Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

QUẢN lý NHÀ nước đối với HOẠT ĐỘNG DỊCH vụ CHỨNG KHOÁN của các CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.54 KB, 84 trang )

1

MỞ ĐẦU

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài luận văn ở
trong nước và ngoài nước
Quá trình toàn cầu hoá, trước hết là toàn cầu hoá về kinh tế đã ảnh
hưởng mạnh mẽ với sự quốc tế hoá của TTCK. Ngày nay, TTCK không chỉ
tồn tại ở các nước công nghiệp phát triển lâu đời mà nó còn có vị thế to lớn ở
nhiều nước đang phát triển và mới phát triển, trở thành biện pháp quan trọng
để lưu thông vốn.
Ở Việt Nam, từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế xã hội chủ nghĩa đã đặt ra yêu cầu phải hình thành và phát
triển từng bước TTCK và quan điểm này đã được thể hiện trong các văn kiện
chính thức của Đảng và Nhà nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra yêu cầu chuẩn bị các điều kiện cần thiết để
từng bước xây dựng TTCK phù hợp với điều kiện và định hướng phát triển
kinh tế-xã hội của đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này,
Chính phủ đã tiến hành hàng loạt các bước chuẩn bị để thành lập và đưa vào
vận hành TTCK. Với việc chủ động xây dựng khung pháp lý, xây dựng mô
hình TTCK, tạo dựng bộ máy QLNN chuyên ngành, thành lập các cơ quan tổ
chức thị trường và chuẩn bị các điều kiện cần thiết khác mà bước đi đầu tiên là
thành lập TTGDCK Tp.HCM, tháng 7/2000, TTCK nước ta chính thức ra đời
và đi vào hoạt động, mở ra kênh huy động vốn trung và dài hạn mới cho nền
kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sự
góp mặt của TTCK ở Việt Nam còn là một sự bổ xung hoàn chỉnh cho một
cấu trúc thị trường tài chính theo hướng phát triển nền tài chính phù hợp với
chính sách xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
và thêm một lần nữa khẳng định đường lối nhất quán của Đảng phù hợp với
xu hướng quốc tế hoá và đưa nền kinh tế hội nhập khu vực và quốc tế.



2

1.2. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài
TTCK Việt Nam không hình thành một cách tự phát mà xuất phát từ
chủ trương của Đảng và Nhà nước. Nhà nước đóng vai trò là người xây dựng
và tạo lập thị trường. Bởi vậy Nhà nước cũng là chủ thể quản lý mọi hoạt động
của TTCK theo yêu cầu của các quy luật kinh tế, đảm bảo tính công khai,
minh bạch của thị trường. Đó là yêu cầu mang tính khách quan, xuất phát từ
chức năng nhiệm vụ QLNN.
Với mục đích đi sâu tìm hiểu những vấn đề về QLNN đối với hoạt
động dịch vụ chứng khoán của các Công ty chứng khoán Việt Nam, em đã
chọn đề tài luận văn là: “Quản lý Nhà nước đối với Hoạt động dịch vụ chứng
khoán của các Công ty chứng khoán Việt Nam”
1.3. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hoá và làm rõ một số một số nội dung cơ bản về Dịch vụ
chứng khoán ở các công ty chứng khoán, và quản lý Nhà nước đối với các
hoạt động Dịch vụ chứng khoán của các công ty chứng khoán.
- Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động quản lý Nhà nước đối với các
hoạt động Dịch vụ chứng khoán của các công ty chứng khoán Việt Nam trong
thời gian qua, từ đó chỉ ra các kết quả đạt được và hạn chế.
-Đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với các hoạt động
Dịch vụ chứng khoán của các công ty chứng khoán Việt Nam.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận cơ bản về thị trường
chứng khoán, nghiên cứu thống kê, phân tích số liệu, nắm bắt thông tin từ các
phương tiện thông tin đại chúng nhằm tìm ra những thành công và những thất
bại của Nhà Nước đối với các hoạt động Dịch vụ chứng khoán của các công ty
chứng khoán Việt Nam.



3

1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của Nhà nước trong quản lý đối với các
hoạt động Dịch vụ chứng khoán của các công ty chứng khoán Việt Nam. Vai
trò này được biều hiện qua các hoạt động cụ thể của Nhà nước trong quản lý
các hoạt động Dịch vụ chứng khoán của các công ty chứng khoán Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Về cơ sở lý thuyết, tập trung nghiên cứu nội
dung cơ bản của Công ty chứng khoán và các hoạt động dịch vụ của các Công
ty chứng khoán và QLNN đối với hoạt động dịch vụ của các Công ty chứng
khoán. Về phân tích đánh giá thực tiễn thì luận văn đã tập trung nghiên cứu
thực trạng QLNN đối với hoạt động dịch vụ chứng khoán của các Công ty
chứng khoán Việt Nam. Đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu và đề xuất một
số giải pháp để hoàn thiện công tác QLNN đối với hoạt động dịch vụ chứng
khoán của các Công ty chứng khoán Việt Nam.
1.6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Trong thời gian qua, việc giám sát đánh giá các công ty chứng khoán
của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã được thực hiện nhưng còn mang nặng
tính thủ công, không thống nhất, chỉ dừng lại ở mức đánh giá chỉ tiêu mang
tính định lượng và chủ yếu dựa trên cơ sở các báo cáo tài chính của các công
ty. Với điều kiện và tình hình thị trường cho thấy việc áp dụng các phương
pháp đánh giá chủ yếu có tính chất định lượng là không đáp ứng đầy đủ yêu
cầu về quản lý cũng như đòi hỏi cấp bách về tình hình tài chính lành mạnh của
các tổ chức trung gian trên thị trường. Chính vì vậy, việc thực hiện đề tài này
có tính thực tiễn cao.
1.7. Kết cấu của Luận văn
Chương I: Tổng quan nghiên cứu về Quản lý Nhà nước đối với hoạt
động dịch vụ chứng khoán của các Công ty Chứng khoán.



