Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận môn học Kinh tế đầu tư: Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

Đề tài
Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài
sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh
nghiệp

Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào TSHH và TSVH trong DN


MỤC LỤC

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ ĐẦU TƯ
VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH
1.1.

Một số vấn đề về tài sản của doanh nghiệp

Định nghĩa
Tài sản: Là một khái niệm pháp lý bao gồm tất cả các quyền, quyền lợi, lợi
nhuận có liên quan đến quyền sở hữu, bao gồm: quyền sở hữu cá nhân, nghĩa là chủ
sở hữu được hưởng những quyền lợi, lợi ích nhất định khi làm chủ sở hữu tài sản đó.
Doanh nghiệp: Là một tổ chức được lập ra để tiến hành hoạt động kinh doanh.
Tài sản là yếu tố giữ vai trò quyết đinh trong doanh nghiệp để tiến hành các hoạt
động trong đầu tư như: sản xuất, mua bán hay dịch vụ nhằm mục đích sinh lời…
Tài sản doanh nghiệp: Là toàn bộ tiềm lực kinh tế của doanh nghiệp, biểu thị
cho những lợi ích mà doanh nghiệp thu được trong tương lai hoặc những tiềm năng
phục vụ cho hoạt động kinh doanh của đơn vị. Tài sản của doanh nghiệp chính là toàn
bộ những tài sản hữu hình và vô hình gắn với lợi ích của doanh nghiệp, quyết định
việc mang lại giá trị cho doanh nghiệp trong tương lai và thoả mãn các điều kiện:


Thuộc quyền kiểm soát lâu dài của đơn vị ; có giá trị thực sự đối với doanh nghiệp; và
có giá trị xác định.
Phân loại
Có nhiều cách phân loại tài sản của doanh nghiệp, tuỳ vào mỗi tiêu thức phân
loại khác nhau sẽ có các cách phân loại và các loại tài sản khác nhau. Tuy nhiên ở đây
chỉ xem xét đến cách phân loại tài sản dựa theo hình thái biểu hiện của tài sản. Theo
cách phân loại này thì tài sản của doanh nghiệp được phân thành hai loại: tài sản hữu
hình và tài sản vô hình.

Tài sản hữu hình
-

Khái niệm: Tài sản hữu hình là những tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp,
xí nghiệp… mang thuộc tính vật chất. Ví dụ như: nhà xưởng, máy móc, dụng

2


-

cụ, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, hay những tài sản trong xây dựng và phát
triển, có khả năng mang lại lợi nhuận cho chủ sở hữu một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp thông qua sản phẩm được sản xuất ra.
Phân loại: Tài sản hữu hình được phân làm 2 loại: Tài sản cố định hữu hình và
tài sản lưu động hữu hình.
o Tài sản cố định hữu hình: là các tài sản của doanh nghiệp tồn tại dưới
các hình thái vật chất cụ thể, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh
doanh và vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu cho đến khi
hư hỏng phải loại bỏ. Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định hữu hình
bị hao mòn dần và giá trị của nó được chuyển dịch từng phần vào chi

phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
o Tài sản lưu động hữu hình: Là tài sản không nằm trong chu kỳ sử dụng
lâu dài của doanh nghiệp và có hình thái vật chất, mang thuộc tính vật
chất. Ví dụ như: hàng trong kho, các loại nguyện vật liệu mua về để tích
trữ, các sản phẩm gửi bán…
Tài sản vô hình

-

-

Khái niệm: Tài sản vô hình là những tài sản tự biểu lộ, thể hiện thông qua
những đặc điểm kinh tế của chúng. Những tài sản này không có hình thái vật
chất nhưng có thể tạo ra được những lợi thế và quyền hạn để mang lại giá trị
kinh tế cho người sở hữu nó.
Phân loại: Tài sản vô hình có thể được phân thành:
o Các quyền: Mọi doanh nghiệp đều có quyền của mình, những quyền
này có thể tồn tại theo những điều kiện của một hợp đồng dưới hình
thức văn bản hay không bằng văn bản. Giá trị của quyền phụ thuộc vào
những lợi ích tài chính mà quyền đó mang lại cho doanh nghiệp.
o Mối quan hệ giữa các bên: Mọi doanh nghiệp đều phải thiết lập mối
quan hệ với các đơn vị,các chủ thể và các cá nhân bên ngoài khác. Mối
quan hệ này có thể không thể hiện thành hợp đồng nhưng nó rất quan
trọng đối với doanh nghiệp.
o Các tài sản vô hình lập thành nhóm: Là giá trị vô hình thặng dư còn lại
sau khi tất cả tài sản vô hình có thể nhận biết được đã được đánh giá và
trừ khỏi tổng tài sản vô hình, thường được gọi là uy tín. Đặc biệt là đối
với những công ty đang làm ăn tốt và có lợi thế kinh doanh.
o Tài sản sở hữu trí tuệ: Là những tài sản vô hình không nằm ở dạng vất
chất nhưng chúng có giá trị vì chúng có khả năng sinh ra dòng lợi

nhuận trong tương lai. Tài sản sở hữu trí tuệ là loại đặc biệt của tài sản
vô hình, nó thường được luật pháp bảo vệ khổi những sự sử dụng trái

3


thẩm quyền của những người khác. Ví dụ như: nhãn hiêu, bản quyền,
bằng sáng chế…
Tài sản hữu hình thường là bộ phận chủ yếu trong tổng số tài sản và
đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Tài sản hữu hình đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành hình
thái vật chất của sản phẩm, là vỏ bên ngoài chứa đựng giá trị vô hình hay nói
cách khác là nền móng để xây dựng nên tài sản vô hình. Tài sản vô hình bên
cạnh đó không hề phụ thuộc mà còn có tác động qua lại với tài sản hữu hình,
mang lại giá trị gia tăng cho sản phẩm của doanh nghiệp.

1.2.

Đầu tư vào tài sản hữu hình và vô hình của doanh nghiệp

Đầu tư và đầu tư phát triển
Đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nhằm thu được các kết quả, thực hiện được những mục tiêu nhất định trong
tương lai.
Tuỳ vào từng góc độ tiếp cận với những tiêu thức khác nhau có thể phân chia
thành nhiều hoạt động đầu tư khác nhau. Theo tiêu thức quan hệ quản lý của chủ đầu
tư thì đầu tư được chia thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Đầu tư phát triển là
một phương thức của đầu tư trực tiếp. Hoạt động đầu tư này nhằm duy trì và tạo ra
năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống của xã hội.
Đây là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Hình thức đầu tư

này đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế tịa
mỗi quốc gia.
Nội dung đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư vào tài sản vật chất (tài sản thực,
tài sản hữu hình) và đầu tư vào tài sản vô hình. Đầu tư phát triển các tài sản vật chất
bao gồm: đầu tư tài sản cố định (đầu tư xây dựng cơ bản) và đầu tư vào hàng tồn trữ.
Đầu tư phát triển tài sản vô hình bao gồm: đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học kỹ thuật, đầu tư xây dựng
thương hiệu…
Đầu tư vào tài sản hữu hình
Khái niệm:
Đầu tư vào tài sản hữu hình chính là hoạt động đầu tư vào phần giá trị hữu
hình của nhà máy, xí nghiệp nhằm mục đích nâng cao năng suất sản xuất, chất lượng
sản phẩm, tiết kiệm chi phí…
Phân loại:
Đầu tư vào tài sản hữu hình bao gồm hai nội dung: đầu tư xây dựng cơ bản và
đầu tư bổ sung hàng tồn trữ.

