Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Những câu hỏi chưa có trả lời về ý thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.69 KB, 6 trang )

Nh ữ
ng câu h ỏ
i ch ư
a có tr ảl ờ
i v ềý th ứ
c
Ý THỨC LÀ GÌ?
Nếu chỉ giới hạn trong phạm vi loài người với những hành vi được chỉ đạo bởi bộ não thì
câu trả lời là không khó bởi nhiều khi chúng ta cho rằng trong chính chúng ta hành vi này
là có ý thức, còn hành vi kia là không có ý thức. Vậy ý thức là gì nếu xét trong phạm vi
rộng lớn hơn và điều này là có thể?
Chúng ta đã thấy rằng trong giới sinh vật nói chung, để bảo tồn và phát triển giống nòi,
mỗi loài sinh vật đều tìm ra một phương thức tự bảo vệ và sinh sống cho riêng mình.
Nnhiều loài sinh vật, mà dưới mắt chúng ta chúng là những sinh vật kém phát triển trên
con đường tiến hóa, đã có những hình thức tự bảo vệ độc đáo. Nhiều loài côn trùng đã
tự biến đổi thân mình giống như cành cây hay chiếc lá để dễ bề lẩn chốn trước sự săn
đuổi của kẻ ăn thịt, có loài cua biển biết lấy rong rêu để phủ lên mình để ngụy trang. Cây
bắt ruồi, một loài thực vật còn biết tạo ra cho mình một cơ cấu để bắt côn trùng. Một số
loài kiến còn biết hái lá về để trồng nấm làm thức ăn hoặc chăm sóc một loài rệp cây để
cung cấp thức ăn cho chúng. Những hành vi đó có được coi là ý thức hay không ? Nếu
chúng ta coi đó là những hành vi mang tính bản năng thì cái gì đã làm nên bản năng?
Bản năng có phải là ý thức hay không hoặc có thể coi là ý thức được hay không bởi
chúng vẫn được điều khiển bằng hệ thần kinh của động vật? Nếu coi bản năng là ý thức
thì tất cả các loài động vật đều có ý thức. Nhưng trong thực tế nhiều loài động vật thực
hiện hoạt động bản năng theo những quy luật, ví dụ hoạt động sinh sản được thực hiện
trong những ngày hoặc những mùa nhất định trong năm và trong những điều kiện nhất
định, và tất nhiên hoạt động của hệ thần kinh trong trường hợp này cũng bị chi phối bởi
quy luật đó. Tính quy luật của hoạt động bản năng không thay đổi trong những trường
hợp điều kiện thay đổi không nhiều, có nghĩa là trong một số trường hợp, sự tác động từ
bên ngoài hay hiện thực khách quan đã không làm thay đổi sự điều khiển của hệ thần
kinh mang tính bản năng. Nhiều loài động vật hoang dã đã không sinh sản khi bị chuyển


vào chế độ nuôi nhốt. Nếu coi ý thức là sản phẩm của hệ thần kinh khi có tác động từ
bên ngoài thì trường hợp trên đây lại cho thấy bản năng không được coi là ý thức.
Vậy ý thức là gì?
Hành vi của những loài côn trùng nói trên được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
bằng con đường sinh sản. Với các động vật có hệ thần kinh phát triển hơn thì ngoài
những hành vi được truyền từ bố mẹ cho con cái thông qua sinh sản, còn có những
hành vi được hình thành trong quá trình phát triển riêng của từng cá thể. Trong những
hành vi này, có những hành vi được cá thể tiếp nhận từ thế hệ trước hoặc từ các cá thể
khác, thậm trí là từ các cá thể không cùng loài với nó, bằng hình thức bắt trước làm
theo. những hành vi này do không được truyền lại thế hệ sau thông qua con đường sinh
sản nên chúng không có tính ổn định cao, chúng có thể biến đổi. Trong những hành vi
thuộc loại này có những hành vi duy trì sự tồn tại và phát triển, nhưng cũng có những
hành vi ngược lại. vậy những hành vi nào thuộc về cái gọi là ý thức, còn những hành vi
nào không? hoặc tất cả đều là ý thức? Các cá thể động vật có thể sinh sống độc lập
hoặc tồn tại trong mối liên hệ với các cá thể khác khác cùng loài hoặc khác loài. Khi các
cá thể của một loài động vật sống trong mối liên hệ với các cá thể khác với một sự phụ
thuộc lẫn nhau nào đó thì loài động vật này đã có hình thức tồn tại mang tính xã hội. Để
thực hiện được cuộc sống xã hội, các loài động vật cần có một hoặc nhiều hình thức


