Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Nguyên tắc phát hành tiền và các kênh phát hành tiền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.08 KB, 3 trang )

Nguyên tắc phát hành tiền và các kênh phát hành tiền

Nguyên tắc phát hành tiền và
các kênh phát hành tiền
Bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Ngân hàng nhà nước Việt Nam trực thuộc chính phủ, chính phủ uỷ quyền cho ngân hàng
nhà nước thực hiện quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ ngân hàng. Ngân hàng nhà
nước độc quyền phát hành tiền, nhưng không vì thế mà phát hành một cách tự ý, tuỳ
tiện. Trước khi phát hành tiền ngân hàng nhà nước phải căn cứ vào các nguyên tắc sau:

Nguyên tắc phát hành tiền dựa trên cơ sở trữ kim làm đảm bảo.
Nguyên tắc này quy định khối lượng giấy bạc ngân hàng phát hành vào lưu thông phải
được đảm bảo bằng dự trữ kim loại quý hiện có trong kho dự trữ của ngân hàng. Việc
đảm bảo này phải được duy trì theo một trong các hình thức sau:
- Nhà nước quy định một hạn mức phát hành giấy bạc ngân hàng, khối lượng giấy bạc
ngân hàng phát hành nằm trong hạn mức thì không cần phải có kim loại quý (vàng) làm
đảm bảo, nhưng nếu vượt quá hạn mức đó thì khối lượng vượt quá hạn mức đòi hỏi phải
có 100% vàng làm đảm bảo.
- Nhà nước sẽ quy định mức tối đa lượng giấy bạc trong lưu thông mà không quy định
mức dự trữ vàng đảm bảo cho lượng giấy bạc đó. Nhưng nếu phát hành giấy bạc vượt
quá mức quy định đó thì phải có vàng làm đảm bảo.
- Nhà nước quy định mức dự trữ vang tối thiểu cho khối lượng giấy bạc phát hành, phần
còn lại phải được đảm bảo bằng các chứng từ có giá như thương phiếu, chứng khoán
chính phủ và các tài sản có kháccủa ngân hàng trung ương.

Nguyên tắc phát hành tiền có đảm bảo bằng hàng hoá.
Cùng với sự phát triển sản xuất hàng hoá, khối lượng hàng hoá lưu thông ngày càng
tăng, đòi hỏi phải có nhiều tiền để đáp ứng cho nhu cầu trao đổi hàng hoá và dịch vụ.
Mặt khác do yêu cầu đáp ứng chi tiêu của chính phủ. Sau chiến tranh thế giới II, nguyên
tắc 1. gần như được chấm dứt. Thay vào đó là sự đảm bảo bằng hàng hoá cho việc phát


hành tiền. Mặt khác quá trình lưu thông xuất hiện mới nhận thức về tiền, thế giới đã phi
1/3


Nguyên tắc phát hành tiền và các kênh phát hành tiền

tiền tệ hoá vai trò của vàng, các loại tiền dấu hiệu ra đời và thay thế cho tiền kim loại
vàng trong lưu thông. Để lưu thông tiền tệ ổn định, ngân hàng trung ương đặt ra nguyên
tắc phát hành tiền được đảm bảo bằng giá trị hàng hoá.
Theo nguyên tắc này, đảm bảo duy nhất cho khối lượng tiền trong lưu thông giờ đây là
hàng hoá, thông qua các chứng khoán của chính phủ hoặc các giấy nhận nợ được phát
hành từ các doanh nghiệp. Yêu cầu phát hành tiền dựa vào cơ sở hàng hoá nhằm duy trì
vừa đủ cho nhu cầu của nền kinh tế, trên cơ sở phương trình trao đổi của Fisher với nội
dung như sau:
M.V=P.Y
Trong phương trình này, Fisher quan niệm rằng, khối lượng tiền cần được tạo ra cho nền
kinh tế (M), trong đó tiền mặt là bộ phận hạt nhân, phụ thuộc vào ba biến số: P ( mức
giá cả bình quân của hàng hoá ), Y ( tổng sản lượng ),V (vòng quay tiền tệ ).
Dựa vào nguyên tắc trên ngân hàng trung ương cần phải dự tính khối lượng tiền phát
hành, tức là dự kiến mức cầu tiền. Nhu cầu tiền được quyết định bởi tổng sản phẩm quốc
dân thực tế, sự biến động của giá cả dự tính và tốc độ lưu thông tiền tệ, ta có thể tính
theo công thức:
M=P.Q-V
Trong đó:
M : Tốc độ tăng trưởng của tiền cung ứng.
P : Mức biến động giá dự tính.
Q : Tỷ lệ tăng trưởng thực tế dự tính.
V : Sự biến động tốc độ lưu thông tiền tệ dự tính.