4


-

-

Đầu tư cơ bản: là các hoạt động xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại và khôi
phục tài sản cố định. Đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm: đầu tư xây dựng; đầu
tư mua sắm máy móc thiết bị. Các hoạt động chính của đầu tư xây dựng cơ
bản là xây lắp và mua sắm thiết bị. Trong doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh, để hoạt động diễn ra bình thường đều cần xây
dựng nhà xưởng, công trình kiến trúc, kho tàng, bến bãi, phương tiện vận tải,

truyền dẫn, mua và lắp đặt các máy móc thiết bị… Hoạt động đầu tư xây dựng
cơ bản đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn
đầu tư phát triển của đơn vị.
Đầu tư vào hàng tồn trữ: là toàn bộ những khoản chi phí để mua nguyên vật
liệu, bán thành phẩm và sản phẩm hoàn thành đang được tồn trữ trong doanh
nghiệp. Đầu tư vào hàng tồn trữ bao gồm: chi phí đặt hàng, chi phí dự trữ hàng
và giá vốn của hàng hoá

Vài trò của đầu tư vào tài sản hữu hình: Tài sản hữu hình chính là điều kiện
để con người tạo ra sản phẩm. Nếu không có tài sản hữu hình thì quá trình sản xuất
không thể tồn tại. Như vậy việc đầu tư vào tài sản hữu hình là một điều kiện cần để
có thể duy trì hoạt động sản xuất.
Đầu tư vào tài sản vô hình
Khái niệm:
Đầu tư vào tài sản vô hình là hành động bỏ vốn để nâng cao năng lực, giá trị
vai trò của tài sản vô hình đối với công ty như thương hiệu, các mối quan hệ, những
công nghệ, bí quyết mới bằng cách quảng cáo, mở rộng phạm vi ảnh hưởng, mua lại
bản quyền hay tự nghiên cứu, sáng chế.
Phân loại:
Đầu tư vào tài sản vô hình bao gồm rất nhiều các hoạt động như: đầu tư nghiên
cứu triển khai các hoạt động về khoa học công nghệ; đầu tư phát triển nguồn nhân
lực; đầu tư cho hoạt động quản lý; đầu tư cho hoạt động marketing (phân phối, quảng
cáo, xây dựng thương hiệu…); đầu tư để thuê mua quyền sử dụng đất, chi phí về bằng
phát minh sáng chế… Các hoạt động này có thể hướng nội, tức là phục vụ trực tiếp
làm tăng năng suất lao động của doanh nghiệp; hoặc cũng có thể hướng ngoại, tức là
đầu tư tập trung vào những yếu tố bên ngoài công ty như thương hiệu, uy tín, các mối
quan hệ kinh doanh trên thị trường.... Tuy không trực tiếp quyết định đến năng lực
sản xuất của doanh nghiệp nhưng giúp đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp.
Vai trò của đầu tư vào tài sản vô hình: đầu tư vào tài sản vô hình rất quan

trọng, nó ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó cần có những
cơ chế hợp lý để nâng cao hiệu quả về đầu tư vào tài sản vô hình.

5


CHƯƠNG II. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀO
TÀI SẢN HỮU HÌNH VÀ ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ
HÌNH CỦA DOANH NGHIỆP
********
Sự tác động qua lại giữa việc đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản
vô hình là mối quan hệ biện chứng, có tác động hữu cơ, qua lại lẫn nhau. Nếu xem
nhẹ một trong hai khía cạnh này đều làm cho công ty tụt hậu so với xã hội, kìm hãm
sự phát triển của chính công ty đó. Tài sản vô hình chỉ phát triển khi trình độ sản xuất
đã đạt tới những mức nhất định. Khi con người đã thoả mãn những nhu cầu cơ bản họ
mới chú trọng đến những vấn đề khác. Khi chưa đủ ăn, đủ mặc, con người chỉ quan
tâm đến khối lượng và số lượng sản phẩm, và khi đã được đáp ứng đầy đủ thì con
người lại quan tâm đến chất lượng sản phẩm. Điều đó cũng thể hiện đời sống xã hội
quyết định lượng cầu về hàng hoá xa xỉ, lượng cầu về giá trị vô hình. Đây là điều kiện
quan trọng để nâng cao giá trị của tài sản vô hình cho mỗi công ty.
Sau đây chúng ta sẽ đi xem xét mối quan hệ đó.

2.1. Đầu tư vào tài sản hữu hình là cơ sở, tiền đề để phát triển tài sản vô
hình
2.1.1. Đầu tư vào tài sản hữu hình là điều kiện cần cho đầu tư vào tài sản vô hình
Tài sản hữu hình là nền móng, nguồn gốc tạo ra tài sản vô hình. Tài sản cố
định hữu hình với tư cách là kết cấu hạ tầng của sản xuất như đường sá, bến bãi,
phương tiện giao thông vận tải, điện, nước, thông tin liên lạc… là điều kiện cần thiết
đối với quá trình sản xuất. Doanh nghiệp phải có được một cơ sở hạ tầng nhất định
mới có thể đầu tư vào tài sản vô hình một cách hiệu quả.

Ban đầu, đầu tư vào tài sản hữu hình sẽ mang lại hiệu quả cao, năng suất cận
biên và năng suất bình quân tăng. Nhưng do quy luật năng suất cận biên giảm dần,
đến một lúc nào đó đầu tư vào tài sản hữu hình không còn mang lại hiệu quả như
trước, hiệu suất sử dụng vốn giảm. Lúc này, để tăng hiệu suất sử dụng vốn và cũng đã
có được cơ sở hạ tầng nhất định, các doanh nghiệp chuyển sang chú trọng đầu tư vào
tài sản vô hình.
Đầu tư vào tài sản hữu hình được ví như đầu tư theo chiều rộng nhằm nâng cao
sản lượng, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp có điều
kiện để đầu tư vào tài sản vô hình. Những hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình như
đào tạo nâng cao trình độ người lao động, nghiên cứu bí quyết kỹ thuật, thiết kế sản

6


phẩm… đòi hỏi phải có những cơ sở vật chất nhất định. Cơ sở vật chất càng phát
triển thì các hoạt động này càng đem lại hiệu quả cao và nhanh chóng.
2.1.2. Đầu tư vào tài sản hữu hình làm tăng tiềm lực cho đầu tư vào tài sản vô
hình
Khi tài sản hữu hình được quan tâm đầu tư, cơ sở hạ tầng được cải thiện nâng
cấp, máy móc tiên tiến, trang thiết bị hiện đại, nguyên vật liệu chọn lọc, chất lượng
tốt… thì cả chất lượng và số lượng sản phẩm doanh nghiệp sản xuất ra đều tăng lên.
Quá trình đầu tư vào tài sản hữu hình luôn đi kèm với sự tăng lên về năng suất, sản
lượng. Điều này là điều kiện để doanh nghiệp gia tăng doanh thu, lợi nhuận. Đây là
nguồn gốc cho nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp. Phải có tiềm lực thì
mới có thể đầu tư vào tài sản vô hình tương xứng.
Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, không ngừng đổi mới. Nếu doanh
nghiệp không quan tâm đầu tư thích đáng cho tài sản hữu hình thì cơ sở hạ tầng sẽ
xuống cấp, trang thiết bị máy móc trở nên lạc hậu, điều này dẫn đến cả chất lượng và
số lượng sản phẩm sẽ sụt giảm gây mất uy tín cho doanh nghiệp trên thị trường. Điều
này kéo theo hiệu quả sản xuất lẫn kinh doanh của doanh nghiệp đều giảm. Tiềm lực

dành cho hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư vào tài sản vô hình nói riêng cuang
giảm theo.
2.1.3. Đầu tư vào tài sản hữu hình nâng cao hiệu quả đầu tư vào tài sản vô hình
Đầu tư vào tài sản hữu hình theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm có tác
dụng nâng cao giá trị của các tài sản vô hình như uy tín công ty, thương hiệu sản
phẩm… Khi sản phẩm có chất lượng cao sẽ thu hút được khách hàng. Bên cạnh đó,
một công ty có cơ sở vật chất kỹ thuật (như trụ sở công ty, văn phòng đại diện, nhà
xưởng, chuỗi cửa hàng, trang thiết bị…) hiện đại cũng sẽ dễ dàng tiếp cận và tạo
dựng niềm tin với khách hàng hơn.