giao tiếp nào đó. Thông qua các hình thức giao tiếp, mỗi cá thể nhận được thông tin về
quyền lợi và nghĩa vụ của mình với cộng đồng và thực hiện các hành vi tương ứng. Việc
thực hiện các hành vi khi tiếp nhận các thông tin giao tiếp mang tính xã hội có phải là ý
thức hay không và hoàn toàn là những hành vi có ý thức hay không? Các hình thức giao
tiếp mà mỗi loài động vật sử dụng trong hoạt động xã hội là ngôn ngữ riêng của loài. Các
cá thể động vật giao tiếp với nhau thông qua ngôn ngữ của loài và hành động theo tác
động của ngôn ngữ đó. Vậy ngôn ngữ giao tiếp của các loài động vật có ảnh hưởng đến
ý thức hay không và nếu có thì ảnh hưởng như thế nào?
Mỗi loài động vật có một phương thức tồn tại và phát triển riêng trong sự tồn tại và phát
triển chung của sinh giới. Do đó mỗi loài động vật hình thành nên các tập tính kiếm ăn,

sinh sản riêng. Các tập tính đó có thể là cố định khi truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác và cũng có thể thay đổi theo sự biến đổi của môi trường sống như thay đổi loại
thức ăn khi môi trường sống mới không có loại thức ăn quen thuộc. Tập tính của các loài
động vật không thay đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác có phải là bản năng hay không
và nó có phải là ý thức hay không khi nó chịu sự tác động từ môi trường mà thay đổi?
Hay nó là trung gian giữa ý thức - là cái dễ thay đổi - và bản năng - cái không thay đổi?
Các loài sinh vật có khả năng thích nghi với một môi trường sống nào đó. Khi một môi
trường sống có sự thay đổi, các loài sinh vật đều phải có những sự biến đổi tương ứng
để tồn tại , bao gồm cả sự biến đổi về cấu trúc cơ thể. Loài sinh vật nào không có sự
biến đổi thích ứng với sự thay đổi của môi trường có thể bị tiêu diệt. Vậy các loài sinh vật
nhận biết sự thay đổi của môi trường như thế nào? Và chúng làm thế nào để nhận biết
được sự thay đổi của môi trường. Khi các loài sinh vật nhận biết được sự thay đổi của
môi trường và có những sự biến đổi, những hành vi đáp ứng lại sự thay đổi của môi
trường thì đó có phải là ý thức hay không?
Chúng ta đã thấy những con quạ ở Nhật bản biết thả hạt cây cứng xuống mặt đường
nhựa để ôtô đè vỡ hạt giúp chúng có thể ăn được phần nhân bên trong. Chúng ta đã
thấy những con vẹt ở Niu Di lân biết phối hợp với nhau để lấy thức ăn trong các khay
đậy kín bởi các cơ cấu phức tạp. Chúng ta đã thấy báo mẹ không nỡ giết sư tử con bị
lạc trong khi sư tử đực lại giết sư tử con không phải là do nó sinh ra khi nó chiếm được
vị trí đầu đàn. Chúng ta được chứng kiến những chú quạ non chăm chú quan sát cách
sử dụng cành cây để bắt sâu của quạ già để sau đó bắt trước. Chúng ta đã thấy một số
loài động vật biết tạo ra hoặc tận dụng một số đồ vật trong tự nhiên để làm công cụ lao
động, như một số loài khỉ biết dùng hòn đá để ghè vỡ hạt cây. Với loài người, những
hành vi đó gọi là học tập. Việc học tập, chế tạo và sử dụng công cụ ở loài người là
những hành vi có ý thức. Vậy những hành vi đó thể hiện ở những loài động vật khác thì
có được coi là ý thức hay không? Và có công bằng hay không khi chúng ta cho những
hành vi trên đây do loài người thực hiện là có ý thức, còn do các loài động vật khác là
không có ý thức?
Một người khi mới simh ra chỉ sợ tiếng động quá to, ánh sáng quá chói, khi trưởng thành
lại sợ thêm rất nhiều thứ khác. Một con linh dương mới sinh không hề biết sợ sư tử, sự