4

Chương II: Một số vấn đề lý luận về Hoạt động dịch vụ chứng khoán
của các Công ty Chứng khoán và Quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ
chứng khoán của các Công ty Chứng khoán.
Chương III:Thực trạng quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ
chứng khoán của các Công ty Chứng khoán Việt Nam
Chương IV: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý Nhà
Nước đối với hoạt động dịch vụ chứng khoán của các Công ty Chứng khoán
Việt Nam


5

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ
CHỨNG KHOÁN CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ
CHỨNG KHOÁN CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN

1.1. Công ty Chứng khoán và các hoạt động dịch vụ chứng khoán của các
Công ty chứng khoán
1.1.1. Khái niệm Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lĩnh vực
chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính
là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng
khoán và tự doanh.
Theo Quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ban hành ngày 24/04/2007 của
Bộ trưởng Bộ Tài chính thì Công ty chứng khoán là Tổ chức có tư cách pháp

nhân, hoạt động kinh doanh chứng khoán, bao gồm một, một số hoặc toàn bộ
các hoạt động: Môi giới chứng khoán, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn
đầu tư chứng khoán...
Đặc điểm của Công ty chứng khoán:
Đặc điểm về vốn: Công ty chứng khoán muốn thành lập phải đáp ứng
yêu cầu về mức vốn pháp định mà luật pháp quy định. Mức vốn pháp định đối
với từng loại hình kinh doanh được quy định lần lượt như sau: Môi giới chứng
khoán; Tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư
chứng khoán, bảo quản chứng khoán, cho vay chứng khoán mức vốn pháp
định là 3 tỷ đồng; Tự doanh chứng khoán là 12 tỷ đồng; Bảo lãnh và phát hành
chứng khoán là 22 tỷ đồng.


6

Đặc điểm về nhân sự và đội ngũ lãnh đạo: Đây là lĩnh vực hoạt động có
nghiệp vụ phức tạp, có độ rủi ro cao, mức độ ảnh hưởng tới đời sống kinh tế
xã hội lớn nên đòi hỏi nhân viên và lãnh đạo CTCK phải là người có trình độ
nhất định, có tư cách đạo đức nghề nghiệp và có chứng chỉ hành nghề do cơ
quan thẩm quyền cấp, bên cạnh đó đối với đội ngũ lãnh đạo đòi hỏi phải có
trình độ quản lý, không vi phạm pháp luật, có giấy phép đại diện do cơ quan
có thẩm quyền cấp.
Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật: Công ty chứng khoán phải đáp
ứng yêu cầu về trụ sở phù hợp cho việc kinh doanh chứng khoán (sàn giao
dịch, hệ thống trang thiết bị...)
Đặc điểm về xung đột lợi ích giữa quyền lợi của khách hàng và Công ty
chứng khoán: Bên cạnh việc cung ứng dịch vụ tốt nhất cho khách hàng thì
giữa Công ty chứng khoán và khách hàng đôi khi xảy ra mâu thuẫn về lợi ích,
đặc điểm này tạo ra sự khác biệt trong hoạt động của Công ty chứng khoán
trên TTCK so với các loại hình kinh doanh trong các lĩnh vực khác. Ví dụ:

Hoạt động tự doanh hiện nay được xem là một trong những hoạt động quan
trọng nhất của các công ty chứng khoán tại Việt Nam trong việc nâng cao lợi
nhuân. Tuy nhiên, do nghiệp vụ tự doanh và môi giới dễ nảy sinh xung đột lợi
ích nên nhà nước thường quy định các công ty chứng khoán phải tổ chức thực
hiện 2 nghiệp vụ ở 2 bộ phận riêng biệt nếu công ty chứng khoán đó được thực
hiện cả 2 nghiệp vụ.
1.1.2. Mô hình hoạt động của Công ty chứng khoán:
Trên thế giới hiện nay có 2 loại mô hình hoạt động của công ty chứng
khoán:
- Công ty chuyên doanh chứng khoán:
Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công
ty độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận; các ngân
hàng không được trực tiếp tham gia kinh doanh chứng khoán.


7

Ưu điểm của mô hình này:
- Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng.
- Tạo điều kiện cho TTCK phát triển do tính chuyên môn hóa cao hơn.
Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật, Canada…
- Công ty đa năng kinh doanh tiền tệ và chứng khoán:
Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là
chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ.
Mô hình này có ưu điểm là ngân hàng có thể đa dạng hóa, kết hợp nhiều lĩnh
vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung, khả
năng chịu đựng các biến động của TTCK là cao. Mặt khác, ngân hàng tận
dụng được thế mạnh về vốn để kinh doanh chứng khoán; khách hàng có thể sử
dụng được nhiều dịch vụ đa dạng và lâu năm của ngân hàng.
Tuy nhiên, mô hình này bộc lộ một số hạn chế như không phát triển

được thị trường cổ phiếu do các ngân hàng có xu hướng bảo thủ, thích hoạt
động tín dụng truyền thống hơn là bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Mặt
khác, theo mô hình này, nếu có biến động trên TTCK sẽ ảnh hưởng mạnh đến
hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, dễ dẫn đến các cuộc khủng hoảng
tài chính.
Do những hạn chế trên mà trước đây Mỹ và nhiều nước khác đã áp
dụng mô hình này, nhưng sau cuộc khủng hoảng năm 1933, đa số các nước đã
chuyển sang mô hình chuyên doanh chứng khoán, chỉ có Đức vẫn duy trì đến
ngày nay.
Tại Việt Nam, do quy mô các ngân hàng thương mại nói chung là rất
nhỏ bé, và đặc biệt vốn dài hạn rất thấp, hoạt động của các ngân hàng thương
mại Việt Nam chủ yếu trong lĩnh vực tín dụng thương mại ngắn hạn, trong
hoạt động của TTCK thuộc lĩnh vực vốn dài hạn. Khả năng khắc phục những
điểm yếu này của ngân hàng Việt Nam còn rất lâu dài. Do đó, để bảo vệ an


8

toàn cho các ngân hàng, Nghị định 144/CP về chứng khoán và TTCK quy
định các Ngân hàng thương mại muốn kinh doanh chứng khoán phải tách ra
một phần vốn tự có của mình thành lập một Công ty chứng khoán chuyên
doanh trực thuộc, hạch toán độc lập với ngân hàng.
1.1.3. Khái niệm dịch vụ chứng khoán
Dịch vụ chứng khoán là việc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lợi. Vì vậy, dịch vụ chứng khoán là hoạt động do các tổ chức
kinh doanh chứng khoán cung cấp cho khách hàng như: Môi giới chứng
khoán, bảo lãnh phát hành, quản lý tài sản, tư vấn tài chính... nhằm mục đích
sinh lợi.
1.1.4. Các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán:
1.1.4.1. Môi giới chứng khoán:

