm 2030 con số này sẽ là 552 triệu người, tăng trên 51% [2]. Điều này
cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ trên thực tế cao hơn rất nhiều so với con số
được dự báo. Điều đáng lo ngại chính là các biến chứng của bệnh gây nên [1].
Mỗi năm trên thế giới có 3,2 triệu người chết vì ĐTĐ, tương đương với số
người chết do mắc bệnh HIV [4]. Hằng năm, có 1,7 triệu người tử vong do
biến chứng bệnh tim mạch và đột qụy do ĐTĐ, 1 triệu người phải lọc máu do
biến chứng suy thận của bệnh ĐTĐ, cứ 30 giây lại có một người ĐTĐ có biến
chứng bàn chân phải cắt cụt chi. Trung bình người mắc bệnh ĐTĐ ở lứa tuổi
40 mất đi 10 năm sống lý tưởng. Ngân sách cho ngành y tế của các quốc gia
mất trung bình 5-10% cho điều trị trực tiếp bệnh ĐTĐ [1]. Ở Việt Nam, năm
2002-2003 điều tra quốc gia về tình hình ĐTĐ trên cả nước, tỷ lệ mắc bệnh
ĐTĐ chiếm 2,7%. Trong đó vùng đô thị và khu công nghiệp chiếm tỷ lệ mắc
bệnh ĐTĐ là 4,4% [1], [5]. Gánh nặng bệnh đối với sự phát triển của nền kinh
tế, xã hội ngày càng lớn [3], [6].


7

Các nhóm thuốc, nhóm thuốc điều trị ĐTĐ hiện nay như insulin,
metformin, sulfonylurea…có hiệu quả cao, nhưng lại có nhiều tác dụng không
mong muốn hoặc một số khác có giá thành cao [7]. Mặt khác, bệnh nhân
ĐTĐ thường có thêm bệnh lý về huyết áp, rối loạn lipid máu, xơ vữa mạch
máu… nên khi điều trị phải kết hợp nhiều thuốc và thời gian điều trị kéo dài
suốt cuộc đời, gây ra nhiều tác dụng không mong muốn do tương tác thuốc,
đồng thời gây khó khăn về kinh tế và tuân thủ điều trị [1], [3]. Vì vậy các nhà
nghiên cứu ở Việt Nam cũng như trên toàn thế giới có xu hướng tìm kiếm các
loại thuốc điều trị ĐTĐ có nguồn gốc dược liệu, có nhiều ưu điểm và thích
hợp với điều trị kéo dài. Một số dược liệu hạ glucose máu tốt đã được nghiên
cứu như: bông ối (Lantana camara L), giảo cổ lam hay còn gọi là cổ yếm

(Gynostemma pentaphyllum), chóc máu (Salacia cochinchinensis), thổ phục
linh (Smilax glabra Roxb.), bằng lăng nước (Lagerstroemia speciosa L.) [8],
[9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16]…
Ở Việt Nam, với nguồn thảo dược phong phú, việc tìm kiếm những cây
thuốc, bài thuốc có tác dụng tốt điều trị ĐTĐ đang là một hướng nghiên cứu
mới, hứa hẹn nhiều thành công. Chóc máu (Salacia cochinchinensis), giảo cổ
lam hay còn gọi là thất diệp đởm, cổ yếm… (Gynostemma pentaphyllum) là
hai loại dược liệu đã được các nghiên cứu chứng minh tác dụng hạ glucose
máu trên thực nghiệm [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [17]. Chế
phẩm Sagydi do Công ty trách nhiệm hữu hạn Tuệ Linh sản xuất, có thành
phần là sự kết hợp giữa giảo cổ lam và chóc máu. Tuy nhiên, hiện nay chưa
có nghiên cứu nào ở Việt Nam đánh giá tác dụng điều trị ĐTĐ khi phối hợp
hai dược liệu nói trên. Để cung cấp thêm bằng chứng khoa học, chứng minh
hiệu quả điều trị ĐTĐ typ 2 của chế phẩm Sagydi, đề tài “ Nghiên cứu tác
dụng hạ glucose máu của chế phẩm Sagydi trên mô hình gây ĐTĐ typ 2 ở
động vật thực nghiệm ” được tiến hành với mục tiêu sau:
Đánh giá tác dụng hạ glucose máu của chế phẩm Sagydi trên chuột
nhắt trắng được gây ĐTĐ dạng typ 2


8

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
1.1.1. Khái niệm
Danh từ bệnh ĐTĐ (diabetes mellitus) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp
(diabetes: nước chảy trong ống) và tiếng La Tinh (mellitus: ngọt), do vậy mà
danh từ y dược Việt Nam dịch diabetes mellitus là ĐTĐ [16]. Từ này đã đi
vào lịch sử mặc dù ngày nay đã có nhiều tiến bộ về bệnh, bản chất của căn