sợ hãi của nó lúc này chỉ là do vắng bóng mẹ, một sự sợ hãi mang tính bản năng, khi
lớn lên sẽ bỏ chạy khi thấy bóng sư tử. Loài sư tử dũng mãnh chỉ biết sợ tiếng sấm sét.
Tiếng động quá to, ánh sáng quá chói vượt quá khả năng chịu đựng của hệ thần kinh
của đứa trẻ và sư tử dẫn đến sự sợ hãi cho cả hai. Còn sự sợ hãi khác hình thành trong


quá trình sinh trưởng. sự sợ hãi có thể và trong phần lớn các trường hợp đảm bảo cho
sự sinh tồn và cũng trong nhiều trường hợp chính sự sợ hãi chấm dứt sự sống (sự sợ
hãi làm cho tim ngừng đập ). Nếu coi ý thức là khả năng điều chỉnh hoạt động của cơ thể
thích nghi với môi trường sống thì sự sợ hãi nhằm bảo tồn có phải là ý thức hay không?
Một đặc điểm quan trọng trong quá trình phát triển nhận thức của con người và nhiều
loài động vật là tính tò mò. Đứng trước một sự vật, một sự việc, một quá trình mà mình
chưa thấy, chưa hiểu, con người và một số loài động vật thể hiện tính tò mò bằng cách
chăm chú quan sát, lắng nghe rồi sau đó ở một mức đơn giản là bắt chước làm lại, ở
một mức độ cao hơn là sự kết hợp với một số cái đã biết trước để tạo ra sự thay đổi nào
đó. Sự tò mò giúp cho con người và các loài động vật từ chỗ chưa hiểu gì về thế giới
xung quanh đi đến chỗ phân biệt được cái ăn được và không ăn được, biết được cái
nguy hiểm, cái đáng sợ để né tránh, chỗ an toàn để dung thân,v.v... Đây là quá trình tìm
hiểu thế giới, tìm hiểu môi trường sống, định ra cách tồn tại và phát triển phù hợp với
môi trường sống. Nói tóm lại, tò mò là một biểu hiện của hoạt động thần kinh trong các
loài động vật và nó góp phần vào sự tồn tại và sinh trưởng của mỗi cá thể. Tính tò mò
không phải có trong tất cả các loài động vật mà chỉ có ở một số loài có hệ thần kinh đã
phát triển đến một mức độ nào đó và mức độ tò mò cũng không phải giống nhau trong
các cá thể cùng loài. Điều này có nghĩa là tính tò mò không mang tính bản năng. Tò mò
giúp cho việc tiếp nhận tri thức mới nhanh hơn. Vậy tò mò có phải là ý thức hay không?
Cuộc sống của các loài sinh vật nói chung và động vật đều trải qua các quá trình sinh ra,
lớn lên, diệt vong. Nếu không có sự kế tiếp thì sự sống trên trái đất chấm dứt. May thay,
các loài sinh vật đã tìm ra được phương thức duy trì sự sống, đó là sinh sản. Sự sinh
sản không chỉ giúp cho các loài sinh vật duy trì được nòi giống mà còn làm cho loài còn
phát triển tăng lên về số lượng và sự biến đổi qua mỗi lần sinh sản làm tăng khả năng