- Khái niệm môi giới: Là hoạt động nghiệp vụ mang tính chuyên nghiệp
cao, yêu cầu người môi giới phải có kỹ năng, có chuyên môn, có trình độ
nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp, đồng thời yêu cầu phải có môi trường hỗ
trợ khá đa dạng , bao gồm bộ máy tổ chức, môi trường pháp luật, văn hóa, xã
hội...cùng với trang thiết bị cần thiết.
Như vậy: nghề môi giới chứng khoán là công việc chuyên môn của các
cá nhân và tổ chức theo sự phân công lao động xã hội, đó là làm trung gian
giúp cho việc mua, bán chứng khoán được thực hiện, kết nối nhu cầu của bên
mua với nhu cầu của bên bán chứng khoán.
- Chức năng của hoạt động môi giới chứng khoán: Có hai chức năng
chính là Cung cấp thông tin, tư vấn cho khách hàng và Cung cấp sản phẩm và
dịch vụ tài chính giúp khách hàng thực hiện các giao dịch theo yêu cầu và lợi
ích của khách hàng.
- Vai trò của hoạt động môi giới: Vai trò trung gian, kênh huy động vốn
hiệu quả cho đầu tư và phát triển kinh tế; Giảm chi phí giao dịch; Tư vấn đầu


9

tư chứng khoán; Tạo ra sản phẩm mới, phát triển sản phẩm và dịch vụ; Cải
thiện môi trường kinh doanh.
1.1.4.2. Tư vấn đầu tư chứng khoán:
- Khái niệm: Là việc thu thập, xử lý thông tin, đưa ra lời khuyên, phân
tích tình huống hoặc thực hiện một số công việc có tính chất cung cấp dịch vụ
cho khách hàng. Cũng có thể hiểu hoạt động này là hoạt động phân tích, đưa
ra khuyến nghị liên quan đến mua bán, nắm giữ chứng khoán hoặc công bố và
phát hành các ấn phẩm có liên quan đến chứng khoán.
- Những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn đầu tư:
Nguyên tắc trung thực và công bằng; Nguyên tắc bảo mật thông tin cho
khách hàng; Nguyên tắc tư vấn khách quan; Nguyên tắc đầy đủ và chi tiết;

Nguyên tắc tư vấn theo khả năng của khách hàng; Nguyên tắc thông tin hỗ trợ.
- Vai trò của hoạt động tư vấn: Cung cấp thông tin đầy đủ và chi tiết
cho nhà đầu tư về thu nhập, rủi ro của các loại chứng khoán, về các cơ hội đầu
tư, xu hướng đầu tư và phát triển của TTCK, cung cấp thông tin, phân tích báo
cáo tài chính của tổ chức phát hành; Cung cấp thông tin về các quy định pháp
luật liên quan đến nhà đầu tư trên TTCK; Nâng cao uy tín của mình trên thị
trường, tận dụng được mối quan hệ tốt với khách hàng đến tư vấn; Tạo lợi
nhuận cho công ty chứng khoán và bản thân tư vấn viên.
1.1.4.3. Quản lý danh mục đầu tư:
Công ty chứng khoán: Nhận vốn và ủy quyền của khách hàng; Đầu tư
vốn của khách hàng vào chứng khoán (mua/bán) nhằm mục đích vốn của
khách hàng đạt được mức sinh lời tối ưu nhất.
Khách hàng: Không trực tiếp thực hiện đầu tư mà ủy quyền cho công ty
chứng khoán đầu tư thay mình. Mục đích: có tiền tích lũy; Mong muốn tiền
của mình sinh lời trên mức thông thường; chấp nhận đôi chút mạo hiểm;
không có đủ điều kiện chuyên môn cần thiết để tự đầu tư hiệu quả.


10

- Tư vấn tài chính: Tư vấn cổ phần hóa, tư vấn phát hành, tư vấn niêm
yết, tư vấn sát nhập, mua bán doanh nghiệp...
- Bảo lãnh phát hành:
+ Khái niệm: Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh
giúp tổ chức phát hành thực hiện thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ
chức việc phân phối chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng
khoán còn lại chưa phân phối hết và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai
đoạn đầu sau khi phát hành.
+ Vai trò của bảo lãnh phát hành: Qua hoạt động tư vấn tài chính, tổ
chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành xem xét lại công tác quản lý tài chính,

phát hiện ra các mặt tích cực cũng như các yếu kém, từ đó tư vấn cho tổ chức
phát hành các biện pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn huy động được từ đợt phát hành; Mang lại nguồn thu nhập
khá tốt cho các tổ chức bảo lãnh phát hành, đặc biệt vào những giai đoạn nền
kinh tế đang cần vốn...
- Lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán:
Hệ thống lưu ký chứng khoán là một trong các thành tố cốt yếu trong
cấu trúc hạ tầng của thị trường chứng khoán, đóng vai trò quản lý, lưu giữ và
xử lý thông tin về sở hữu chứng khoán của người đầu tư thông qua hệ thống
các sổ sách theo dõi và quản lý thông tin dưới dạng tài khoản chứng khoán ghi
sổ, đồng thời còn thực hiện chức năng liên quan đến thanh toán giao dịch, thực
hiện quyền cho người sở hữu như quyền nhận cổ tức, lãi trái phiếu, phát hành
thêm...
+ Vai trò của hệ thống lưu ký chứng khoán:
Các hoạt động nghiệp vụ phát sinh trong hệ thống lưu ký như thanh
toán giao dịch, ghi nhận quyền sở hữu của người đầu tư... đều hướng đến mục
tiêu cuối cùng là tạo sự tiện dụng tối đa, nhưng cũng an toàn để tránh gây ra