bệnh nổi tiếng này đã được sáng tỏ nhưng người ta vẫn quen gọi là ĐTĐ.
Theo WHO, “ĐTĐ là một bệnh mạn tính xảy ra khi tuỵ không sản xuất đủ
insulin hoặc khi cơ thể không sử dụng hiệu quả insulin được sản xuất ra. Tình
trạng tăng glucose máu là hậu quả phổ biến của bệnh ĐTĐ không được kiểm
soát và nếu tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến những tổn thương nghiêm trọng
cho nhiều hệ cơ quan của cơ thể, đặc biệt là mạch máu và thần kinh” [18].
1.1.2. Dịch tễ học
Bệnh đái tháo đường được coi là “cơn ác mộng của dịch tễ học” vì tốc
độ gia tăng nhanh chóng của bệnh trong một khoảng thời gian ngắn và là một
trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở các nước đang phát triển
cũng như các nước phát triển bởi chính những biến chứng của bệnh [1].
Theo báo cáo mới đây của WHO vào tháng 5 năm 2004 ước tính số
người ĐTĐ năm 2000 là khoảng 171 triệu người, chiếm 2,8 % dân số thế
giới, vượt 13% so với dự báo năm 1998, báo cáo này cũng dự đoán đến năm
2030 con số này sẽ lên tới 366 triệu người (chiếm 4.4% dân số thế giới) [ 16]
và theo Hiệp hội Đái tháo đường thế giới ước tính trên toàn cầu năm 2011 có
khoảng 366 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, dự báo năm 2030 con số này sẽ là
552 triệu người tăng trên 51% [2]. Mỗi năm, trên thế giới, ước tính có 3,2
triệu người đái tháo đường tử vong do biến chứng ĐTĐ, tương đương 6
trường hợp/phút [1].


9

Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa Kì cho biết, số bệnh nhân bị ĐTĐ đã
tăng 14% trong vòng 2 năm, từ 18,2 triệu người (2003) lên 20,8 triệu người
(2005), ước tính 24 triệu người vào năm 2007. Như vậy, trong năm 2007 tổn
thất kinh tế do ĐTĐ vào khoảng 174 tỷ USD bao gồm chi phí y tế cho ĐTĐ
và thiệt hại về lực lượng sản xuất [4].
Trong các trưường hợp bị ĐTĐ phần lớn là ĐTĐ typ 2 (chiếm 85% số

ca ĐTĐ). Do vậy, cùng với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế xã hội, theo
đó là sự thay đổi về lối sống, thói quen ăn uống, ít vận động thể lực dẫn đến
sự gia tăng nhanh chóng của bệnh. Đặc biệt là các nước đang phát triển, mà
cụ thể là trong các khu vực đô thị, tỷ lệ ĐTĐ typ 2 cao hơn hẳn so với khu
vưc nông thôn [1], [3], [5].
Là một trong các nước đang phát triển, Việt Nam cũng là nước có sự
gia tăng ĐTĐ rất nhanh. Trên phạm vi cả nước, theo điều tra của PGS.TS. Tạ
Văn Bình và cộng sự năm 2003, tỉ lệ ĐTĐ cao nhất ở khu vực thành phố là
4,4% và tỉ lệ ĐTĐ chung cho cả nước là 2,7% [1].
Rõ ràng, trong thời gian tới đây, dịch tễ của bệnh ĐTĐ sẽ có nhiều
biến đổi và còn tiếp tục tăng cao. Các biến chứng của ĐTĐ cũng sẽ tăng lên
như một hậu quả tất yếu không thể tránh được, trở thành mối đe dọa chính
cho nền y tế trong tương lai. Do vậy, việc phát minh các thuốc tân dược, cũng
như tìm kiếm và sử dụng các nguồn dược liệu có tác dụng chữa trị bệnh ĐTĐ
đã trở thành mục tiêu của các nhà nghiên cứu y học.
1.1.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ
Trước đây, tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ dựa vào xét nghiệm glucose máu lúc
đói hoặc sau khi làm nghiệm pháp tăng glucose máu [3], [6], [19]. Từ tháng 3
năm 2010, WHO đưa ra thêm tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ theo HbA1c [20].
* Tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ của WHO [3], [6], [19], [20]
Chẩn đoán xác định ĐTĐ khi người bệnh có 1 trong các tiêu chuẩn sau:
HbA1c ≥ 6,5%;


10

Glucose máu lúc đói trên 7 mmol/l (126mg/dl) xét nghiệm lúc người
bệnh đã nhịn đói hơn 10 giờ;
Glucose máu sau khi làm nghiệm pháp tăng glucose máu với 75g
glucose sau 2 giờ trên 11,1 mmol/l (200mg/dl).

1.1.4. Phân loại bệnh ĐTĐ
Tháng 6/1997 hội ĐTĐ Mỹ (ADA) đã công bố tiêu chí chẩn đoán và
phân loại mới của bệnh ĐTĐ. Tiêu chí này sau đó đã được ủy ban chuyên gia
về chẩn đoán và phân loại ĐTĐ của WHO công nhận năm 1998. Cách phân
loại này được trình bày tóm tắt dưới đây:
-

-

ĐTĐ typ 1 (tế bào β bị tổn thương đưa đến thiếu insulin hoàn toàn)
Miễn dịch trung gian tế bào
Không rõ nguyên nhân
ĐTĐ typ2 (có thể thay đổi từ tình trạng kháng insulin là chính với thiếu
insulin tương đối tới tình trạng giảm bài tiết insulin là chính và kháng

-

insulin nhẹ).
ĐTĐ thai kì: ĐTĐ liên quan đến vai trò kháng thể kháng insulin và sự
biến đổi hormone trong thời kì thai nghén.
Các typ ĐTĐ đặc hiệu khác:
Khiếm khuyết chức năng tế bào beta.
Giảm hoạt tính của insulin do khiếm khuyết gen.
Bệnh lý của tụy ngoại tiết: viêm tụy mạn, sỏi tụy…
Do các bệnh nội tiết khác.
Nguyên nhân do thuốc hoặc hóa chất khác: hormon, lợi tiểu…
Nguyên nhân do nhiễm khuẩn.
Các thể ít gặp của ĐTĐ qua trung gian miễn dịch.
Trong bảng phân loại này thì 2 thể ĐTĐ chính là ĐTĐ typ 1 và ĐTĐ


typ 2. Do vây, sẽ đi sâu vào cơ chế bệnh sinh của 2 thể này.