thích nghi với môi trường sống. Tuy vậy, với các loài động vật, sự sinh sản để duy trì nòi
giống là phương thức tồn tại giống nhau, nhưng mỗi loài lại có những hình thức duy trì
riêng. Có loài con non vừa mới được sinh ra đã phải sống tự lập với vô vàn hiểm nguy,
có loài con non được bố mẹ chăm sóc, dạy dỗ cho đến lúc trưởng thành đủ để sống tự
lập. Sự tự lập từ khi mới được sinh ra mang tính bản năng và được duy trì từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Còn với các loài động vật mà khả năng sinh tồn bản năng thấp hơn
khả năng sinh tồn do đựơc học và được dạy thì trách nhiệm của thế hệ trước là phải dạy
thế hệ sau cách kiếm sống. Cách sinh tồn kết hợp giữa bản năng và học cách kiếm sống
là cách nâng cao khả năng tồn tại khi môi trường sống thay đổi và nó được các loài động
vật có bậc tiến hoá cao chọn lựa. Vậy dạy và học cách kiếm sống có phải là ý thức hay
không? Đây là nhận thức rất quan trọng cho loài người bởi nếu chúng ta cho rằng việc
dạy và học cách kiếm sống không phải là ý thức thì sẽ dẫn đến tình trạng vô giáo dục
trong xã hội và do đó là tình trạng hỗn loạn. Nhưng nếu ( và cần thiết ) chúng ta coi dạy
và học là ý thức thì chúng ta phải thừa nhận rằng nhiều loài động vật cũng có ý thức bởi
để sinh tồn, các con non của các loài này phải học và bố mẹ chúng cũng rất nghiêm
khắc trong việc dạy, điều mà có nhiều người trong chúng ta còn kém. Thừa nhận điều
này chúng ta sẽ phải thay đổi quan niệm về ý thức và chúng ta cũng không còn độc
quyền về ý thức. Sự khác biệt giữa việc dạy và học cách sinh tồn giữa loài người chúng
ta với các loài động vật khác nếu muốn kể đến đó là loài người chúng ta ngày càng tạo
ra nhiều cách kiếm sống hơn, nhiều kiến thức hơn và các thế hệ sau càng phải học
nhiều hơn thì mới đảm bảo được khả năng sinh tồn .


Mỗi người chúng ta nói riêng khi sinh ra đều được sở hữu một bộ não. Mỗi bộ não có
một khả năng riêng và do đó hình thành trong mỗi chúng ta những thiên hướng hoạt
động, những tính cách riêng, có người ưa sôi nổi, có người trầm tĩnh kín đáo, có người
ưa nghệ thuật, có người thích thể thao và có người dành cả cuộc đời, sẵn sàng hy sinh
tính mạng vì một sự ham mê nào đó. Những thiên hướng, những tính cách này của con
cháu có thể giống hoặc khác thế hệ ông bà cha mẹ. Hơn thế chúng có thể thay đổi ngay
trong cuộc đời của mỗi con người thông qua quá trình học tập, làm việc, thay đổi môi