2.2. Đầu tư vào tài sản vô hình có tác động trở lại thúc đẩy đầu tư phát
triển tài sản hữu hình
Tài sản vô hình ra đời và phát triển trên nền tảng cơ sở là tài sản hữu hình. Tuy
nhiên, đầu tư phát triển tài sản vô hình không thụ động, phụ thuộc mà ngược lại, khi
đã lớn mạnh đến một mức độ nhất định sẽ tác động trở lại vào việc đầu tư phát triển
tài sản hữu hình, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả đầu tư tài sản hữu hình.
2.2.1. Đầu tư vào tài sản vô hình tăng cường tiềm lực cho doanh nghiệp, tạo điều
kiện thúc đẩy trở lại vào đầu tư phát triển tài sản vô hình
Khoa học kỹ thuật phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm tòi đổi mới
công nghệ, nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Sự cạnh tranh trên thị trường cũng
ngày càng căng thẳng do ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia thị trường hơn.

7


Vì vậy doanh nghiệp muốn có được thị phần, muốn sản phẩm có chỗ đứng trên thị
trường cần phải tạo được cho sản phẩm của mình có những ưu điểm riêng biệt. Hoạt
động đầu tư vào tài sản vô hình lúc này sẽ có những tác động tích cực đến quá trình
sản xuát kinh doanh, tăng cường tiềm lực cho doanh nghiệp, tạo điều kiện thúc đẩy
đầu tư trở lại vào tài sản hữu hình.

Đầu tư vào quảng cáo, mở rộng các mối làm ăn là một trong những phương
thức hiệu quả để công ty nâng cao giá trị vô hình. Với một thương hiệu quen thuộc,
uy tín, những mối quan hệ làm ăn cùng bí quyết, công nghệ, quyền lợi pháp lý có ưu
thế hơn các đối thủ trên thị trường, từ đó mang lại doanh thu và lợi nhuận cho công
ty, là điều kiện để tăng thêm nguồn vốn cho đầu tư phát triển, giúp công ty có thể trực
tiếp đầu tư vào tài sản vô hình.
Nắm được kỳ vọng về nguồn lợi nhuận mà tài sản vô hình có thể mang lại
trong tương lai, những nhà lãnh đạo của công ty sẽ hướng cho nâng cao chất lượng
sản phẩm để tạo cơ sở thu về giá trị vô hình lớn cho công ty. Với những sản phẩm tốt,
khách hàng sẽ tự tìm đến, hàng hoá khi bán được dễ dàng trên phạm vi rộng lớn thì
uy tín, thương hiệu, vị thế… của công ty chắc chắn sẽ được cải thiện trên thị trường.
Đây là biện pháp nâng cao giá trị của tài sản vô hình một cách chắc chắn, an toàn,
hiệu quả và chủ động.
2.2.2. Đầu tư vào tài sản vô hình nâng cao hiệu quả của tài sản hữu hình
Khoa học kỹ thuật phát triển đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với người lao
động. Máy móc thiết bị hiện đại chỉ có thể phát huy hết giá trị khi người sử dụng có
trình độ tay nghề cao tương xứng, có kỹ năng tác phong làm việc chuyên nghiệp.
Máy móc dù hiện đại, môi trường có chuyên nghiệp nhưng người lao động không
được đào tạo đến nơi đến chốn, không có kỹ năng, ý thức tác phong thì cũng không
thể phát huy được hiệu quả.
Khi đầu tư vào tài sản vô hình theo hướng tập trung vào khía cạnh công nghệ,
bí quyết, kĩ năng, trình độ của lao động sẽ trực tiếp và chắc chắn làm tăng tài sản hữu
hình biểu hiện ở số lượng sản phẩm, giá trị sử dụng của máy móc. Hoạt động đầu tư
này có tác dụng trực tiếp đến tài sản hữu hình dù hoạt động đầu tư được thực hiện, tác
động ở phần tài sản vô hình của nó. Tiềm năng của hoạt động đầu tư này rất lớn và
hiệu quả vì nó tác động đến công nghệ sản xuất. Đây là con đường mà nhà đầu tư có
thể hạn chế được tác động của quy luật năng suất cận biên giảm dần.

8



CHƯƠNG III. THỰC TIỄN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TÀI SẢN VÔ HÌNH VÀ HỮU HÌNH
3.1. Thực trạng đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình ở Việt Nam
3.1.1. Đầu tư vào tài sản hữu hình:
Tài sản cố định hữu hình có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế cũng
như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản cố định hữu hình là
“lực lượng vật chất” quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội. Tài sản cố
định hữu hình với tư cách là kết cấu hạ tầng của sản xuất như đường xá, bến cảng,
sân bay, phương tiện giao thông vận tải, điện, nước, thuỷ lợi, bưu điện, thông tin liên
lạc… là điều kiện cần thiết đối với quá trình sản xuất, quyết định thành bại của doanh
nghiệp.
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng là rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, không có
cơ sở hạ tầng thì không thể có điểm tựa cho nền kinh tế được. Cơ sở hạ tầng là điều
kiện thiết yếu đầu tiên cho việc xây dựng một doanh nghiệp và là điều kiện cần để
doanh nghiệp có thể đi vào hoạt động. Những năm gần đây, cùng với việc tăng trưởng
nền kinh tế thì tốc độ đô thị hóa xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật ở nước ta
cũng tăng một cách nhanh chóng, bộ mặt đất nước cũng có những biến chuyển rõ rệt
Tuy nhiên, một vấn đề đáng lo ngại là cơ sở hạ tầng trong các doanh nghiệp
Việt Nam đang còn rất yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự tăng trưởng kinh
tế trong các doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng phát triển chưa đồng bộ, không theo kịp nền
kinh tế, không đáp ứng đủ nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng khá mạnh mẽ và
liên tục của VN đang khiến cơ sở hạ tầng bị quá tải. Chọn được một địa điểm để xây
dựng nhà xưởng cũng là một vấn đề hết sức khó khăn khi mà xây dựng ở những khu
vực có nguồn nguyên liệu dồi dào thì lại khó khăn về hạ tầng và giao thông. Còn ở
những nơi giao thông thuận lợi thì vận chuyển nguyên vật liệu lại xa. Hơn nữa việc
đền bù giải phóng mặt bằng cũng còn nhiều nan giải. Giá đất ở các đô thị và sắp trở
thành đô thị của Việt Nam tương đương với mức giá ở những khu vực tương tự ở
Nhật Bản, một quần đảo đông dân với thu nhập trung bình cao hơn Việt Nam tới 50

lần. Giá đất cao một cách phi lý không chỉ dừng lại ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh mà
đã lan rộng ra các tỉnh xung quanh. Ở một số tỉnh, hàng ngàn héc-ta đất đã bị chuyển
thành đất của khu công nghiệp mà trên thực tế gần như còn trống chưa có hoạt động
gì.
Hệ thống điện nước và cảng biển cũng gây không ít khó khăn. Điện năng hiện
nay chưa đủ để đáp ứng nhu cầu trong các trung tâm công nghiệp chủ chốt. Tình