11

1.1.5. Cơ chế bệnh sinh ĐTĐ
1.1.5.1. Cơ chế bệnh sinh của ĐTĐ typ 1:
ĐTĐ typ 1 là tình trạng thiếu insulin tuyệt đối do tế bào beta đảo tụy bị
tổn thương gây nên [19]. Bệnh xuất hiện như một kết quả của tác dụng hiệp
đồng giữa các yếu tố gen, môi trường, miễn dịch làm cho các tế bào β đảo tụy
bị phá hủy dẫn đến thiếu hụt insulin. Quá trình phá hủy này hầu hết là do cơ
chế tự miễn [21]. Bằng chứng là đã tìm thấy một số kháng thể kháng tế bào β
tụy xuất hiện trong huyết thanh người bệnh như: kháng thể kháng glutamic
acid decarboxylase nằm trong bào tương tế bào beta (GAD65), kháng thể
kháng insulin (IAA) [21], [22]. Yếu tố môi trường đóng vai trò khởi động quá
trình bệnh lý. Những tác nhân môi trường thường được đề cập nhiều nhất đó
là virus (Coxsackie B, Cytomegalovirus, Echo, Esptein-Bar virus…), sau đó
là thức ăn (sữa bò, cafein…) và điều kiện sống (stress, thường xuyên tiếp xúc
với các hóa chất độc…) [23]. Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy mối liên quan
chặt chẽ giữa ĐTĐ typ 1 và các yếu tố kháng nguyên liên kết tế bào lympho
(HLA). Trong đó, hai tập hợp gen quan trọng là DR4-DQ8 và DR3-DQ2 được
tìm thấy ở 90% người bệnh ĐTĐ typ1 [21].
Một số ít các trường hợp ĐTĐ không tìm thấy nguyên nhân, không liên quan
tới HLA nhưng có yếu tố di truyền rất rõ [21].
1.1.5.2. Cơ chế bệnh sinh ĐTĐ typ 2
ĐTĐ typ 2 là một bệnh rối loạn chuyển hóa thường gặp và chiếm tỉ lệ
cao (trên 85%) trong số bệnh nhân ĐTĐ [18], [19]. Hai yếu tố đóng vai trò
quan trọng và có liên hệ mật thiết với nhau trong cơ chế bệnh sinh của ĐTĐ
typ 2 là tình trạng kháng insulin ở mô ngoại vi và tình trạng rối loạn bài tiết
insulin [6]. Mặc dù có rất nhiều tranh cãi nhưng hầu hết đều ủng hộ quan

điểm kháng insulin xuất hiện trước sự thiếu hụt insulin. Các yếu tố gen và
môi trường đóng vai trò thúc đẩy làm phát sinh và phát triển bệnh.


12

Hình 1.1. Cơ chế bệnh sinh của ĐTĐ typ 2
Trong thực tế khi glucose máu đã ở mức cao (>10mmol/l) thì cả quá
trình bài tiết của insulin của tế bào và khả năng hoạt động của insulin đều bị
suy giảm nặng.
Sinh lý bệnh học của ĐTĐ diễn biến qua 3 giai đoạn:
+

Giai đoạn 1: giai đoạn tăng sản xuất insulin bù trừ hiện tượng kháng

+

insulin.
Giai đoạn 2: tăng insulin nhưng không bù trừ được hiện tượng kháng

+

insulin, glucose máu tăng.
Giai đoạn 3: tế bào β suy yếu, bài tiết insulin giảm sút, glucose máu
tăng cao, ĐTĐ biểu hiện.

Yếu tố gen và môi trường:
Trong ĐTĐ typ 2 đây là hai yếu tố không giữ vai trò quan trọng, song
có nhiều nghiên cứu cho thấy một số yếu tố liên quan [24].
Tỉ lệ đồng mắc bệnh ở các cặp sinh đôi cùng trứng lên tới 70-90%.

Bệnh có tính chất gia đình rõ rệt. Nếu bố hoặc mẹ bị ĐTĐ typ 2 thì con
có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những người khác, nếu có cả bố và mẹ bị ĐTĐ
typ 2 thì nguy cơ mắc bệnh sẽ cao hơn 40% [24].
Tỉ lệ mắc bệnh ĐTĐ typ 2 khác nhau giữa các dân tộc.


13

Ở các cá thể mang kiểu gen mẫn cảm, không phải lúc nào cũng mắc
bệnh ĐTĐ, mà còn phụ thuộc vào các yếu tố ngoại cảnh. Nhiều nghiên cứu
dịch tễ cho thấy có sự liên quan giữa việc xem tivi thường xuyên, ít vận động
thể lực, chế độ ăn nhiều calo, béo phì, những người cao tuổi nguy cơ bị ĐTĐ
typ 2 rất cao [24].
Rối loạn bài tiết insulin: rối loạn sản xuất insulin cả về chất lượng và số
lượng:
+ Mất pha sớm: rối loạn nhịp tiết
+ Bất thường về số lượng insulin: ban đầu là tăng tiết insulin, sau dẫn
đến suy kiệt, giảm tiết
+ Bất thường về chất lượng insulin: tăng proinsulin trong máu.
Kháng insulin:
Biểu hiện kháng insulin là một trong những dấu hiệu sớm của ĐTĐ. Sự
thay đổi cấu trúc, chức năng của các receptor và hậu receptor của tế bào với
insulin dẫn đến tình trạng kháng insulin. Kháng insulin là tình trạng giảm hoặc
mất tính nhạy cảm của cơ quan đích với insulin, được coi là những khiếm
khuyết ban đầu hoặc khiếm khuyết chính trong cơ chế bệnh sinh ĐTĐ typ 2.
Kháng insulin có thể được khởi phát bởi rất nhiều điều kiện khác nhau
như béo phì, thai nghén, nhiễm trùng, tuổi tác. Trong đó, béo phì là yếu tố
nguy cơ chính. Béo phì làm làm tăng lượng acid béo tự do vào tuần hoàn,
tăng lượng acid béo tự do vào gan. Nếu nồng độ insulin máu tăng cao sẽ tăng
cường sản xuất ra các VLDL (very low density lipoprotein) và triglycerid.

