Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

LILUANDAYHOCx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.77 KB, 18 trang )

Đổi mới giáo dục đại học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học ở bậc đại học
nói riêng đã và đang là yêu cầu cấp bách của hệ thống giáo dục đại học ở các nước trong
đó có nước ta nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo đại học. Tuyên bố của Hội
nghị quốc tế về giáo dục đại học năm 1999 tại Paris do UNESCO tổ chức đã chỉ rõ giáo
dục đại học cần bảo đảm cho người học: “chiếm lĩnh các kỹ năng, năng lực giao tiếp, óc
phân tích sáng tạo và phê phán, suy nghĩ độc lập và biết làm việc trong một nhóm giữa một
bối cảnh đa văn hóa”.
Nghị Quyết 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 của Chính phủ Việt Nam về đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 cũng đã đặt ra yêu
cầu: “ …tiếp thu tinh hoa nhân loại, nhanh chóng tiếp cận xu thế phát triển giáo dục đại
học tiên tiến trên thế giới…triển khai đổi mới phương pháp đào tạo theo 3 tiêu chí: trang
bị cách học; phát huy tính chủ động của người học; sử dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong hoạt động dạy và học”.
Nội dung bài tiểu luận dưới đây sẽ cung cấp các thông tin cơ bản về nguyên nhân
của vấn đề trên đồng thời tìm hiểu về các xu thế và phương hướng đổi mới dạy học trong
giai đoạn hiện nay.
1. Tại sao phải đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay?
1.1. Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nhấn mạnh: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi con người phải có nhiều
năng lực mới: năng lực tư duy độc lập, năng lực tự học và tự cập nhật thường xuyên kiến
thức mới, năng lực thích ứng với những thay đổi… Đây chính là những năng lực giúp con
người Việt Nam “đi tắt đón đầu”, rút bớt khoảng cách lạc hậu so với các nước phát triển
trong khu vực và trên thế giới.
Trường đại học không thể đào tạo ra những con người như vậy nếu không đổi mới
PPGD.
1.2. Yêu cầu của sự phát triển khoa học - công nghệ
Một trong những đặc điểm nổi bật của thời đại chúng ta là sự phát triển như vũ bão
của khoa học- công nghệ. Theo G. Anderla, dẫn theo Thái Văn Hào [2008: 112], “kể từ


thập niên 60 của thế kỷ XX, kiến thức khoa học của nhân loại chỉ cần khoảng thời gian
dưới 7 năm để tăng gấp đôi. Và khoảng thời gian ấy ngày càng được thu ngắn lại” và “kể
từ 1995, trung bình tối thiểu mỗi ngày có ít nhất 4000 tựa sách khoa học không chỉ được
phát hành mà còn được bổ sung vào thư mục ở các thư viện của các đại học và trung tâm
nghiên cứu.” Qua hơn hai thập niên mở cửa hội nhập, những thành tựu vượt bậc của công
nghệ thông tin và truyền thông phương Tây đã tạo điều kiện để Việt Nam nhanh chóng
thiết lập kết nối với hệ thống truyền thông quốc tế qua nhiều kênh khác nhau. Theo đó, một
lượng tri thức khổng lồ của nhân loại đã chuyển vào nước ta, tạo áp lực lớn cho ngành giáo
dục và toàn xã hội. Trong tình hình ấy, phương pháp dạy học theo lối “lấy thầy làm trung
tâm” đã bộc lộ những hạn chế trong việc cung cấp tri thức cho người học nói chung và cho
thế hệ trẻ nói riêng. Một yêu cầu bức thiết đặt ra là phải đổi mới phương pháp dạy học.
Và phương pháp dạy học mới phải phục vụ tốt cho việc tiếp thu có hiệu quả tri thức nhân
loại.
Các cuộc cách mạng khoa học trên các lĩnh vực: tin học, truyền thông, công nghệ…
không chỉ làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội mà còn có tác động mạnh mẽ
đến PPGD ở đại học. Dưới ảnh hưởng của các cuộc cách mạng khoa học, nhiều phương
tiện kỹ thuật dạy học hiện đại xuất hiện. Việc sử dụng các phương tiện như: Hệ thống nghe
nhìn, công cụ tin học đa phương tiện Multimedia, mạng intranet, internet… trong quá trình
đào tạo đòi hỏi phải đổi mới cách dạy, cách học ở đại học.
1.3. Yêu cầu của sự hội nhập GDĐH trong khu vực và trên thế
giới
Thế giới đang tồn tại hai trường phái trong giáo dục. Trường phái thứ nhất: giáo dục
phải trang bị cho người học một lượng kiến thức càng nhiều càng tốt giúp người học có
một nền tảng vững chãi khi ra trường để sống và hành nghề lâu dài. Trường phái thứ hai:
giáo dục chỉ cần dạy người học kỹ năng xử lý vấn đề đặt ra trong cuộc sống hơn là tập
trung vào việc làm đầy kiến thức đã có sẵn, đây là khuynh hướng giáo dục của các nước
tiên tiến trên thế giới. Nền giáo dục Việt Nam đang ảnh hưởng mạnh mẽ của trường phái
thứ nhất, chính vì vậy mà sản phẩm tạo ra không đáp ứng được yêu cầu của xã hội nhất là
trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay. Nhiều sinh viên ra trường không xin được việc
làm vì khi phỏng vấn tuyển dụng lại thiếu nhiều kiến thức và kỹ năng cơ bản. Số lượng