9


trạng thiếu điện nước vẫn xảy ra thường xuyên gây ảnh hưởng xấu đến việc sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp. Đặc biệt hạ tầng kỹ thuật của các cảng biển tại Việt
Nam cũng còn nhiều vấn đề đáng lo ngại. Theo nhận xét của các đại diện những tập
đoàn, cảng biển tại Việt Nam đang có dấu hiệu tắc nghẽn, nhất là tại khu vực
TP.HCM. Việc huy động vốn vào đầu tư các cảng biển hiện còn chậm trễ. Chính vì
vậy các cảng biển vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hóa cho nhà đầu
tư. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển hạ tầng kỹ thuật, không nên quá coi trọng
về số lượng mà cần quan tâm đến hiệu quả của các dự án. Các hạng mục hạ tầng phải
bảo đảm sự kết nối, đáp ứng được yêu cầu vận chuyển cũng như tiến độ, thời gian...
Đầu tư cơ sở hạ tầng còn gặp phải sự kém hiệu quả và lãng phí, thậm chí là
một đối tượng của tham nhũng. Ngay cả những dự án cấp thiết cũng thường bị chậm
tiến độ so với kế hoạch. Đấy là chưa kể tình trạng ô nhiễm tràn lan tới mức khó kiểm
soát ở rất nhiều khu công nghiệp hiện nay đang ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống sản
xuất và mưu sinh của người dân.
Đầu tư vào máy móc thiêt bị sản xuất
Máy móc thiết bị được coi là xương sống của một doanh nghiệp nên việc đầu
tư vào nó phải được chọn lựa kĩ càng. Nguồn vốn đầu tư vào máy móc thiết bị chiếm
một tỉ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp. Theo Bộ công nghiệp,
việc đổi mới máy móc thiết bị đã đóng góp tăng trưởng 30 -40% GDP toàn ngành.
Như vậy việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ là một nhân tố rất quan

trọng đến khả năng cạnh tranh và tồn tại của DN.
Ở Việt Nam , một thực trạng đáng báo động trong các doanh nghiệp máy móc
thiết bị chủ yếu nhập về từ bên ngoài với rất nhiều thiết bị cũ, lỗi thời. Các thiết bị
mua về không đồng bộ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc khai thác vận hành
và sử dụng. Hơn 50% máy móc thiết bị tại các công ty sản xuất công nghiệp bị hỏng
hoặc hư hại nghiêm trọng do không được bảo dưỡng. Theo Bộ Công nghiệp, phần lớn
giá trị máy móc thiết bị sản xuất chỉ còn 30% so với giá trị ban đầu và đã lạc hậu hơn
30 năm như dệt may có đến 45% thiết bị máy móc của các DN cần phải đầu tư nâng
cấp và 30-40% cần thay thế; mũi nhọn công nghiệp là cơ khí thì đã lạc hậu hơn 40
năm so với khu vực và 50 năm so với các nước phát triển về công nghệ và thiết bị sản
xuất.
Nền kinh tế nước ta phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mức vốn thấp
- dưới 10 tỷ đồng - nên khả năng trang bị máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên
tiến là rất hạn chế. Máy móc thiết bị còn lạc hậu, chưa đồng bộ, khoảng cách về quy
mô sản xuất, trình độ công nghệ của Việt Nam dần xa so với các nước khác, chưa đáp
ứng được yêu cầu cấp bách của thị trường trong nước và thế giới. Ngay cả trong

10


những ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn cũng trong tình trạng công nghệ, máy
móc thiết bị lạc hậu.
Đầu tư vào tài sản hữu hình khác:
Hiện nay thời đại công nghệ thông tin, nên nhu cầu của con người về việc cập
nhật tin tức hàng ngày là điều rất cần thiết, và việc các công ty đã lắp đặt các thiết bị
internet trên diện rộng đã ngày càng phổ biến, mỗi một thành viên trong công ty đều
có một máy vi tính riêng và nối mạng internet của công ty. Hiện nay việc sử dụng
mạng đã trở nên phổ biến, và giá của nó cũng ngày một giảm hơn so với trước. Hơn
nữa kinh doanh của các công ty hiện nay không phải chỉ trong phạm vi thành phố nữa
mà đã vượt ra bên ngoài. Khi làm ăn với các công ty nước ngoài việc liên lạc qua

mail là phổ biến hiện nay, vì không phải lúc nào cũng có thể gặp trực tiếp được đối
tác, và gửi các văn bản thông qua máy fax.
Một số doanh nghiệp trong ngành nông nghiệp thì lại chú trọng vào các cây trồng,
vật nuôi… Tài sản hữu hình này chính là vấn đề quan tâm của các doanh nghiệp, vì
đây là tài sản mà họ tạo ra sau quá trình nghiên cứu, sản xuất để cho ra được sản
phẩm cung cấp cho thị trường. Đó là một số tài sản hữu hình khác trong một số ngành
riêng biệt mà họ sản xuất ra. Hiện nay, Việt Nam là một nước nông nghiệp, nhưng
việc bảo hộ giống cây trồng vẫn là vẫn đề rất mới đối với Việt Nam . Cũng giống như
các doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm gốm, sứ, bát, lọ hoa, tranh ảnh… đó là các
sản phẩm hữu hình mà các doanh nghiệp tạo ra. Việc đầu tư để tạo ra được những sản
phẩm ấy được các doanh nghiệp chú trọng đầu tư.
3.1.2. Đầu tư vào tài sản vô hình:
Hiện nay với nền kinh tế thị trường với đặc trưng tự do hoá cạnh tranh, xu thế
thương mại tự do, xu thế toàn cầu hoá… thì mỗi doanh nghiệp phải chú trọng vào
việc tự hoàn thiện mình để tồn tại và có vị trí vững chắc trên thị trường. Một vấn đề
đặt ra hiện nay là: liệu các doanh nghiệp đã thực sự nhận ra được tầm quan trọng, sự
đóng góp của các tài sản vô hình vào sự thành công của doanh nghiệp và đầu tư đúng
mức vào tài sản vô hình.
Đầu tư vào thương hiệu:
Bất kỳ một doanh nghiệp nào trước khi quyết tâm thực hiện một chiến lược hay
một kết hoạch đều phải xác định mục tiêu và phương pháp để thực hiện. Có nhiều
hướng đi để đạt đến mục tiêu nhưng quan trọng là phải biết chọn hướng đi “với cùng
một chi phí nhưng hiệu quả cao hơn” . Khi một doanh nghiệp chuẩn bị niêm yết trên
thị trường chứng khoán thì một trong những mục tiêu của họ là mong muốn được
nhiều nhà đầu tư quan tâm và được công chúng biết đến thương hiệu nhiều hơn để hy
vọng giá cổ phiếu thị trường cao hơn mệnh giá. Ngược lại, đối với nhà đầu tư chỉ