Các VLDL và triglycerid có thể lắng đọng ở gan gây thoái hoá mỡ, lắng đọng
ở cơ gây kháng insulin, lắng đọng ở tế bào beta của tuỵ làm giảm khả năng
bài tiết insulin. Giảm cân ở người béo phì sẽ làm giảm tình trạng kháng
insulin và kiểm soát tốt glucose máu, có thể phòng và làm chậm xuất hiện
ĐTĐ typ 2.


14

1.2. CÁC THUỐC ĐIỀU TRỊ ĐTĐ
1.2.1. Theo y học hiện đại
1.2.1.1. Insulin
-

Cấu trúc hóa học: [25]
+ Insulin là hormon do tế bào beta đảo tụy bài tiết, đóng vai trò chính
trong cơ chế điều hòa glucose máu. Cấu trúc bậc 1 của insulin gồm
51 acid amin với một chuỗi A có 21 acid amin và một chuỗi B có 30
acid amin, có một cầu nối disulfur trong chuỗi A và 2 cầu nối
+

disulfur nối giữa 2 chuỗi A và B.
Insulin ban đầu được tổng hợp dưới dạng tiền insulin là proinsulin
gồm chuỗi A nối với chuỗi B bởi một đoạn peptid gồm 30 acid
amin. Sau đó proinsulin bị thủy phân bởi trypsin giải phóng insulin

+

và một đoạn peptid C
Insulin, proinsulin và peptid C có trong huyết tương dưới dạng tự

do. Insulin được thoái hóa chủ yếu ở gan và thận do các protease.

Hình 1.2. Cấu trúc hóa học của Insulin [25]
-

Cơ chế và tác dụng hạ glucose máu của insulin:
+ Tất cả các tế bào của người và động vật đều mang receptor đặc hiệu
gắn với insulin [26]. Receptor của insulin là một glycoprotein gồm
hai dưới đơn vị α nằm ở mặt ngoài tế bào và hai dưới đơn vị β nằm


15

ở mặt trong của tế bào. Bốn đơn vị này gắn đối xứng nhau qua cầu
nối disulfid. Thông qua receptor này, insulin gắn vào dưới đơn vị α
gây kích thích tyrosine kinase của dưới đơn vị β làm hoạt hóa hệ
thống vận chuyển glucose ở màng tế bào (glucose transposter:
GLUT) làm glucose được vận chuyển vào trong tế bào một cách dễ
dàng, đặc biệt là tế bào cơ, gan, mỡ [7], [26]. Hiện nay người ta đã
phát hiện ra 13 thành viên của chất vận chuyển glucose phân bố ở
những tế bào khác nhau: GLUT 1 có ở mọi mô, đặc biệt là hồng
cầu và não, GLUT 2 có ở tế bào β của tụy, ở gan, thận, ruột, GLUT
3 có ở não, thận, rau thai, GLUT 4 có ở cơ và mô mỡ, GLUT 5 có ở
+

ruột và thận… [7], [25].
Ngoài ra, insulin làm

tăng


hoạt

tính

của

glucokinase,

glycogensynthetase, thúc đẩy sự tiêu thụ glucose và tăng tổng hợp
glycogen ở gan; làm giảm sự thuỷ phân lipid, protid và glycogen,
đồng thời làm tăng sự tổng hợp lipid và protid từ glucid. Kết quả
-

làm hạ glucose máu [26].
Chế phẩm insulin
Dựa vào dược động học và nhu cầu điều trị insulin được xếp thành

nhóm chế phẩm khác nhau [1], [3], [22], [26].
+
+
+
+
+
-

Insulin tác dụng nhanh: Lispro, Aspart, Glulisin.
Insulin tác dụng ngắn: Regular
Insulin tác dụng trung gian: NPH
Insulin tác dụng dài: Insulin Detemir, Insulin Glargin
Insulin hỗn hợp: 75% protamin Lispro + 25% Lispro hoặc 70%


protamin Aspart + 30 % Aspart.
Chỉ định insulin [7], [26], [27]
+ Chỉ định tuyệt đối trên bệnh nhân ĐTĐ typ 1.
+ Bệnh nhân ĐTĐ typ 2 điều trị bằng thay đổi chế độ ăn, vận động
hợp lý và dùng các thuốc chống tăng glucose máu khác không có
+
+
+

tác dụng.
Cấp cứu hôn mê tăng glucose máu.
Tăng glucose máu sau cắt bỏ tụy tạng.
Tăng glucose máu có ceton máu và niệu cao.


16

1.2.1.2. Các thuốc kích thích bài tiết insulin:
-

Dẫn xuất của sulfonylure (sulfamid hạ đường huyết)
Trong trạng thái sinh lý, glucose máu tăng cao sẽ có hiện tượng khoá

kênh K+-ATPase, dẫn tới K+ trong tế bào tăng đột ngột sẽ kích thích hoạt động
của kênh Ca2+ dưới tác dụng của AMP vòng, Ca2+ vào tế bào tăng, kích thích
quá trình phosphoryl hoá và giải phóng insulin từ nang tiết vào máu. Các
sulfonylure tác dụng như một “cái khoá” hoạt động trên kênh K +-ATPase và
vì vậy có tác dụng kích thích bài tiết insulin [27].
+ Cơ chế tác dụng:



Tác dụng trên receptor bề mặt K+-ATPase của tế bào beta ở đảo
Langerhans làm chẹn kênh K+ nhạy cảm với ATP (ATP –
sensitive potassium channels), làm giảm K+ đi vào trong tế bào
gây nên sự khử cực màng dẫn đến mở kênh Ca 2+ làm tăng lượng
Ca2+ từ ngoại bào đi vào trong tế bào, kích thích giải phóng
insulin [7], [27].