trường sống, thậm trí có thể can thiệp bằng dược phẩm. Thông qua giáo dục, rèn luyện,
thay đổi môi trường sống hoặc vì một vài lý do mà con người thay đổi thiên hướng hoạt
động, thay đổi tính cách thì có thể cho đó là ý thức được không? Sự thay đổi tính cách
qua các thế hệ và đặc biệt là sự thay đổi tính cách thông qua can thiệp bằng hoá chất,
xét về hình thức là không khác với sự thay đổi do giáo dục và học tập, rèn luyện. Đây là
sự thay đổi do biến đổi trong cấu trúc hệ thần kinh. Làm thế nào để phân biệt được hai
điều này? Mặt khác sự thay đổi tính cách do giáo dục, rèn luyện ít nhiều cũng dẫn đến
thay đổi cấu trúc trong hệ thận kinh bởi không có sự thay đổi nào về cấu trúc thì cũng
không có sự thay đổi về tính cách và thiên hướng hoạt động. Liệu có đúng hay không khi
sự thay đổi này được cho là có ý thức, còn trường hợp kia là không khi chúng chỉ có sự
hoán vị giữa nguyên nhân và hậu quả? Bộ não của con người và các loài động vật là
một bộ phận trong cơ thể hoạt động được nhờ cấu trúc của nó và năng lượng dùng cho
hoạt động được cung cấp từ phản ứng phân giải gluxit. Nói cụ thể hơn, sự hoạt động
của bộ não chịu ảnh hưởng của các cơ quan khác trong cơ thể và mối liên hệ với các cơ
quan đó. Ngoài ra nó còn chịu tác động từ môi trường bên ngoài. Nói cách khác, bộ não
là một cơ quan, là một cấu trúc vật chất có thể hoạt động khi được cung cấp năng
lượng, do đó nó có tính độc lập trong hoạt động. Mặt khác, nó chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố khác nên tính độc lập là không hoàn toàn. Các tế bào thần kinh hoạt động khi chịu
tác động của các kích thích thần kinh và không hoạt động khi không có sự kích thích
hoặc có nhưng chúng đang ở trong trạng thái ức chế. Các tế bào thần kinh trong não
được kích thích hoạt động không chỉ bởi các kích thích đến từ các tế bào thần kinh cảm
giác mà còn từ các tế bào thần kinh khác trong não và các yếu tố không thần kinh khác.
Điều này làm cho bộ não không chỉ hoạt động trong lúc thức mà còn hoạt động trong cả
giấc ngủ. Sự hoạt động của bộ não trong giấc ngủ tạo nên những giấc mơ. Thông
thường, hoạt động của bộ não trong giấc mơ là những hoạt động lộn xộn, chắp vá,
nhưng cũng có những giấc mơ tạo nên những kết quả kỳ diệu của hoạt động thần kinh.
Vậy những giấc mơ có phải là ý thức hay không? Nếu chúng ta coi những giấc mơ
không phải là ý thức thì chúng ta phải nói như thế nào khi Men- đê-lê-ép tìm thấy bảng
tuần hoàn các nguyên tố hoá học trong giấc mơ, nói thế nào về những người mộng du?
Trong xã hội chúng ta, có những người có khả năng hoặc rèn luyện được khả năng điều

khiển được hành vi của người khác thông qua lời nói của mình mà người bị điều khiển
không nhận thức được sự điều khiển đó. Hiện tượng này được gọi là sự ám thị. Người
điều khiển nhận thức được sự điều khiển của mình, còn người bị điều khiển thực hiện
hành vi trong trạng thái vô thức. Hành vi của người bị điều khiển được thực hiện bởi sự
ám thị theo cách có chủ ý, vậy sự ám thị có phải là ý thức hay không? Mỗi người chúng
ta, trong cuộc đời của mình đều ít nhiều gặp những khó khăn, nguy hiểm, những trở ngại
trong cuộc sống. Để vượt qua được những khó khăn, những nguy hiểm, những trở ngại
đó, chúng ta không chỉ phải huy động sức lực cơ bắp, nhờ sự giúp đỡ từ bên ngoài, mà
còn cần huy động đến ý chí, nghị lực, đến sự quyết tâm, lòng dũng cảm, đến niềm tin,