11



chấp nhận trả cho một cổ phiếu với giá cao hơn thì họ đang kỳ vọng vào thương hiệu
sẽ mang lại cổ tức cao và giá trị cổ phiếu tăng hơn so với giá hiện tại.
Một thương hiệu được đánh giá là mạnh khi có nhiều người biết đến với
những nhận thức tích cực và sự trung thành đối với thương hiệu thông qua sự quan
tâm và sử dụng thường xuyên sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp xây dựng
được thương hiệu mạnh thì không chỉ nâng được uy tín và vị thế của mình mà giúp
cho công ty có cơ hội mang lại lợi nhuận cao hơn bởi khách hàng sẵn sàng trả ở mức
giá cao hơn cho thương hiệu nổi tiếng, cho sự an tâm về chất lượng và đẳng cấp sản
phẩm trên thị trường. Chính thương hiệu là tài sản vô hình của công ty nên doanh
nghiệp cần đầu tư xây dựng, cần bảo vệ và nuôi dưỡng nó để tạo nên giá trị lâu dài.
Với từng sản phẩm riêng biệt, cho đến hôm nay, chỉ riêng những cái tên như
Samsung, Cola Coke hay Google đã trở thành tài sản đáng giá hàng tỷ đôla Mỹ.
Thực tế, ngay tại thị trường Việt Nam cũng có những thương hiệu mà để sở
hữu chúng, người ta sẵn sàng chi trả hàng triệu đôla. Tại Việt Nam , thương hiệu kem
đánh răng P/S đã được mua lại với giá 5,3 triệu USD, nhãn hiệu bia Sài Gòn là
9.5triệu USD. Tập đòan Vina Capital mua 30% cổ phần (tương đương 3 triệu USD)
của công ty Phở 24 của Việt Nam, họ đã định giá thương hiệu Phở 24 giá 7 triệu
USD, tương đương 70% tổng giá trị của hiện nay của chuỗi nhà hàng này.
Thương hiệu được phát triển thì hình ảnh của công ty quản lý thương hiệu đó
cũng được đánh giá cao. Giữa hình ảnh của công ty (cooperate image) và thương hiệu
(brand) có mối quan hệ chặt chẽ bổ sung cho nhau. Vì vậy, tất cả các chương trình
xây dựng hình ảnh của công ty cũng như xây dựng thương hiệu cho sản phẩm cần
được hoạch định một cách rõ ràng trong chiến lược kinh doanh của công ty. Công ty
Cổ phần Kinh Đô mua lại thương hiệu kem Wall's cùng toàn bộ nhà máy, dây chuyển
sản xuất của nhà máy kem Wall's của Tập đoàn Unilever được giới chuyên gia đánh
giá cao về tính nhạy bén thị trường trong chiến lược kinh doanh của Kinh Đô. Đây là
tín hiệu chứng tỏ các doanh nghiệp nội địa đã tiếp cận tính chuyên nghiệp trong đầu
tư vào thương hiệu. Thực ra, trên thế giới, các hợp đồng mua bán công ty, mua bán
thương hiệu hay nhượng quyền sử dụng nhãn hiệu là hiện tượng phổ biến. Câu
chuyện này tuy còn mới ở Việt Nam , nhưng không phải là hiếm có. Công ty Phương

Đông bán nhãn hiệu P/S cho Unilever; đối tác nước ngoài trong Liên doanh bia Đông
Nam Á mua thương hiệu bia Halida; Công ty sản xuất xe máy tư nhân Hoa Lâm mua
lại quyền sử dụng thương hiệu động cơ xe máy Daelim của Hàn Quốc để tiêu thụ trên
thị trường Việt Nam...Kết quả điều tra gần đây của dự án hỗ trợ doanh nghiệp về
năng lực xây dựng và quảng bá thương hiệu với mẫu là 500 doanh nghiệp trên toàn
quốc thì có đến 25 -30% DN không hề đầu tư vào việc xây dựng thương hiệu, 70%
tuy có đầu tư nhưng không đầy đủ, toàn diện. Chỉ có 5% số DN được hỏi là có đầu tư

12


đầy đủ. DN VN xuất khẩu mạnh các mặt hàng tiêu dùng, nông thủy hải sản, thực
phẩm… với chất lượng không thua kém với các sản phẩm quốc tế. Tuy nhiên, khoảng
90% sản phẩm VN vào thị trường thế giới hầu hết thông qua trung gian dưới dạng thô
hoặc gia công cho các thương hiệu nước ngoài nên các thương hiệu VN thường rất
mờ nhạt.
Vấn đề xây dựng thương hiệu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc phát
triển bền vững, có ý nghĩa chiến lược, sống còn. Thậm chí, không chỉ DN mà nhiều
quốc gia hiện nay còn đẩy mạnh các hoạt động Marketing quảng bá hình ảnh, thương
hiệu nhằm thu hút đầu tư, xúc tiến thương mại, tích trữ các nguồn lực để phát triển.
Hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập WTO, thương hiệu của các doanh nghiệp Việt
nam phải cạnh tranh với các thương hiệu mạnh của nước ngoài. Đó là một cuộc chiến
không cân sức mà các thương hiệu Việt đang nằm ở thế yếu. Bởi lẽ các doanh nghiệp
của ta thua hẳn các doanh nghiệp nước ngoài về tài chính, về bề dày, về đội ngũ, về
tính chuyên nghiệp và kinh nghiệm.Trong điều kiện ta yếu hơn các thương hiệu
mạnh, Việt Nam cần biết tận dụng nguồn lực để tạo sự khác biệt, để tăng tính cạnh
tranh. Doanh nghiệp nhỏ muốn thách thức với các thương hiệu lớn, trước hết phải tạo
vị trí trong lòng khách hàng.
Khi thương hiệu đã trở thành tài sản của doanh nghiệp, thì một yêu cầu mới
đặt ra là làm thế nào để bảo hộ thương hiệu của mình. Tình trạng hàng xuất khẩu Việt

Nam sang thị trường nước ngoài bị mất tên và thương hiệu đang là một thực tế diễn
ra. Năm 1998, thương hiệu nước mắm Phú Quốc bị công ty Kimseng tại California
đăng kí. Tháng 11/2000 đến lượt cà phê Trung Nguyên bị công ty Rice Field Corp
nhanh tay ghi danh tại Hoa Kì, rồi họ chào bán cho chính Trung Nguyên với giá
nhiều triệu USD. Cuối năm 2002, thương hiệu Petro Viet Nam đã bị doanh nghiệp
Nguyễn Lai đăng ký tại Mỹ, thuốc lá Vinataba bị chiếm dụng thương hiệu tại 12 thị
trường. Hàng dệt may, giày dép, kim ngạch xuất khẩu thuộc top đầu, nhưng chủ yếu
gia công nước ngoài, nên phải mang thương hiệu của các tập đoàn công ty lớn. Một
số nông lâm sản vững vàng vị thế cao trên trường thế giới, song đa phần xuất khẩu
qua trung gian nên gần như phải mang thương hiệu nước ngoài hoặc thuần tuý chỉ là
thương hiệu nhà phân phối.
Đầu tư vào khoa học công nghệ:
Trong sản xuất kinh doanh bí quyết công nghệ luôn luôn là yếu tố quan trọng hàng
đầu, vì vậy cần phải đầu tư vào công nghệ để tìm ra những công nghệ phù hợp với
điều kiện sản xuất của doanh nghiệp. Theo kết quả một khảo sát tại 1.200 DN Việt
Nam của Tổ chức Hợp tác kỹ thuật Cộng hòa Liên bang Đức (GTZ), chỉ có khoảng
0,1% doanh thu hàng năm của DN được dành cho đổi mới công nghệ, thiết bị. Việc
nhập khẩu công nghệ hàng năm của các DN VN cũng chỉ dưới 10% tổng kim ngạch