Tăng số lượng và tính nhạy cảm của receptor của insulin ở bạch
cầu đơn nhân to, tế bào mỡ, hồng cầu [7].



Ức chế insulinase, ức chế sự kết hợp insulin với kháng thể
kháng insulin và sự gắn với protein huyết tương [7].



Kích thích giải phóng somatostatin có tác dụng ức chế giải
phóng glucagon gây hạ glucose máu [26], [27].

+ Chỉ định: ĐTĐ typ 2 không phụ thuộc insulin và người béo bệu trên 40

tuổi có insulin máu dưới 40UI/ ngày.
+ Một số thuốc :



Thế hệ 1: tolbutamid, carbutamid, clopropamid



Thế hệ 2: gliclazid, glipizid, glibenclamid…tác dụng mạnh gấp
khoảng 100 lần thế hệ 1, thời gian tác dụng kéo dài nên chỉ cần
dùng một lần trong ngày



Thế hệ 3: Glimepirid


17

- Nhóm meglitinid
- Nateglinid:

Là dẫn xuất của D-phenylalanin có tác dụng kiểm soát sự tăng
đường huyết sau bữa ăn, do vậy sẽ cải thiện tình trạng tăng đường
huyết sau khi ăn ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2. Trong cơ thể, nateglinid
gắn vào receptor đặc hiệu (SUR 1) ở tế bào β của tụy làm chẹn
kênh K+ nhậy cảm với ATP, gây khử cực màng tế bào làm mở kênh
calci. Calci kích thích giải phóng insulin. Do thuốc có đặc điểm gắn
nhanh và tách ra nhanh khỏi receptor đặc hiệu nên kích thích bài
tiết insulin nhanh, nhanh chóng kiểm soát đường huyết sau khi ăn.
Nhưng cũng do thuốc tách ra khỏi receptor đặc hiệu nhanh làm rút
ngắn giai đoạn kích thích bài tiết insulin, làm giảm nguy cơ tăng
cao insulin trong máu nên tránh được tình trạng hạ glucose máu và
sự suy kiệt tế bào β của tụy [22].

- Repaglinid:

Cũng có tác dụng kiểm soát glucose máu nhanh sau khi ăn, cách
dùng giống nhau với liều khởi đầu 500µg , sau đó điều chỉnh liều
phụ thuộc vào đáp ứng của bệnh nhân nhưng không vượt quá
16mg/ngày [22].
1.2.1.3. Thuốc làm tăng nhạy cảm của tế bào đích với insulin:
- Dẫn xuất biguanid:

Các dẫn xuất của biguanid có cấu trúc hoàn toàn khác với dẫn xuất
sulfonylure. Hiện nay metformin được sử dụng phổ biến nhất
(Glucophage 500mg, 850mg, 1000mg…) [22].
+ Cơ chế tác dụng: thông qua sự tăng dung nạp glucose, ức chế tân tạo

glucose, tăng tổng hợp glycogen ở gan do tăng hoạt tính của
glycogensynthetase và làm tăng tác dụng của insulin ở tế bào mô ngoại
vi. Ngoài ra thuốc còn hạn chế hấp thụ glucose ở ruột. Thuốc tác dụng


18

chủ yếu ngoài tụy khi có mặt của insulin nội sinh, nên được chỉ định ở
bệnh nhân tụy còn khả năng bài tiết insulin.
+ Chỉ định: dùng riêng rẽ hoặc kết hợp với các thuốc khác cho bệnh nhân ĐTĐ

typ 2 sau khi điều chỉnh chế độ ăn và luyện tập không thành công [22].
- Các thuốc thuộc nhóm thiazolidinedion (TZD)

Hiện nay các nhóm thuốc này không còn được sử dụng.
1.2.1.4. Thuốc làm giảm hấp thu glucose ở ruột: acarbose ( Glucobay® )

- Cơ chế tác dụng của thuốc không liên quan đến sự bài tiết insulin ở tế

bào β của tụy mà thông qua sự ức chế α - glucosidase ở diềm bàn chải
niêm mạc ruột non. Ngoài ra, thuốc còn ức chế glucoamylase, maltase
ở ruột. Cuối cùng, làm giảm hấp thu glucose gây hạ glucose máu [22].
- Chỉ định: thuốc dùng trên bệnh nhân ĐTĐ typ 2 có béo phì.
- Chế phẩm: acarbose (Glucobay 50, 100 mg)

1.2.1.5. Thuốc có tác dụng giống incretin:
Gần đây người ta tìm ra 2 hormon peptid: GLP1 và GIP gọi chung là
incretin có nguồn gốc tại niêm mạc ruột, có tác dụng điều hòa glucose máu
sau ăn thông qua sự kích thích bài tiết insulin và làm chậm sự tháo rỗng dạ
dày nhưng lại mất tác dụng nhanh do bị enzym DPP-4 phá huỷ nên có thời
gian bán hủy dưới 2 phút [22], [26].
Exenatid là thuốc đầu tiên được tổng hợp thuộc nhóm này được đưa ra
thị trường để điều trị ĐTĐ typ 2 theo cơ chế giống như GLP 1 và bền vững
với tác dụng phá hủy của DPP 4. Exenatid là một polypeptid cấu tạo bởi 39
acid amin, có cấu trúc tương tự GLP1 (53%). Thuốc không chỉ có tác dụng
cải thiện sự bài tiết insulin, giảm tốc độ rỗng dạ dày mà còn làm giảm sự bài
tiết glucogon sau khi ăn, kích thích tế bào beta đảo tụy gây giảm glucose máu,
giảm cân, giảm nồng độ HbA1c [3], [22].
Hiện nay thuốc thường được dùng kết hợp với metformin hoặc
sulfonylurea (ở giai đoạn phải kết hợp 2 thuốc) hoặc với cả 2 (ở giai đoạn
phải kết hợp 3 thuốc).