11

các rủi ro cho người đầu tư; Hệ thống lưu ký là tiền đề cho việc thiết lập các
hình thức tổ chức thị trường giao dịch quy mô lớn, thông qua hệ thống chứng
khoán sẽ được lưu ký tập trung, và thông tin sở hữu chứng khoán sẽ được
Trung tâm lưu ký quản lý dưới hình thức ghi sổ tài khoản, thay vì các nhà đầu
tư tự mình nắm giữ chứng chỉ chứng khoán một cách phân tán...
- Hoạt động phụ trợ của các công ty chứng khoán: Tư vấn tái cơ cấu tài
chính; Tư vấn mua bán, sát nhập doanh nghiệp; Nghiệp vụ tín dụng; Nghiệp
vụ mua ký quỹ...
1.1.5. Vai trò của Dịch vụ Chứng khoán:

- Giảm chi phí giao dịch:
Trên thị trường của những hàng hóa thông thường, để tiến hành giao dịch,
người mua và người bán phải gặp gỡ nhau, thỏa thuận giá cả, kiểm tra chất
lượng hàng hóa ... Tuy nhiên, trên TTCK, do hàng hóa là những sản phẩm
tài chính bậc cao, vì vậy không dễ gì mà khách hàng có thể tiếp cận mua
bán cũng như kiểm tra chất lượng; nếu có thì chi phí để thu thập, xử lý các
thông tin liên quan đến các loại CK và tiến hành giao dịch là rất lớn. Để
tạo thuận lợi cho khách hàng, CTCK sẽ đứng ra làm các công việc đó, bởi
vì chỉ có CTCK hoạt động chuyên nghiệp mới có thể trang trải được khoản
chi phí khổng lồ ấy. Như vậy, vai trò của các hoạt động dịch vụ chứng
khoán là tiết kiệm chi phí cho từng giao dịch cụ thể cũng như hoạt động
tổng thể của toàn thị trường, nhờ đó giúp nâng cao tính thanh khoản cho
các loại chứng khoán nói riêng và cho TTCK nói chung.
-

Phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường:
Công ty chứng khoán và các nhân viên hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ
chứng khoán ở các Công ty chứng khoán đóng vai trò làm cấu nối giữa
người các nhà đầu tư với nhau và với tổ chức phát hành, nắm bắt được nhu
cầu của khách hàng. Nhờ đó, sản phẩm dịch vụ cũng cấp cho nhà đầu tư


12

ngày càng đa dạng, khách hàng ngày càng nhiều, dẫn đến khả năng thu hút
được khối lượng lớn vốn nhàn rỗi trong xã hội phục vụ tăng trưởng kinh tế.
- Cải thiện môi trường kinh doanh:
Vai trò cải thiện môi trường kinh doanh của hoạt động dịch vụ chứng
khoán được thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau đây:
Thông qua các hoạt động dịch vụ chứng khoán sẽ góp phần hình thành nền

văn hóa đầu tư
Các hoạt động dịch vụ chứng khoán của các Công ty chứng khoán khi xâm
nhập sâu rộng vào cộng đồng các doanh nghiệp và nhà đầu tư thì sẽ là một
yếu tố quan trọng tạo ra thói quen và ý thức đầu tư cho họ. Trong nền kinh
tế quốc dân, lượng vốn nhàn rỗi tồn tại trong đại bộ phận dân chúng là rất
lớn, trong khi đó nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh cũng như phát triển
kinh tế ngày một tăng. Công ty chứng khoán đem những sản phẩm tài
chính giới thiệu cho những khách hàng tiềm năng, giải thích cho họ cách
sử dụng cũng như những lợi ích mà chúng có thể đem lại. Như vậy, lâu dần
các hoạt động dịch vụ chứng khoán sẽ hình thành nên thói quen đầu tư vào
tài sản tài chính thay vì sử dụng tiền dư thừa một cách lãng phí. Tham gia
vào hoạt động đầu tư tài chính, dần dần họ sẽ tích lũy được những kinh
nghiệm cần thiết, biết chấp nhận rủi ro để mong tìm kiếm những khoản lợi
nhuận lớn cho mình. Mặt khác, niềm tin của nhà đầu tư vào các công ty
CK cũng được nâng lên, họ có thể sẵn sàng ủy thác cho công ty chứng
khoán thực hiện các dịch vụ, trao đổi mua bán… mà họ có nhu cầu.
- Tăng chất lượng và hiệu quả của dịch vụ nhờ cạnh tranh:
Một công ty chứng khoán muốn hoạt động hiệu quả thì cần thiết phải thu
hút được nhiều khách hàng đến với mình. Trong đó các hoạt động dịch vụ
chứng khoán nắm vai trò chủ đạo. Các nhân viên hoạt động trong lĩnh vực
dịch vụ bằng các mối quan hệ, bằng chất lượng dịch vụ của mình thu hút được
càng nhiều khách hàng đến với công ty mình càng tốt. Muốn vậy, các nhân


13

viên môi giới phải luôn luôn trau dồi và nâng cao kiến thức nghiệp vụ, tạo
điều kiện giúp đỡ các nhà đầu tư, bên cạnh đó công ty cũng phải không ngừng
cải tiến các dịch vụ để giữ chân khách hàng. Nếu không làm được như vậy thì
khách hàng sẽ tìm đến các công ty khác có chất lượng phục vụ tốt hơn, dẫn

đến doanh thu từ các dịch vụ chứng khoán giảm, hiệu quả hoạt động của toàn
công ty cũng bị giảm sút.
1.2. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của các
Công ty Chứng khoán.
1.2.1. Khái niệm về Quản lý Nhà nước đối với hoạt động Dịch vụ Chứng
khoán của các Công ty Chứng khoán.
Khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu quản lý cũng hình thành.
Trình độ quản lý phát triển theo sự phát triển của xã hội qua các phương thức
sản xuất khác nhau. Ngày nay, trong ba yếu tố cơ bản quyết định tới sự phát
triển của xã hội là sức lao động, tri thức và trình độ quản lý thì quản lý được
coi là yếu tố quan trọng hàng đầu.
“Quản lý là sự tác động liên tục, có định hướng, có tổ chức của chủ thể
quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng bị quản lý)
trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội … thông qua hệ thống pháp
luật, các chính sách, các nguyên tắc, các quy định và bằng các biện pháp cụ
thể nhằm tạo ra mội trường và tạo điều kiện cho sự phát triển của đối tượng
bị quản lý”.
Quy mô của quản lý có thể khác nhau: toàn cầu, khu vực, quốc gia,
ngành, đơn vị… Quy mô khác nhau thì tính chất của quản lý cũng khác nhau.
Quản lý ở phạm vi quốc gia được coi là quản lý Nhà nước, quản lý ở một đơn
vị kinh doanh được coi là quản lý kinh doanh (quản trị kinh doanh)…
Dịch vụ Chứng khoán là một lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế một
quốc gia. Vì vậy:


14

“Quản lý Nhà nước đối với hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của các
Công ty Chứng khoán là sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với các hoạt động
xây dựng, vận hành và phát triển các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của

các Công ty Chứng khoán”.
1.2.2. Mục tiêu Quản lý Nhà nước đối với hoạt động Dịch vụ Chứng khoán
của các Công ty Chứng khoán.
+ Đảm bảo sự trung thực
Đặc tính của khu vực chứng khoán là rủi ro hệ thống, một biến cố nhỏ
cũng gây ra sự bất ổn cho nền kinh tế. Vì vậy, trong quản lý nhà nước, việc
bảo đảm tính trung thực, cạnh tranh lành mạnh của hoạt động dịch vụ chứng
khoán nói riêng và Thị trường Chứng khoán nói chung là mục tiêu quan trọng.
Một số hoạt động cần thiết nhằm giảm tối thiểu rủi ro hệ thống và khuyến
khích tham gia thị trường như:
- Các biện pháp an toàn để đảm bảo khả năng thanh toán của một định
chế tài chính, từ đó duy trì lòng tin vào hệ thống tài chính nói chung và bảo vệ
những tiết kiệm cá nhân.
- Khuyến khích các hệ thống thanh toán hiệu quả và ổn định, có thể
giảm việc tích tụ rủi ro cùng loại, tăng cường khả năng quản lý rủi ro của các
định chế tài chính riêng lẻ và ngăn chặn các ảnh hưởng dây chuyền cũng như
các vụ khủng hoảng tài chính.
- Ngăn chặn các hành vi lừa đảo, lũng đoạn, giao dịch nôi gián và các
vi phạm khác của các Công ty chứng khoán.
+ Đảm bảo sự công bằng
Sự công bằng là một phương tiện để bảo vệ sự cạnh tranh và đảm bảo
tính trung thực, lành mạnh của các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán. Muốn
hoạt động quản lý có hiệu quả cần phải có biện pháp đảm bảo tính công bằng
của các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán


15

Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhỏ và kém tinh thông nghiệp vụ đầu
tư vào các loại tài sản chính hợp lý với họ và bảo vệ họ khỏi các vi phạm của

các công ty chứng khoán.
+ Đảm bảo hiệu quả
Một hệ thống dịch vụ chứng khoán mà quản lý được xem là có hiệu quả
cần phải được xem xét cả về khía cạnh tiết kiệm chi phí và lợi ích thu được.
Tính hiệu quả tỷ lệ thuận với kết quả và tỷ lệ nghịch với chi phí. Kết quả được
đánh giá chủ yếu thông qua việc thực hiện chức năng huy động vốn dễ, rẻ,
luân chuyển vốn, phân bổ và sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý, thu được lợi
từ các dịch vụ chứng khoán mang lại…
1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với các hoạt động Dịch vụ
Chứng khoán của các Công ty Chứng khoán
+ Chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán
của các Công ty Chứng khoán.
Quản lý là một hình thức đặc biệt của hoạt động điều hành, là sản phẩm
của tiến trình phân công lao động và chuyên môn hoá việc quản lý. Ở hầu hết
các nước đang phát triển, các chủ thể quản lý các hoạt động Dịch vụ Chứng
khoán có hai chức năng chính: Duy trì sự ổn định của các hoạt động Dịch vụ
Chứng khoán; tạo điều kiện để phát triển các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán,
làm cho các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán có thể cạnh tranh và thích ứng
với những thay đổi của thị trường.
Với chức năng ổn định các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán, tức là phải
tạo lập một thị trường có kỷ luật, an toàn, trật tự, bảo vệ lợi ích giữa các bên,
đảm bảo phát triển bền vững đóng góp cho nền kinh tế thì các nhà quản lý
phải xác định được nên cho phép đối tượng nào tham gia vào các hoạt động
Dịch vụ Chứng khoán, tiêu chuẩn tham gia gồm những yếu tố gì, xác định
phải quản lý cái gì và giám sát cái gì. Với chức năng phát triển thì các nhà
quản lý phải tạo động lực thúc đẩy và tạo điều kiện tối đa cho các hoạt động


16


Dịch vụ Chứng khoán ở các Công ty chứng khoán. Các chức năng này được
sử dụng vào hoàn cảnh khác nhau, tuy nhiên trong hoạt động quản lý Nhà
nước thì các chức năng này thường được áp dụng một cách đồng bộ.
+ Nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán
của các Công ty Chứng khoán.
Quản lý nhà nước đối với các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của các
Công ty Chứng khoán được cụ thể hoá ở một số nhiệm vụ sau:
Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về các hoạt động Dịch vụ
Chứng khoán của các Công ty Chứng khoán; Xây dựng chiến lược, chính
sách, kế hoạch hoạt động và phát triển các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán
của các Công ty Chứng khoán với từng bước đi cụ thế và thích hợp với điều
kiện văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội, dân trí và các điều kiện khác.
Cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi các loại giấy phép liên quan đến việc
hoạt động dịch vụ chứng khoán và thu lệ phí cấp giấy phép theo quy định của
pháp luật.
Tổ chức và quản lý thị trường Giao dịch Chứng khoán có tổ chức và
quản lý các tổ chức trung gian, tổ chức phụ trợ trong hoạt động Dịch vụ
Chứng khoán.
Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy của TTCK như: Cơ quan quản lý
Nhà nước, Sở Giao dịch Chứng khoán, thị trường Giao dịch Chứng khoán, thị
trường lưu ký Chứng khoán, Công ty Chứng khoán, Công ty quản lý quỹ…
Tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức, các cá nhân là thành viên
tham gia các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán để tạo được sự thống nhất trong
mọi hoạt động của TTCK.
Điều chỉnh, xử lý các hành vi sai phạm trong hoạt động Dịch vụ Chứng
khoán như mua bán gian lận, đầu cơ,… tạo công bằng và bảo vệ lợi ích cho