Các kênh phát hành tiền.

Thông qua nghiệp vụ tín dụng giữa Ngân hàng trung ương với các Ngân hàng
thương mại.
Căn cứ vào nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, căn cứ vao lượng tiền cung ứng tăng thêm
trong năm kế hoạch, dựa vào mục tiêu của chính sách tiền tệ, nhu cầu vay vốn của các
tổ chức tín dụng. Ngân hàng trung ương cho các tổ chức tín dụng vay ngắn hạn dưới
hình thức tái cấp vốn: Chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá, cho vay có đảm
bảo bằng các chứng từ có giá và các loại cho vay khác.

2/3


Nguyên tắc phát hành tiền và các kênh phát hành tiền

Khi Ngân hàng trung ương cho các tổ chức tín dụng vay làm tăng bộ phận tiền mặt
trong lưu thông hoặc làm tăng số dư tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại Ngân hàng
trung ương. Kết quả làm tăng tiền trung ương (MB). Nư vậy, qua việc Ngan6n hàng
trung ương cho các Ngân hàng thương mại vay, Ngân hàng trung ương đã phát hành một
lượng tiền vào lưu thông còn ngân hàng thương mại nhận được một khoản tín dụng từ
ngân hàng trung ương là một nguồn vốn giúp ngân hàng thương mại mơ rộng hoạt động
kinh doanh.
Kênh thị trường mở.
Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng thương mại mua các giấy tờ có giá trên
thị trường, nghĩa là đã đưa một khối lượng tiền vào lưu thông, hàng hoá mà Ngân hàng
trung ương mua là các tín phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá ngắn hạn. Khi Ngân
hàng trung ương mua các chứng từ có giá trên thị trường thì tiền từ Ngân hàng trung
ương ra lưu thông, kết quả là tiền cung ứng sẽ tăng lên bằng đúng giá trị của chứng từ
có giá đó. Các chứng từ có giá được Ngân hàng trung ương nắm giữ trở thành tài sản có
của Ngân hàng trung ương tương ứng với nó là một sự tăng lên của bên tài sản nợ hoặc
tiền mặt hoặc tiền dự trữ. Kênh này đang được sử dụng phổ biến, đặc biệt là các nước
có nền kinh tế phát triển vì đây là kênh rất linh hoạt.

Kênh phát hành tiền thông qua ngân sách nhà nước.
Trong quá trình hoạt động thu chi của ngân sách, thông thường thu có tính chất thời vụ
mà chi thì diễn ra thường xuyên, do đó tại một thời điểm ngân sách có thể bị thiếu vốn
ngắn hạn. Để đáp ứng nhu cầu chi, được sự đồng ý của chính phủ, Quốc hội, Ngân hàng
trung ương tạm ứng cho ngân sách theo quy định của chính phủ bằng nhiều hình thức
đẻ xử lý thiếu hụt. Như vậy Ngân hàng trung ương đã cung ứng một khối lượng tiền cho
ngân sách chi tiêu. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng trung ương đã phát hành tiền thông
qua kênh ngân sách.
Phát hành tiền thông qua kênh ngoại hối.
Khi Ngân hàng trung ương thực hiện mua ngoại hối trên thị trường hối đoái, đây cũng
là một kênh phát hành tiền. Khi ngân hàng trung ương mua ngoại tệ làm dự trữ ngoại tệ
của ngân hàng trung ương tăng, đồng thời một lượng tiền cũng được đưa vào lưu thông
qua việc thanh toán tiền cho các tổ chức cá nhân bán ngoại tệ cho ngân hàng trung ương
. Ngược lại khi ngân hàng trung ương bán ngoại tệ, dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung
ương giảm, tiền trung ương cũng giảm.
Như vậy, tuy theo từng điều kiện nhất định mà các kênh cung ứng tiền của mỗi quốc gia
được ngân hàng trung ương sử dụng phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Song dù tiền được
cung ứng theo kênh nào cũng phải đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.

3/3



×