19

1.2.1.6. Thuốc ức chế enzym phân hủy incretin : DPP 4
- Thuốc đầu tiên trong nhóm này được sử dụng là sitagliptin, sau đó là


các thuốc: Vildagliptin, saxagliptin, alogliptin… các thuốc này có tác
dụng ức chế enzyme phân hủy GLP1 (DPP4) nên kéo dài thời gian
sống của hormon này giúp hạ glucose máu. Do vậy điều kiện sử dụng
thuốc này là niêm mạc đường tiêu hóa còn tiết ra GLP1. Ưu điểm của
thuốc là dùng dạng viên uống và không gây HGM quá mức [22], [28].
- Hiện nay thuốc thường được sử dụng kết hợp với thuốc hạ glucose máu

khác như metformin hoặc sulfonylurea. Một số thuốc kết hợp sẵn
thuốc ức chế DPP4 với metformin được đưa ra trên thị trường như:
sitagliptin/metformin (Janumet), vildagliptin/metformin (Galvumet),
saxagliptin / metformin (Kombiglyze)... [28].
1.2.1.7. Thuốc ức chế sodium – glucose cotransporter 2 (SGLT2)
SGLT là một protein đồng vận chuyển natri – glucose qua màng tế bào.
Trong đó quan trọng nhất là SGLT2. SGLT2 phân bố chủ yếu ở thận, tái hấp
thu khoảng 90% glucose đào thải qua thận góp phần lớn vào duy trì glucose
máu. Nhóm thuốc ức chế SGLT2 ngăn cản sự tái hấp thu glucose làm tăng
lượng glucose đào thải qua nước tiểu vì vậy có tác dụng làm giảm glucose
máu. Ưu điểm là thuốc ít khi gây hạ glucose máu quá mức nhưng do lượng
đường trong nước tiểu tăng nên hay gây đa niệu, nhiễm khuẩn tiết niệu - sinh
dục và giá thành cao [29]. Thuốc được chỉ định chủ yếu trong ĐTĐ typ 2.
1.2.1.8. Các tác dụng không mong muốn của thuốc điều trị ĐTĐ:
- Insulin: tụt glucose máu (hay gặp nhất), dị ứng, rối loạn chuyển hóa

mỡ tại nơi tiêm,… [7], [22].
- Thuốc không phải insulin: hạ glucose máu, dị ứng, rối loạn tiêu hóa, buồn

nôn, độc với tế bào gan, tan máu, thoái hóa bạch cầu hạt… [7], [22].



20

1.2.2. ĐTĐ và Y học cổ truyền
1.2.2.1. Quan niệm của YHCT về bệnh ĐTĐ
Bệnh ĐTĐ trong YHCT gọi là chứng tiêu khát với 3 triệu chứng chính
là: ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là do ăn uống
không điều độ, ăn nhiều các chất cay nóng, béo, ngọt, do sang chấn về tinh
thần làm mất sự thăng bằng âm dương của cơ thể tạo thành hỏa nhiệt, uất
nhiệt làm phần âm của phủ tạng trong cơ thể bị hao tổn. Hỏa nhiệt tạo thành
phế hư gây ra chứng tiêu khát. Xuất phát từ quan niệm trên, phương thức
chữa trị chung là dưỡng âm thanh nhiệt, sinh tân dịch làm cơ sở để lập lại
thăng bằng âm dương này [9], [30], [31].
1.2.2.2. Các thuốc điều trị ĐTĐ trong YHCT
Các thuốc điều trị bệnh ĐTĐ trong YHCT chủ yếu là các thuốc có
nguồn gốc dược liệu như sinh địa, cỏ ngọt, mướp đắng, hoàng kỳ, bạch truật,
cam thảo đất, câu kỷ … [8], [30].
-

Sinh địa (Rehmannia glutinosa) [8], [32], [33]
Bộ phận thường được sử dụng là củ được sấy khô sắc thuốc uống.
Sinh địa có tác dụng thúc đẩy sự ngưng kết của huyết dịch, cầm máu,

hạ đường máu tốt và thường được sử dụng phối hợp với huyền sâm, cát cân,
hoài sơn, tang diệp trong sắc thuốc uống.
-

Cỏ ngọt (Stevia rebaudiana) [8], [34]
Bộ phận thường được dùng là lá sắc nước uống.
Thành phần trong lá cỏ ngọt có chứa steviosid , một chất có độ ngọt
gấp 150-180 lần so với đường saccharose. Được sử dụng thay thế

đường và điều trị ĐTĐ.

-

Mướp đắng (Momordica charantia L.) [8], [35]
Mướp đắng hay còn gọi là khổ qua được trồng khắp nơi ở nước ta.
Quả được dùng làm thực phẩm chế biến thức ăn.
Mướp đắng có tính hàn, lúc còn xanh có tính giải niệt, tiêu đờm, bổ
thận, chống đau xương khớp. Khi chín có tác dụng kiện tỳ, bổ huyết.