đến sức mạnh tinh thần. Trong rất nhiều trường hợp, chính nhờ những yếu tố này mà
chúng ta vượt qua được khó khăn nguy hiểm chứ không phải là nhờ sức mạnh cơ bắp.
Vậy ý chí, nghị lực, sự quyết tâm, lòng dũng cảm, niềm tin, yếu tố tinh thần có phải là ý
thức hay không? Tương tự như vậy, chúng ta, và không chỉ riêng loài người chúng ta,
trong những lúc vui buồn hờn giận, yêu thương căm ghét, chúng ta thường có những
hành vi tương ứng với các sắc thái tình cảm, vậy tình cảm có phải là ý thức?
Trong công cuộc mưu sinh của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi cá nhân đều cần phải
huy động sức lực, trí tuệ của mình và nỗ lực làm việc để tìm kiếm hoặc tạo ra được
nhiều của cải đáp ứng mọi nhu cầu của cuộc sống. Trong các quá trình làm việc đó, có
những quá trình tạo ra được nhiều của cải, nhiều giá trị cho mỗi cá nhân và cho toàn thể
cộng đồng nhưng không gây hại đến người khác, đến cộng đồng khác, đến môi trường
sống, nhưng cũng có nhiều quá trình làm việc cũng tạo được của cải cho cá nhân này,
cộng đồng này nhưng gây hại đến cá nhân khác, cộng đồng khác, đến môi trường sống.
Sự gây hại này có thể là vô tình, nhưng cũng có thể là hữu ý. Sự vô tình có thể là do sự
nhận thức chưa đầy đủ tác hại, nhưng sự cố ý thì không thể nói là do không biết đến tác
hại. Thậm trí có những cá nhân, những cộng đồng vì lợi ích cá nhân của mình, của cộng
đồng mình mà làm tổn hại nặng nề cho người khác, cho môi trường sống. Vậy những
hành vi vì lợi ích của mình mà làm tổn hại đến người khác, tổn hại đến cộng đồng, đến
xã hội, đến môi trường sống có phải là ý thức hay không mặc dù những hành vi đó được

nhận thức đầy đủ tác hại có thể xảy ra?
Những hành vi vì quyền lợi của mình mà làm tổn hại đến người khác không chỉ là sự làm
tổn hại, mà còn dẫn đến sự tức giận và cao hơn, đó là lòng căm thù. Sự căm tức và lòng
căm thù đã thúc đẩy sự phản kháng, ý muốn trả thù. Sự phản kháng và sự trả thù được
thực hiện sẽ làm tổn hại những người đã gây ra và sự tổn hại cao nhất là sự sống của
những người đó. Sự tức giận và lòng căm thù xuất hiện sau khi bị làm tổn hại, vậy nó có
phải là ý thức không? Mức độ tức giận và lòng căm thù không phải là giống nhau ở
những người có mức bị tổn hại như nhau, vậy điều gì tạo nên sự khác nhau này? Nếu
đây là ý thức thì có phải ý thức hình thành trong mỗi người khác nhau là khác nhau và
như vậy cũng có nghĩa là có nhiều dạng ý thức?
Mọi người chúng ta đều sống trong một tập thể, một cộng đồng và gắn bó với tập thể,
với cộng đồng đó bởi sự thống nhất về quyền lợi. Quyền lợi của tập thể, của cộng đồng
được bảo vệ, được duy trì và được phát triển làm cho quyền lợi của mỗi cá nhân thuộc
tập thể, thuộc cộng đồng được bảo vệ, được duy trì và được tăng lên. Lý do này đã hình
thành trong tư duy từng cá nhân trách nhiệm bảo vệ, duy trì và phát triển quyền lợi
chung và các cá nhân tự giác thực hiện trách nhiệm này. Vậy trách nhiệm có phải là ý
thức? Và khi mọi cá nhân có trách nhiệm giống nhau thì có nghĩa ý thức của mọi cá
nhân giống nhau?
Trong mỗi cá nhân hình thành một phong cách sống, một tư duy tồn tại. Phong cách này,
tư duy này được hình thành do được học hỏi, được dạy dỗ, được trải nghiệm và mang
tính đặc thù của mỗi cá nhân. Nhưng điều này không có nghĩa là mọi người không có
điểm chung. Đây là kết quả của quá trình dạy dỗ, học hỏi và sinh tồn trong một môi
trường sống. Nếu coi những điểm chung, những cái giống nhau này là ý thức thì ý thức
có thể lan toả, được truyền từ người này sang người khác, thế hệ này sang thế hệ khác.
Đây là sự lan truyền qua trực giác. Nhưng tính đặc thù của mỗi cá nhân được hình thành