13


nhập khẩu và chỉ bằng 1/4 của các nước phát triển. Vì hạn chế trong đổi mới công
nghệ, thiết bị của DN nên dẫn đến sản phẩm kém đa dạng, kém cạnh tranh.
Đánh giá của Bộ Khoa và & Công nghệ thì năng lực đổi mới công nghệ là
“loại năng lực yếu nhất” của các DN Việt Nam . Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn, trong giai đoạn 2001-2005, đầu tư cho hoạt động khoa học
công nghệ chỉ chiếm 2,3% tổng vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp, tương đương
2.630 tỷ đồng. Mức đầu tư cho khoa học công nghệ trong nông nghiệp mới chỉ chiếm
0,1% GDP. Tỷ lệ này chỉ bằng 1/4 đến 1/7 so với các nước trong khu vực.

Nước ta phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình độ công nghệ sản xuất còn
lạc hậu. Để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, đặc biệt trong xu thế hội nhập, doanh
nghiệp cần phải nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Muốn vậy doanh
nghiệp phải đổi mới công nghệ và biết đánh giá công nghệ. Dựa trên các số liệu báo
cáo tổng kết, có rất ít doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu KHCN vượt quá 0,25%
tổng doanh thu hàng năm, trong khi ở nhiều tập đoàn, công ty sản xuất kinh doanh
của các nước, tỷ lệ này thường là từ 5-6%. Mặc dù Nhà nước đã dành những ưu tiên
nhất định, cố gắng tăng tỉ lệ đầu tư cho khoa học công nghệ từ nguồn ngân sách Nhà
nước, năng lực nghiên cứu của nhiều tổ chức khoa học, công nghệ được nâng lên rõ
rệt, nhưng việc đầu tư này không đồng đều. Như vậy, công nghệ mới cho doanh
nghiệp là điều hết sức cần thiết giúp họ có chỗ đứng vững chắc trên thị trường và
nâng cao khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác.
Qũy Khoa học công nghệ quốc gia ra đời tháng 2/2008. Theo đánh giá của các nhà
khoa học, Quỹ Phát triển KH-CN là một bước tiến trong chính sách phát triển KHCN. Với 200 tỷ đồng/năm và có thể nhiều hơn cho các năm sau cùng với sự huy động
đóng góp nguồn vốn ngoài ngân sách như các khoản đóng góp tự nguyện, hiến tặng
của các tổ chức và cá nhân trong nước và quốc tế, quỹ hứa hẹn sẽ là “đòn bẩy” cho
nhiều công trình, dự án khả thi mang lại nhiều thành tựu. Ngoài ra, Bộ KH-CN cũng
đang chủ trì hoàn thiện dự thảo quy định tài trợ nghiên cứu cơ bản trong các lĩnh vực
khoa học.
Đầu tư vào nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng cần được đầu tư thường xuyên cả về
số lượng và chất lượng. Các doanh nghiệp Việt Nam ngoài việc phải đối mặt với
những khó khăn về ngành nghề, thương hiệu, tài chính, thị trường, v.v.., còn một nỗi
lo canh cánh khác trong cuộc cạnh tranh là làm sao gây dựng được đội ngũ nhân viên
có năng lực, nhiệt tình và cam kết gắn bó lâu dài với doanh nghiệp, những người
cùng nghĩ và cùng làm với chủ doanh nghiệp để đạt được mục tiêu kinh doanh của
doanh nghiệp. Tuy nhiên để có được và giữ được những người như vậy là một thách
thức lớn với doanh nghiệp, đặc biệt những doanh nghiệp nhỏ và vừa.

14



Khi giới thiệu cơ hội, tiềm năng của Việt Nam , từ trước đến nay chúng ta luôn
tự hào về nguồn nhân lực rẻ, dồi dào và rất trẻ. Tuy nhiên, ưu thế này đang mất dần
khi Trung Quốc, Ấn Độ… có số dân đông gấp nhiều lần Việt Nam, hơn nữa chất
lượng nguồn nhân lực của các quốc gia này cũng được đánh giá cao hơn Việt Nam .
Chính vì vậy, sự hơn kém nhau ở trình độ, kỹ năng làm việc… của nguồn nhân lực
mỗi nước sẽ là yếu tố quan trọng để các nhà đầu tư cân nhắc, xem xét trước khi bỏ
vốn làm ăn. Nước ta có nguồn lao động dồi dào chiếm trên 54% dân số cả nước với
gần 47 triệu lao động. Mỗi năm nước ta có khoảng 1,2 triệu người bước vào tuổi lao
động, trong đó có 200.000 sinh viên ra trường. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động đã qua đào
tạo (ở các cấp độ) trong nguồn lao động hiện chỉ chiếm 20%, 80% người lao động
trong độ tuổi từ 20 đến 24 khi tham gia thị trường lao động chưa được đào tạo nghề,
hoặc được đào tạo thì còn hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp. Sinh viên nước ta thường
được đào tạo 80% - 90% lý thuyết, 10%- 20% thực hành, một tỷ lệ ngược hoàn toàn
so với các nước.
Trong khi đó, các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao như tin học, tự
động hóa, cơ điện tử, chế biến xuất khẩu... đều đòi hỏi lao động qua đào tạo nghề là
trên 70%, trong đó trên 35% cần có trình độ trung cấp trở lên. Một số chuyên gia
cảnh báo lao động giá rẻ thường có chất lượng thấp, làm việc không hiệu quả, dẫn
đến chi phí đầu tư cao hơn. Đó là điều không nhà đầu tư nào muốn.
Vấn đề đặt ra lại nằm trong khâu đào tạo, cách thức đào tạo để có nguồn nhân
lực đáp ứng được yêu cầu hiện tại. Sinh viên ra trường, doanh nghiệp lại phải tự đào
tạo, hoặc đào tạo lại. Trong khi đó, những người đi du học lại thường ít trở lại Việt
Nam, trong khi ở các nước, có Việt kiều là những doanh nhân, những nhà khoa học
đầu đàn. Ngay như ở trong nước, những người có trình độ chuyên môn cao thường
muốn được làm việc cho những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chứ không
muốn làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước. Điều đó cũng dễ hiểu khi mà tiền
lương trong các doanh nghiệp FDI thường cao hơn nhiều lần so với các doanh nghiệp
trong nước. Vì vậy phải có những chính sách tiền lương và phúc lợi xã hội cho người

lao động Do vậy đầu tư nâng cao nguồn nhân lực là đòi hỏi tất yếu giữ vai trò to lớn
tạo nên thành bại trong hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô
hình
3.2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào tài sản hữu hình:
Trong doanh nghiệp hiện nay tài sản hữu hình vẫn chiếm một giá trị lớn trong
toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, là cơ sở, tiền đề cho mọi hoạt động sản xuất của
doanh nghiệp, nó đóng vai trò quan trọng trong doanh nghiệp. Vì vậy, để hoạt động