21

Hiện nay cả quả và thân mướp đắng đều được sử dụng làm thuốc
điều trị ĐTĐ.
-

Hoàng kỳ (Astragalus membranaceus) [8]
Trước đây phải nhập từ Trung Quốc, hện nay đã được di thực và
trồng nhiều ở Việt Nam.
Bộ phận được sử dụng là rễ, sấy khô, sắc nước uống, có tác dụng
điều trị ĐTĐ và các chứng phù thũng.

-

Huyền sâm (Scrophularia ningpoensis Hemsl) [8]
Hiện nay, ở nước ta cây được trồng nhiều ở các tỉnh phía Bắc.
Bộ phận thường dùng là củ phơi khô sắc nước uống để điều trị
ĐTĐ.


-

Bạch truật (Atractylodes macrocephal Koidz) [8], [30], [35]
Bạch truật có tác dụng hạ đường máu trên động vật đã được gây ÐTÐ
thực nghiệm. Trong y học cổ truyền, bạch truật được dùng phối hợp với
một số dược thảo khác để trị ÐTÐ. Các hoạt chất gây hạ đường máu là
các atractan A, B và C.
Bài thuốc: Bạch truật 12g, hoàng kỳ 65g, đảng sâm 25g, hoài sơn 15g,
phục linh 12g. Sắc uống ngày 1 thang. Mỗi đợt điều trị 2 tháng.

-

Bằng lăng nước (Lagerstroemia speciosa) [9], [36]
Dịch chiết lá bằng lăng nước có tác dụng hạ glucose máu trên chuột
bình thường và chuột tiêm STZ; trong các phân đoạn dịch chiết lá bằng
lăng nước, phân đoạn n-hexan gây hạ glucose máu trên chuột thường
và chuột tiêm STZ.

-

Thổ phục linh (Smilax Glabra) [8], [16]
Dịch chiết ethanol thân, rễ thổ phục linh có tác dụng glucose máu trên
chuột bình thường, chuột tiêm STZ, adrenalin và chuột ĐTĐ type 2
chủng GK


22

1.3. MÔ HÌNH GÂY ĐTĐ THỰC NGHIỆM
Mô hình ĐTĐ thực nghiệm trên động vật thí nghiệm chính là cơ sở để

nghiên cứu bệnh ĐTĐ ở người. ĐTĐ ở người được chia làm 2 typ chính do
vậy, trên thực nghiệm các nhà nghiên cứu cũng cố gắng tạo ra các mô hình
mô phỏng ĐTĐ typ 1 và typ 2 như ở người để tìm hiểu sâu hơn về bệnh ĐTĐ
đồng thời để nghiên cứu, đánh giá tác dụng của các thuốc mới điều trị ĐTĐ.
1.3.1. Mô hình gây ĐTĐ typ 1
Dựa vào nghiên cứu mô hình bệnh sinh của ĐTĐ typ 1, các nhà khoa
học sử dụng thuốc hoặc hóa chất để phá hủy tế bào beta đảo tụy gây ĐTĐ typ
1. Hai loại thuốc được sử dụng phổ biến hiện nay là alloxan (ALX) và
streptozocin (STZ).
-

Alloxan: là dẫn xuất của acid uric, được sử dụng sớm vào năm 1943
[16], [37], [38]. Hoạt tính gây ĐTĐ của STZ được Rakieten và các
cộng sự báo cáo lần đầu tiên vào năm 1963. Hai phương pháp này về
cơ bản đều giống nhau: đều phá hủy tế bào beta gây tăng glucose máu
phụ thuộc liều dùng. Tuy nhiên cơ chế gây độc tế bào beta của alloxan
và STZ không giống nhau. Nghiên cứu trên in vitro cho thấy: alloxan
và STZ ảnh hưởng đến hai khâu khác nhau trong quá trình tổng hợp
GLUT2 (protein vận chuyển glucose vào tế bào beta) và GK

+

(glucokinase: enzym chuyển hóa glucose).
Alloxan làm giảm mRNA của gen tổng hợp GLUT2 và GK. Trong khi

+

đó STZ làm giảm GLUT2.
Do hoạt tính của alloxan không ổn định, hiệu quả gây ĐTĐ thực
nghiệm không cao (chỉ khoảng 70% số động vật thực nghiệm có tăng

glucose máu, số còn lại chết hoặc tăng glucose máu tạm thời) và ngoài
ra còn có một số loài kháng lại alloxan như chuột lang nên gần đây các
tác giả trên thế giới thường sử dụng STZ để gây ĐTĐ trên động vật

-

thực nghiệm [38].
STZ: 2 deoxy- 2(3 methyl- 3 nitrosoueido)- D glucopiranose được phát
hiện lần đầu tiên vào năm 1960 [38], [39]. Đây là kháng sinh có khả


23

năng tiêu diệt khối u, được dùng trong lâm sàng để điều trị ung thư tế
bào beta đảo tụy, trên động vật thực nghiệm STZ được sử dụng để gây
+

ĐTĐ do thuốc có khả năng phá hủy chọn lọc tế bào beta tuyến tụy.
Nhóm D-glucosamin có trong thành phần của STZ đã thúc đẩy sự tích
lũy rất nhanh của thuốc trong các tiểu đảo Langerhans, gây độc cho tế
bào beta.
Ngoài ra còn có một số mô hình gây ĐTĐ typ 1 khác như cắt bỏ tuyến

tụy của động vật thí nghiệm. Tuy nhiên phương pháp không thuận tiện do đó
không được dùng nhiều trong nghiên cứu sàng lọc. ĐTĐ cũng xuất hiện ở
một số loài động vật được tạo ra bằng phương pháp lai tạo, di truyền như
chuột nhắt ĐTĐ không béo phì, chuột cống BB (biobreeding) [39].
1.3.2. Mô hình gây ĐTĐ typ 2
-