17


nhà đầu tư. Mặt khác, tạo các điều kiện thuận lợi, khuyến khích những hoạt
động tích cực trên thị trường.
Thực hiện công tác kiểm tra định kỳ, bất thường nhằm phát hiện các
hành vi vi phạm pháp luật, thực hiện tổng kết thống kê nhằm tổng hợp các
hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của các Công ty Chứng khoán.
1.2.4. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý Nhà nước đối với hoạt động Dịch
vụ Chứng khoán của các Công ty Chứng khoán.
+ Nguyên tắc thống nhất quản lý về chính trị và kinh tế
Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong quản lý Nhà nước đối với các
hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của các Công ty Chứng khoán. Các hoạt
động Dịch vụ Chứng khoán của các Công ty Chứng khoán không chỉ mang lại
lợi ích mang tính kinh tế cho cả Công ty chứng khoán và thị trường chứng
khoán mà còn có cả các yếu tố chính trị trong đó. Chính vì thế, trong quản lý
các hoạt động này, sự kết hợp giữa kinh tế và chính trị là một yêu cầu bắt
buộc.
+ Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là tập trung điều hành vào một cơ quan quyền lực cao
nhất. Đây là cơ quan vạch ra đường lối, điều lệ, quy chế, phương hướng, đường
lối, mục tiêu tổng quát và đề ra các biện pháp cơ bản, chủ yếu để thực hiện.
Tính dân chủ trong quản lý thể hiện ở chỗ mọi người có thể tham gia bàn bạc,
đóng góp ý kiến để tìm ra các biện pháp khả thi nhất cho quá trình thực hiện.
Nếu sự tập trung quyền hạn bị lạm dụng trong quản lý các hoạt động
Dịch vụ Chứng khoán của các Công ty Chứng khoán thì sẽ làm hỏng các chức
năng lành mạnh của TTCK. Do đó, người làm công tác quản lý cần có sự điều
chỉnh mức độ dân chủ tuỳ theo sự phát triển của các hoạt động Dịch vụ Chứng
khoán của các Công ty Chứng khoán với sự tập trung quyền lực quản lý nhất
định.


18


+ Nguyên tắc kết hợp giữa các lợi ích kinh tế
Trên thực tế luôn có lợi ích khác nhau giữa chủ thể và khách thể quản
lý, có sự mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội.
Vai trò của công tác quản lý lúc này là phải tìm cách kết hợp, thoả mãn các lợi
ích theo đúng nhu cầu, đảm bảo cho các lợi ích không đối lập nhau, hỗ trợ
thúc đẩy nhau phát triển. Vấn đề này đòi hỏi công tác quản lý phải chú trọng
tới từng loại lợi ích trong từng mặt hoạt động như đầu tư, huy động vốn, phân
chia lợi nhuận, ban hành các quy định…
+ Nguyên tắc hiệu quả
Tiết kiệm là hạn chế chi phí đến mức tối thiểu mà vẫn đem lại hiệu quả
tối đa. Tiết kiệm là nhằm để giảm thiểu chi phí nhưng chỉ có ý nghĩa khi thực
hiện nó mang tính hiệu quả. Hiệu quả là kết quả cuối cùng của hoạt động được
đo bằng giá trị, vật phẩm, thời gian tác động,…Tiết kiệm và hiệu quả luôn đi
với nhau và nó là thước đo để đánh giá kết quả cuối cùng của quản lý.
Các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của các Công ty Chứng khoán là
mô hình tiêu biểu nhất về tính hiệu quả vì bản thân các hoạt động này đã mang
trong nó tính tiết kiệm chi phí và nhằm tới hiệu quả kinh tế cao nhất vì đây là
môi trường thuận lợi nhất cho các nguồn vốn từ các nhà đầu tư. Quá trình đầu
tư thông qua hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của các Công ty Chứng khoán
được thực hiện với chi phí thấp nhưng mang lại hiệu quả cao. Vì vậy, đảm bảo
nguyên tắc này tức là đảm bảo cho các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của
các Công ty Chứng khoán được hoạt động hiệu quả và phát huy những chức
năng vốn có của nó. Nguyên tắc này được coi là tiêu chí áp dụng cho bất kì
chính sách nào bởi mỗi chính sách đem lại lợi ích cũng kèm theo đó là chi phí.
Nếu chi phí lớn hơn lợi ích đem lại thì việc áp dụng các chính sách đó là
không có tác dụng.


19


1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý Nhà nước đối với hoạt
động Dịch vụ Chứng khoán của các Công ty Chứng khoán.
Hoạt động quản lý Nhà nước đối với hoạt động Dịch vụ Chứng
khoán của các Công ty Chứng khoán chịu tác động của nhiều yếu tố khác
nhau, bao gồm:
+ Các nhân tố kinh tế:
Quá trình quản lý Nhà nước đối với các hoạt động Dịch vụ Chứng
khoán của các Công ty Chứng khoán chịu ảnh hưởng chi phối của các yếu tố
kinh tế như: Quy mô kinh tế, trình độ phát triển nền kinh tế... Sự đa dạng về
hình thức tồn tại và tính phức tạp trong hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của
các Công ty Chứng khoán và các thành phần kinh tế tham gia TTCK sẽ đặt ra
yêu cầu đối với công tác quản lý Nhà nước là phải có các chính sách, biện
pháp phù hợp để dung hoà lợi ích của các thành phần này khi khai thác tối đa
thế mạnh của họ.
+ Các nhân tố về chính trị và thể chế Nhà nước:
Thể chế chính trị và đường lối lãnh đạo của Đảng cầm quyền của một
Đất nước chi phối đến mục tiêu, phương hướng xây dựng và phát triển thị
trường Chứng khoán nước đó, trong đó có các hoạt động Dịch vụ Chứng
khoán của các Công ty Chứng khoán. Bên cạnh đó, sự ổn định hay bất ổn về
mặt chính trị sẽ có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến các hoạt động Dịch
vụ Chứng khoán của các Công ty Chứng khoán.
+ Môi trường pháp lý:
Công tác QLNN đối với các hoạt động dịch vụ chứng khoán của các
công ty chứng khoán bị chi phối và phụ thuộc vào năng lực hoạt động của các
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bên cạnh đó, vấn đề này còn phụ
thuộc cả vào tính chặt chẽ, đầy đủ, nhất quán của các quy định pháp luật cũng
như ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia.