15


có hiệu quả các nhà quản lý doanh nghiệp cần phải có những bước đi đúng trong việc
đầu tư vào tài sản hữu hình. Ở Việt Nam hiện nay, việc đầu tư vào tài sản hữu hình
trong các doanh nghiệp đã được chú trọng và đem lại hiệu quả tốt trong việc sản xuất
kinh doanh, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số thiếu sót và sai lầm gây ra việc
làm giảm hiệu quả của nguồn vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Sau đây là một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nguồn vốn đầu tư vào các loại tài sản hữu hình
trong doanh nghiệp.
Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào máy móc thiết bị:
Máy móc thiết bị công nghệ là một công cụ quyết định hiệu quả quá trình sản
xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, ngày nay dưới sự phát triển của khoa học công
nghệ, ngày nay dưới sự phát triển của khoa học công nghệ thì không có một doanh
nghiệp nào muốn giữ ưu thế so với đối thủ cạnh tranh mà không đầu tư vào máy móc
thiết bị công nghệ. Bởi các máy móc thiết bị công nghệ không những giúp cho doanh
nghiệp thắng thế trên thị trường mà còn làm thay đổi bản chất của quá trình cạnh
tranh. Với máy móc thiết bị hiện đại có thể làm cho chi phí sản xuất thấp, tiết kiệm
được nguyên liệu, hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm, đồng thời đẩy
nhanh quá trình sản xuất.

Vì vậy, trước hết doanh nghiệp phải huy động được nguồn vốn để có khả năng
đầu tư vào các máy móc thiết bị tiên tiến phù hợp với trình độ quản lý của mình.
Tránh nhập những máy móc lạc hậu quá, hoặc hiện đại quá mà doanh nghiệp không
thể vận hành nó. Điều đó sẽ gâ ra lãng phí trong việc sủ dụng vốn đầu tư và không
mang lại hiệu quả trong quá trình sản xuất.
Khi tiếp nhận máy móc thiết bị doanh nghiệp cần phải có đội ngũ công nhân
kỹ thuật lành nghề để có thể tiếp cận và vận hành một cách hiệu quả đem lại lợi ích
kinh tế xã hội cho doanh nghiệp cũng như cho xã hội.
Việc đầu tư vào máy móc thiết bị cần phải có số lượng vốn lớn không thể một
lúc mà huy động tất cả do vầy doanh nghiệp cần phải có kế hoạch khấu hao tài sản
hàng năm tạo lập ngân sách, tái tạo đầu tư mới.
Hiện nay thuê máy móc, thiết bị xây dựng được coi là việc làm phổ biến và
đem lại hiệu quả rất cao ở các nước phát triển, kinh nghiệm từ Nhật Bản. Việc thuê
máy móc, thiết bị thi công công trình từ nhiều năm qua coi như một giải pháp tối ưu
của hầu hết các nhà thầu xây dựng. Rất ít các nhà thầu xây dựng có thể tự bỏ một số
vốn lớn để đầu tư tất cả các loại máy móc thiết bị. Về hiệu quả việc thuê ngoài sẽ
giúp các thiết bị, máy móc được sử dụng đúng chức năng, công suất đạt được mức tốt
nhất, giảm bớt thời gian nhàn rỗi. Đồng thời, với việc chuyên dùng để cho thuê,
những thiết bị này sẽ được bảo trì, bảo quản tốt nhất, do vậy sẽ biền và ít hao mòn

16


hơn. Đây là một xu thế nới có thể giải quyết một số vấn đề cho doanh nghiệp Việt
Nam trong việc đầu tư vào máy móc thiết bị.
Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào cơ sở hạ tầng và phương tiện
giao thông vận tải:
Cơ sở hạ tầng và phương tiện giao thông vận tải có tác động rất lớn đến hiệu
quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là một trong những yếu tó để doanh
nghiệp có khả năng tiếp cận thị trường một cách tốt hơn. Một cơ sở hạ tầng hiện đại.

phương tiện giao thông phù hợp sẽ làm giảm chi phí cho việc đầu tư mới, doanh
nghiệp sẽ vận hành và khai thác hoạt động của mình một cách tốt nhất.
Doanh nghiệp cần có chính sách huy động vốn một cách khả thi trước khi tiến
hành đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Doanh nghiệp cần xác định rõ ràng địa điểm tiến hành
đầu tư vào cơ sở hạ tầng sao cho có khả năng tiếp cận thị trường nguồn nguyên liệu,
nhân công cũng như việc lưu hành các phương tiện giao thông đạt hiệu quả một cách
tối ưu. Đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để thuận
lợi trong việc giải phóng mặt bằng. chuẩn bị cho công tác thi công.
Doanh nghiệp phải có khấu hao hàng năm để tạo nguồn đầu tư mới với những
doanh nghiệp có vốn vừa và nhỏ thì phải tận dụng thị trường cho thuê tài chính để có
vốn cho hoạt động cần thiết khác.
3.2.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào tài sản vô hình:
Hiện nay, vai trò của tài sản vô hình đối với sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp ngày càng được nâng cao. Vì vậy , việc đầu tư vào tài sản vô hình là cần thiết
và rất qần trọng đối với doanh nghiệp. Nhưng việc đầu tư vào tài sản vô hình đối với
doanh nghiệp phải hợp lý và phù hợp với tài sản hữu hình.
Giải pháp về mặt nguồn nhân lực:
Các doanh nghiệp phải chú trọng việc đầu tư vào nguồn nhân lực có hiệu quả
hơn, phải tự mình đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cần phải sử dụng các phương pháp chọn lựa, tuyển dụng lao
động hợp lý để có thể sử dụng được những người có năng lực, loại bỏ những người
không có năng lực. Ngoài ra còn có chế độ khen thưởng đối với những người lao
động giỏi, tạo môi trường lao động tốt, đảm bảo sức khoẻ cho người lao động để họ
có động lực làm việc tốt hơn.
Giáo dục phải là bạn đồng hành của doanh nghiệp, một trong những biện pháp
hữu hiệu nhất là đào tạo nhân lực phù hợp với nhu cầu doanh nghiệp. Đó là sự phù
hợp giữa nhà trường và doanh nghiệp hay nói cụ thể hơn là nhà trường đào tạo theo
đơn đặt hàng của doanh nghiệp, ngược lại doanh nghiệp cũng hỗ trợ để nhà trường
nâng cao chất lượng đào tạo.