Ở một số loại động vật, chủ yếu là loài gặm nhấm xuất hiện ĐTĐ tự
phát trên cơ sở di truyền do mang những đột biến gen có liên quan đến
rối loạn kháng insulin và béo phì như: chuột cống ĐTĐ Gotokakizaki
(GK), Zucker- fatty, chuột nhắt KK- Ay, db/db, ob/ob…, các chủng này
không chỉ mang những đặc tính chuyển hóa giống với ĐTĐ typ 2 ở
người mà còn có những biến chứng đặc trưng của ĐTĐ typ 2 gây nên
như biến chứng tim mạch, huyết áp, thận, mắt… Cho đến nay, thông
qua chọn lọc và lai tạo đã xuất hiện khá nhiều loại mô hình động vật
ĐTĐ do gen. Đây là những mô hình ĐTĐ thực nghiệm rất có giá trị
trong nghiên cứu. Tuy nhiên, do mang đột biến di truyền nên các mô

-

hình này khó nhân rộng và phổ biến trên thế giới [37], [38], [40].
Bên cạnh đó, các nhà khoa học đang phát triển những mô hình ĐTĐ typ 2

+

gây bởi tác nhân hóa học để thuận tiện và có thể áp dụng rộng rãi hơn.
Mô hình phổ biến để gây ĐTĐ typ 2 chủ động là tiêm STZ liều thấp
cho chuột ngay từ lúc mới sinh (n-STZ) với liều 90mg/kg tiêm cho
chuột nhắt hai ngày tuổi, STZ đã gây tăng mức glucose máu tương đối,

+

tăng insulin và rối loạn dung nạp glucose [41], [42].
Một mô hình khác là tiêm STZ liều 60mg/kg cho chuột cống SD để
phá hủy tụy, sau đó bổ sung yếu tố nicotinamid. Phương pháp này cũng



24

gây tăng glucose máu do tụy bị phá hủy một phần. Các thông số insulin
máu, các protein truyền tín hiệu của insulin cũng có đặc điểm giống với
+

ĐTĐ typ 2 ở người [42].
Một mô hình khác gây ĐTĐ typ 2 mô phỏng theo cơ chế bệnh sinh của
bệnh là gây kháng insulin bởi chế độ ăn giàu chất béo, sau đó gây thiếu
hụt insulin bằng cách dùng STZ liều thấp để gây tổn thương tụy [40].
Mô hình đã tạo ra sự kháng insulin với những biểu hiện tương tự ở
người ĐTĐ typ 2 như: tăng lipid máu, insulin máu lúc đầu tăng sau đó
giảm dần, glucose máu tăng cao, thay đổi biểu thị một số gen quan
trọng trong chuyển hóa : adiponectin, leptin, PPARγ, UCP2. Đồng thời
phù hợp với điều kiện ở các nước đang phát triển. Do vậy, để đánh giá
tác dụng của chế phẩm Sagydi trên mô hình ĐTĐ dạng typ 2 ở động
vật thực nghiệm, nghiên cứu sử dụng mô hình này.

Chế phẩm Sagydi có thành phần gồm có giảo cổ lam và chóc máu:
1.4. GIẢO CỔ LAM (Gynostemma pentaphyllum)
1.4.1. Đặc điểm hình thái:
Giảo cổ lam hay còn gọi là cam trà vạn, thất diệp đởm, cây trường sinh,
một số nơi còn gọi là cây cổ yếm, ngũ diệp sâm…Tên khoa học là
Gynostemma pentaphyllum thuộc họ Bầu bí ( Cucurbitaceae) [43], [44].
Cây thảo có thân mảnh, leo nhờ tua cuốn đơn ở nách lá. Cây đực và cây
cái riêng biệt. Lá kép hình chân vịt. Cụm hoa hình chùm mang nhiều hoa nhỏ
màu trắng, các cánh hoa rời nhau xòe hình sao, bao phấn dính hình đĩa, bầu có
3 vòi nhụy. Quả khô hình cầu, đường kính 5 – 9 mm, khi chín màu đen. Mùa
hoa tháng 7, 8, mùa quả tháng 9, 10, [44], [45].



25

Hình 1.3. Cây giảo cổ lam
1.4.2. Phân bố
Cây mọc ở độ cao 200 – 2000m, trong các rừng thưa và ẩm ở Trung
Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, …và một số nước Châu Á khác. Ở Việt Nam, vào năm
1997, giáo sư Phạm Thanh Kỳ (đại học Dược Hà Nội) đã phát hiện cây GCL
trên núi Phan Xi Păng và được giáo sư Vũ Văn Chuyên (đại học Dược Hà Nội)
xác nhận đúng là loại Gynostemma pentaphyllum. Ngoài ra, cây còn được tìm
thấy ở một số địa phương thuộc vùng núi phía Bắc như ở Sapa, Hòa Bình…
1.4.3. Bộ phận dùng
Bộ phận dùng chủ yếu là thân, rễ, lá của GCL.
1.4.4. Thành phần hóa học
Chứa hơn 100 loại saponin cấu trúc tritepen kiểu dammaran, trong đó
có nhiều loại giống với nhân sâm và tam thất (vì vậy còn gọi là ngũ diệp sâm)
Ngoài ra cây còn chứa nhiều flavonoid, chất có tác dụng sinh học cao, chống
lão hóa và các acid amin tan trong nước, vitamin và các yếu tố vi lượng [43].


×