20

+ Thực trạng phát triển các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của các Công ty
Chứng khoán.
Trong mỗi hệ thống quản lý, chủ thể quản lý sử dụng các công cụ và
phương thức quản lý tác động lên đối tượng quản lý theo mục tiêu đề ra.
Ngược lại, đối tượng và khách thể của quản lý cũng phản ứng trở lại đối với
chủ thể quản lý. Các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của các Công ty Chứng
khoán là đối tượng quản lý của Nhà nước cho nên thực trạng phát triển của các
hoạt động này có tác động đến việc ban hành và triển khai các chính sách quản
lý phát triển của Nhà nước. Thực trạng hoạt động các Dịch vụ Chứng khoán
của các Công ty Chứng khoán vừa là cơ sở để Nhà nước ban hành các chính
sách, biện pháp khắc phục những tồn tại của các hoạt động Dịch vụ Chứng
khoán, vừa là căn cứ để Nhà nước đề ra các biện pháp thúc đẩy thị trường phát
triển theo định hướng và mục tiêu đề ra.
+ Xu thế hội nhập quốc tế:
Hiện nay thì hội nhập quốc tế đang diễn ra khá mạnh mẽ trên các lĩnh
vực của đời sống kinh tế, xã hội, trong đó có thị trường Chứng khoán. Việc
mở cửa thị trường Chứng khoán hội nhập quốc tế sẽ đem lại những lợi ích
thiết thực cho một quốc gia, song cũng nảy sinh những rủi ro và thách thức
không nhỏ. Điều này tác động đến các chính sách quản lý và phát triển các
Dịch vụ Chứng khoán của các Công ty Chứng khoán. Chính sách quản lý Nhà
nước không chỉ phải giải quyết các vấn đề nảy sinh do có sự xuất hiện của các
yếu tố quốc tế trong các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của các Công ty
Chứng khoán, mà còn phải tìm ra hướng hội nhập sao cho vừa đảm bảo an
toàn, vừa khai thác tốt nhất các lợi ích mà hội nhập mang lại.
+ Các nhân tố khác:
Hoạt động quản lý Nhà nước đối với các Dịch vụ Chứng khoán của các
Công ty Chứng khoán còn chịu tác động bởi các nhân tố khác như: Trình độ
ứng dụng tin học trong quản lý, truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc, trình độ



21

và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ quản lý trong ngành chứng khoán và các
ngành có liên quan, lịch sử phát triển kinh tế và thị trường Chứng khoán …
Trong đó yếu tố lịch sử thường đặt ra các vấn đề về cải cách và hoàn thiện mô
hình và tổ chức quản lý.
1.2.6 Các biện pháp quản lý Nhà nước đối với hoạt động Dịch vụ Chứng
khoán của các Công ty Chứng khoán.
Biện pháp quản lý là tổng thể những cách thức tác động đến cá nhân
hay tập thể nhằm khuyến khích họ thực hiện tốt công việc. Khác với nguyên
tắc quản lý là những yêu cầu bắt buộc phải tuân theo thì biện pháp quản lý là
những cách thức linh hoạt mà người quản lý có thể tuỳ chọn và sử dụng phối
hợp theo ý mình nhằm tạo ra hiệu quả quản lý cao nhất. Do đó biện pháp quản
lý có rất nhiều, hình thức và cách áp dụng cũng khác nhau. Một số biện pháp
quản lý điển hình thường được sử dụng là:
+ Biện pháp tuyên truyền, giáo dục
Các dịch vụ chứng khoán của các Công ty chứng khoán đa dạng, ra đời
nhằm phục vụ chủ yếu cho các nhà đầu tư đồng thời để thu lơi nhuận cho công
ty chứng khoán, thông qua các hoạt động môi giới, tư vấn đầu tư, bảo lãnh
phát hành… công ty chứng khoán làm cầu nối giữa người mua và người bán,
cung cấp cho nhà đầu tư các thông tin cần thiết, khuyến nghị các đầu tư mua
bán cổ phiếu… làm căn cứ cho nhà đầu tư đưa ra quyết định của mình.
Thị trường chứng khoán Việt Nam còn khá non trẻ, các nhà đầu tư thực
sự còn thiếu nhiều hiểu biết trong lĩnh vực đầu tư của mình
Để tạo điều kiện cho các hoạt động dịch vụ chứng khoán của các Công
ty chứng khoán nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung phát triển bền
vững và hiệu quả, Nhà nước cần thiết phải tăng cường phổ biến các kiến thức
về thị trường chứng khoán cho nhà đầu tư, cung cấp cho nhà đầu tư kiến thức

về các dịch vụ chứng khoán để nhà đầu tư lựa chọn cũng như có thể hiểu về
những lợi ích của mình khi lựa chọn các dịch vụ này, trang bị cho họ những kĩ


22

năng để họ có thể đầu tư một cách hiệu quả nhất, tự chịu trách nhiệm về các
quyết định đầu tư của mình, tự phòng chống được các rủi ro khi tham gia trên
thị trường,… Vì thế yếu tố giáo dục, xây dựng tâm lý cho người tham gia thị
trường là cực kì quan trọng.
+ Biện pháp hành chính luật pháp
Biện pháp này có tác động trực tiếp và có vai trò lớn nhất trong các
biện pháp quản lý của Chính phủ đặc biệt là trong lĩnh vực Dịch vụ Chứng
khoán bởi ở những lĩnh vực này mọi hoạt động đang đều ở giai đoạn đang
hoàn thiện và bắt đầu phát triển, hơn thế nữa là ngành dịch vụ phức tạp. Nhà
nước đóng vai trò chính trong việc điều hành và hướng dẫn. Ngoài ra, cho dù
ở bất kỳ hoạt động dịch vụ chứng khoán nào thì hình thức quản lý cơ bản nhất
vẫn là luật pháp. Bởi đây là một lĩnh vực đầy tính phức tạp thì luật pháp rõ
ràng gần như là một điều kiện tiên quyết để có một thị trường hoạt động trong
khuôn khổ và ổn định. Luật pháp về chứng khoán phải được hiểu là cả một hệ
thống gồm Luật Chứng khoán và các Luật khác như Luật Doanh nghiệp, Luật
Đầu tư… Vì vậy, việc xây dựng một hệ thống luật pháp không chỉ đơn thuần
là việc cho ra đời Luật Chứng khoán mà còn bao gồm cả việc điều chỉnh và
hoàn thiện dần các luật liên quan để tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho sự
hình thành và phát triển các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán.
Trên thực tế, rõ ràng không thể có được một hệ thống luật pháp hoàn
thiện lý tưởng ngay từ khi các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của các Công
ty Chứng khoán mới hình thành. Do dó, biện pháp quản lý hành chính là điều
cần thiết để điều chỉnh và xử lý những hành vi có nguy cơ hoặc đã gây thiệt
hại cho thị trường, nhất là những thị trường mới nổi. Điều này còn đúng hơn