như thế nào và nó có thể lan truyền được không? Nếu nó lan truyền được thì sự lan
truyền đó có giống với sự lan truyền ý thức chung hay không và nếu khác thì đó là sự lan
truyền bằng con đường nào? Nếu đã có nhiều con đường thì đó là những con đường

nào?
Vậy ý thức là gì?
Chúng ta đã có nhiều định nghĩa về ý thức bao gồm cả những định nghĩa thông thường
đến những định nghĩa ở tầm triết học. Nhưng một định nghĩa khả dĩ bao quát được riêng
những vấn đề nêu trên đây quả là khó khăn bởi chúng ta không thể phiến diện, không
thể giới hạn. Nếu phiến diện, nếu giới hạn thì định nghĩa sẽ không còn là bao quát và do
vậy không thể cho nó là đầy đủ. Và khi không đầy đủ thì đương nhiên nó là không đúng.
Vậy ý thức là gì?
Khi Mác xây dựng phép biện chứng duy vật, Mác đã không ( hoặc do tác giả không biết)
nêu rõ yêu cầu hoặc tính chất của việc biện chứng. Chính vì vậy đã dẫn đến cách hiểu
không đầy đủ về phép biện chứng duy vật mà sự hiểu không đầy đủ biểu hiện trong
quan niệm các chứng được biện phải được cảm thụ bằng hệ thống giác quan của hệ
thần kinh. Trong thế giới tự nhiên, không phải mọi cái mà chúng ta nhận thức được đều
thông qua các giác quan của chúng ta, mà có những cái chúng ta chỉ nhận thức được
bằng phép biện chứng duy vật với nghĩa là chúng ta phải biện đến rất nhiều chứng để
suy luận ra sự tồn tại của nó bên trong và chi phối các chứng đó. Những cái này không
thể nhận thức được bằng các giác quan kể cả trường hợp có sự trợ giúp của các
phương tiện kỹ thuật tinh vi. Chúng ta không thể nhận thức trực tiếp được bản chất.
Chúng ta chỉ biết đến bản chất thông qua rất nhiều hiện tượng mà nó chi phối. Ý thức
cũng vậy, chúng ta không thể nhận thức trực tiếp được ý thức mà chỉ có thể nhận thức
được ý thức thông qua hành vi và cũng giống như mối quan hệ giữa hiện tượng và bản
chất, nhiều khi hành vi phản ánh sai ý thức.
Vậy ý thức là gì?
Chúng ta có thể xây dựng dược một khái niệm chung về ý thức có khả năng bao hàm
được tất cả những vấn đề đặt ra trên đây được không hay phải chia ra từng mảng để rồi
nói rằng có nhiều loại, nhiều dạng ý thức khác nhau? Và nếu có nhiều dạng ý thức khác
nhau thì liệu có một dạng nào là chủ đạo và có khả năng chi phối các dạng khác? dạng
nào có trước và dạng nào có sau? Nguồn gốc của từng dạng khác nhau là gì? Có phải
tất cả những cái nêu trên đây đều là ý thức hay có những cái không phải là ý thức mặc
dù chúng cũng có biểu hiện giống ý thức? Đây quả là một vấn đề không hề đơn giản và

rõ ràng là không thể vội vã. Có thể với một sự cần thiết nào đó, chúng ta phải chấp nhận
một định nghĩa phiến diện, nhưng không có nghĩa là chúng ta không tìm đến một định
nghĩa thấu đáo, một nhận thức đầy đủ về ý thức.



×