17


Mở rộng quy mô đào tạo nhân lực, hình thành các cơ quan dự báo thị trường
lao động, xây dựng hệ thống các chuẩn đào tạo, đổi mới quản lý về chất lượng đi kèm
với kiểm định và trao quyền tự chủ cho nhà trường nhiều hơn, hợp tác với doanh
nghiệp để huy động nguồn lực từ doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhận thức rõ hơn về
trách nhiệm của doanh nghiệp với việc đào tạo nhân lực. Nhiều doanh nghiệp đã tài
trợ cho nhà trường với số trang thiết bị lên đến hàng triệu USD.
Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào nhãn hiệu hàng hoá:
Trong các hoạt động kinh doanh ngày nay, nhãn hiệu hàng hoá là một phàn
không thể thiếu đối với các công ty. Tuy nhiên, để một nhãn hiệu hàng hoá thực sự có
thể giúp sản phẩm của công ty được tiêu thụ mạnh thì không phải công ty nào cũng
thực hiện được. Nếu công ty có một nhãn hiệu hàng hoá uy tín, đi sâu vào tâm trí
người tiêu dùng thì công ty ấy sẽ có vị thế vững chắc trên thị trường, nhờ đó việc mở
rộng thị trường hay tìm kiếm thị trường mới cũng dễ dàng hơn nhiều. Nhãn hiệu hàng
hoá ngoài tính độc đáo, dễ phân biệt, dễ nhớ thì một yêu cầu đặt ra là phải thể hiện
được chất xám cũng như công nghệ kĩ thuật của nhà sản xuất đầu tư vào sản phẩm
của mình. Nhãn hiệu hàng hoá luôn là sự quan tâm hàng đầu khi khách hàng đi mua
sắm một sản phẩm nào đó.
Do đó, doanh nghiệp cần có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về thương hiệu,
xem thương hiệu là tài sản quản lý của doanh nghiệp, cần phải bảo vệ và phát triển
nó. Phải coi việc phát triển thương hiệu là việc sống còn của doanh nghiệp, là hoạt
động mang tính chiến lược trong suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Cái gốc của thương hiệu là uy tín của sản phẩm và dịch vụ, sự bền vững của
chất lượng. Do vậy, doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo
thương hiệu.
Doanh nghiệp cần tập hợp các hoạt động nhằm tạo cho sản phẩm của mình
một vị trí xác định trên thị trường. Các doanh nghiệp định vị và quảng bá thương hiệu
bằng nhiều phương pháp thông qua quảng cáo, PR, giá cả hoặc bằng chính sản phẩm,

với mục tiêu chính là làm sao đưa thương hiệu vào tâm trí người tiêu dùng.
Bên cạnh quảng cáo trên các phương tiên thông tin đại chúng thì PR có tác
động tích cực trong việc quảng bá thương hiệu với các chương trình hành động được
thiết kế và hoạch định tỉ mỉ, cẩn thận nhằm gặt hái được sự thừa nhận của công chúng
và thông tin đến học những hoạt động và mục tiêu của doanh nghiệp. PR là một công
cụ giao tiếp rất linh hoạt trong lĩnh vực giao tiếp marketing: bán hàng trực tiếp hoặc
qua điện thoại, các hoạt động tài trợ, triển lãm. PR hiện đang được ứng dụng rộng rãi
bởi các tổ chức từ hoạt động phi lợi nhuận đến hoạt động kinh doanh thương mại: hội

18


từ thiện, các tổ chức, đảng phái chính trị, các doanh nghiệp, khu vực vui chơi giải trí,
y tế…
Doanh nghiệp cần phải tiếp cận vấn đề thương hiệu với một chiến lược tổng
thể. Đó là việc phải nhận thức đúng và đầy đủ về thương hiệu trong toàn bộ doanh
nghiệp. Xây dựng thương hiệu trên cơ sở nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng, đăng lý bảo
hộ nhãn hiệu sản phẩm trên thị trường trong và ngoài nước, phát triển hệ thống kênh
phân phối, quản lý thương hiệu để đảm bảo uy tín và hình ảnh của thương hiệu không
ngừng được nâng cao khi xây dựng thương hiệu, công ty cần lồng vào đó một triết lý
vừa phản ánh được tiêu chí, đặc trưng của doanh nghiệp, vừa mang đậm tính nhân
văn để tạo niềm tin với khách hàng về giá trị thương hiệu. Doanh nghiệp cần tạo ra
mối liên kết thương hiệu bền vững trong tâm trí khách hàng thông qua các chiến dịch
quảng cáo dài hạn cũng như các hoạt động tiếp thị sáng tạo và mới lạ.
Một thương hiệu phải được đầu tư hợp lý, mà cơ bản phải từ chất lượng sản
phẩm. Chất lượng sản phẩm là viên gạch đầu tiên xây nền tảng vững chắc cho biểu
tượng của thương hiệu, từ đó mới có thể quảng bá tính năng, đặc tính, phong cách và
dịch vụ hậu mãi. Trên cơ sở bảo đảm chất lượng sản phẩm, thương hiệu sẽ trở thành
lời hứa đáp ứng mong đợi của khách hàng. Chỉ khi cạnh tranh bằng chất lượng sản
phẩm, tạo dựng từ những đặc tính ưu việt có thật, thương hiệu mới giữ vững và tăng

thêm sức sống. Một trong những việc làm thể iện cam kết đối với chất lượng của
doanh nghiệp hiện nay là việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn như ISO 9000. Đây là phương thức hữu hiệu giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu
lực của bộ máy quản lý, bảo đảm tính ổn định và thống nhất của sản phẩm, dịch vụ…
Chất lượng sản phẩm còn là yếu tố quyết định làm nền tảng cho mọi hoạt động
quảng bá và phát triển thương hiệu. Thương hiệu có uy tín thu hút nhiều khách hàng
là sự khẳng định chất lượng sản phẩm và những dịch vụ tiện ích thiết thực cho người
tiêu dùng. Để phát triển thương hiệu còn đòi hỏi tính chủ động, sáng tạo, sự đoàn kết
trong đơn vị và không ngừng vươn lên để nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng thị
trường, tự dựng hình ảnh thân thiện với khách hàng. Tự dựng thương hiệu từ nền tảng
chất lượng sản phẩm vẫn là một thách thức đối với nhiều doanh nghiệp của nước ta.
Có thương hiệu rồi nhưng giữ vững và phát triển thương hiệu còn khó gấp nhiều lần.
Với doanh nghiệp sẽ không còn con đường nào khác, bởi đó là yêu cầu tất yếu của
môi trường kinh doanh đầy sức ép hiện nay.
Giải pháp về mặt sở hữu trí tuệ:
Ngày nay, quyền sở hữu trí tuệ là tài sản có giá trị lớn trong doanh nghiệp, và
đã được đánh giá là một công cụ cạnh tranh hiệu quả. Những năm gần đây, các doanh
nghiệp Việt Nam đã dần nhận thứcdc vai trò quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ, đặc
biệt là vấn đề xây dựng và quảng bá thương hiệu như một công cụ cạnh tranh trong

19


quá trình hội nhập. Doanh nghiệp ngày càng nhận ra một nhu cầu cần thiết là phải có
thương hiệu mạnh để củng có vị trí và sức mạnh cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh
đó bối cảnh hội nhập và những tranh chấp đã xảy ra liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ
càng làm tăng tính nghiêm ngặt của vấn đề xây dựng, bảo hộ và phát triển quyền sở
hữu trí tuệ. Đăng lý bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ là một trong những biện pháp
quan trọng nhằm xác lập quyền sở hữu cho doanh nghiệp, ngăn ngừa mọi hành vi
chiếm đoạt, đánh cắp đồng thờin là cơ sở pháp lý duy nhất để chống lại các hành vi

xâm phạm. Tuy nhiên, nếu chỉ quan tâm tới việc đăng ký mà chưa ý thức tới một
chiến lược đầu tư có bài bản, thể hiện sự chuyên nghiệp và quản lý có hệ thống đối
với quyền sở hữu trí tuệ của mình, doanh nghiệp sẽ khó thành công trong cuộc cạnh
tranh trong tiến trình hội nhập.
Các biện pháp thường xuyên và lâu dài mà doanh nghiệp cần thực hiện là việc
tra cứu thường xuyên theo chu kỳ các dữ liệu từ cục sở hữu trí tuệ của các doanh
nghiệp thuộc các lĩnh vực trên thị trường.

20



×