với ngành Dịch vụ Chứng khoán đang còn thiếu những chuyên gia giỏi về
kiểm toán, kế toán, hệ thống hành pháp, thiếu những người có hiểu biết về Thị
trường Chứng khoán.


23

+ Biện pháp tổ chức
Tổ chức là định hình các cơ cấu bộ phận tạo thành, xác lập chức năng,
quyền hạn, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của từng bộ phận, đặt các bộ phận
trong quan hệ đối tác phù hợp, trong một tổng thể hoàn chỉnh. Thể chế hoá tổ
chức là quá trình Nhà nước quy định cơ cấu tổ chức, vạch ranh giới cho từng
cấp quản lý bằng các văn bản pháp luật, các văn bản quy định chức năng, nhiệm
vụ, cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, là những cơ quan quản lý
Nhà nước theo lĩnh vực chuyên môn; Quy định cơ cấu tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Doanh nghiệp Nhà nước hoặc cơ cấu tổ chức của các
tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, điều lệ doanh nghiệp, điều lệ công ty…
Trong quản lý, sự tác động của tổ chức có ý nghĩa hiệu quả và thiết
thực. Nó chỉ cho mọi người, mọi cấp biết trước phải hoạt động theo trật tự quy
định trước, nhằm đạt được những chỉ tiêu định trước. Mặt khác, tổ chức có thể
gây cản trở nếu quy định quá chi tiết, cứng nhắc khiến người thừa hành không
phát huy được sáng kiến, mất tính linh hoạt, sáng tạo.
Do đó, bên cạnh công tác tổ chức phải có sự điều khiển trực tiếp, là sự
đôn đốc, chỉ đạo cụ thể nhằm điều chỉnh kịp thời những sai lệch so với mục
tiêu đề ra. Đó là hình thức tác động tích cực và linh hoạt nhất của biện pháp
quản lý. Tổ chức và điều khiển cần được thực hiện phối hợp lẫn nhau trong
quá trình quản lý.
+ Biện pháp kinh tế
Biện pháp quản lý bằng kinh tế là cách thức vận dụng tổng hợp các đòn
bẩy kinh tế để kích thích các cá nhân, tập thể và toàn bộ xã hội thực hiện được

mục tiêu theo định hướng vạch sẵn. Những đòn bẩy này ở phạm vi vĩ mô là
các chính sách kinh tế, các chế tài, các chế độ Thuế, chế độ hạch toán, kế toán,
…Cơ sở lý luận và thực tế của nhiều nước cho thấy chế độ Thuế là một công
cụ tích cực trong quản lý các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán của các Công ty
Chứng khoán. Chế độ thuế phù hợp có thể khuyến khích đầu tư vào chứng


24

khoán, làm tăng cầu chứng khoán, là động lực cho Thị trường Chứng khoán
phát triển. Nhiều quốc gia áp dụng chế độ hạch toán kinh tế độc lập cho các
Sở Giao dịch Chứng khoán, tạo nguồn thu nhập cho các Sở Giao dịch Chứng
khoán, để chính các Sở Giao dịch Chứng khoán này duy trì được vai trò tự
quản và thực hiện được những chương trình khoa học, áp dụng được những
công nghệ cần thiết cho quản lý…
Như vậy, biện pháp kinh tế có tác dụng rất lớn trong lĩnh vực quản lý
Nhà nước đối với các hoạt động Dịch vụ Chứng khoán trên Thị trường Chứng
khoán. Biện pháp này có ưu điểm là không áp dụng những chỉ thị, mệnh lệnh
trực tiếp của chủ thể quản lý nhưng có tác động rất thiết thực và sâu rộng.


25

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
DỊCH VỤ CHỨNG KHOÁN CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM

2.1. Tổng quan về các công ty chứng khoán và hoạt động dịch vụ chứng
khoán của các công ty chứng khoán Việt Nam

2.1.1. Giới thiệu tổng quan về các công ty chứng khoán Việt Nam
Ngày 28/11/1996, Chính phủ ra nghị định thành lập Uỷ Ban Chứng
Khoán Nhà Nước
Ngày 11/7/1998, Thủ tướng Chính Phủ quyết định thành lập 2 trung
tâm giao dịch chứng khoán thuộc UBCKNN
20/7/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. HCM chính thức đi
vào hoạt động với: 4 CTCK
Trong những năm đầu, thị trường chứng khoán Việt Nam còn non nớt,
số nhà đầu tư tham gia thị trường còn ít, không nhiều cá nhân, tổ chức mặn mà
với việc thành lập CTCK. Thị trường chứng khoán phát triển chậm, không có
biến động lớn. Đến 05/05/2001 mới chỉ có 5 công ty niêm yết và 7 công ty
kinh doanh chứng khoán hoạt động tại trung tâm giao dịch chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục phát triển chậm chạp trong các
năm tiếp theo. Số lượng các CTCK sau 3 năm hoạt động chỉ là 12 công ty với
tổng số vốn điều lệ là 465 tỷ đồng, thực hiện tất cả các nghiệp vụ chứng khoán.
Các năm tiếp theo thị trường có nhiều chuyển biến tích cực, bức tranh
chung của Thị trường chứng khoán Việt Nam có sự khởi sắc, quy mô thị trường
được mở rộng, lòng tin của nhà đầu tư đối với thị trường được nâng lên. Đây là
cơ hội lớn cho các công ty chứng khoán tăng số khách hàng của mình.


×