đào tạo nhiều, nhưng chất lượng thấp,... trong khi nhu cầu của xã hội rất lớn chưa được đáp
ứng - đây là một nghịch lý và là thách thức cho việc bảo đảm chất lượng đào tạo trong các
trường đại học.
Bên cạnh đó, xu hướng của GDĐH ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế
giới là ngày càng có sự tiêu chuẩn hoá cao. Ở từng yếu tố của quá trình đào tạo đều có
những chuẩn mực và tiêu chí để kiểm soát, đánh giá chất lượng, hiệu quả đào tạo. Ngay cả
PPGD cũng được xác định theo những chuẩn mực và tiêu chí nhất định, như tỉ lệ giữa giờ
lên lớp và giờ tự học của sinh viên (SV), mức độ phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của
người học trong phát hiện và giải quyết vấn đề, mức độ sử dụng công nghệ thông tin trong
giảng dạy…
Trong khi đó, PPGD ở nhiều trường đại học Việt Nam vẫn theo lối truyền thụ một
chiều, “nhồi nhét” kiến thức, khiến cho GDĐH có khi bị coi là “phổ thông cấp 4”.
Nếu chúng ta quan niệm rằng đào tạo cũng là một loại hình dịch vụ trong đó sản
phẩm là những con người đáp ứng được những yêu cầu về nhân lực có trình độ cao của xã
hội thì rõ ràng sản phẩm của đào tạo phụ thuộc rất nhiều vào những yếu tố như chương
trình đào tạo, môi trường đào tạo, đào tạo các kỹ năng mềm,.. nhưng một điều đóng vai trò
quan trọng hàng đầu là phương pháp đào tạo. Có một thực tế là ở Việt Nam, trong các bậc
học phổ thông thì khả năng tư duy và trình độ của học sinh Việt Nam không thua kém các
nước tiên tiến trên thể giới nhưng lên các bậc học cao hơn ở đại học và sau đại học thì trình
độ của sinh viên Việt Nam lại không bằng sinh viên của các nước tiên tiến trên thế giới.
Điều đó có rất nhiều nguyên nhân nhưng có một nguyên nhân khá quan trọng là phương
pháp giảng dạy của nước ta chủ yếu là đọc giảng, cách truyền thụ kiến thức một chiều dẫn
đến phương pháp học tập của sinh viên rất thụ động, không đào tạo và tập cho sinh viên
thói quen tự học, tự nghiên cứu và tư duy sáng tạo, một điều cực kỳ quan trọng trong việc
phát triển của sinh viên về sau.
Vì thế, để sớm xây dựng được một nền GDĐH chất lượng cao, ngang tầm khu vực
và vươn dần tới trình độ quốc tế, tạo điều kiện cho sự hội nhập, đòi hỏi chúng ta phải tiếp
tục đổi mới một cách cơ bản và toàn diện, trên tất cả các mặt, trong đó có đổi mới về
PPGD.
1.4. Yêu cầu của phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ

Đào tạo theo hệ thống tín chỉ là một phương thức đào tạo tiên tiến, tạo điều kiện
thuận lợi để người học tích luỹ kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển tiếp
tới các cấp học tiếp theo ở trong nước và ngoài nước.
Thực hiện phương thức đào tạo này, đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ việc tổ chức
giảng dạy - học tập. Trong đó cần đặc biệt quan tâm đến việc sử dụng các phương pháp,
hình thức tổ chức dạy học có nhiều khả năng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của
sinh viên; đồng thời tăng cường khâu tổ chức cho sinh viên tự học, tự nghiên cứu.
Như vậy, đổi mới PPGD còn là cơ sở thực tiễn cho việc thực hiện dạy học theo hệ
thống tín chỉ cần phải được triển khai trong các trường đại học hiện nay.
Tóm lại, đổi mới PPGD là một tiêu chí quan trọng đánh giá việc dạy và học của mỗi
nhà trường. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện sư phạm của từng trường, từng khoa, từng bộ
môn… để có mô hình phù hợp và bước đi thích hợp là vấn đề hết sức quan trọng. Đổi mới
PPGD sẽ giúp sinh viên hình thành được động cơ học tập đúng đắn, hứng thú học tập, sự
say mê trong nghiên cứu; phát huy được tính tích cực, chủ động, tự giác, tính độc lập sáng
tạo, khả năng giao tiếp và ứng xử; làm thay đổi được cách học tập của sinh viên như chủ
động nghiên cứu trước bài học, luôn đối chiếu bài giảng với bài tự soạn để bổ sung, luôn
liên hệ với thực tế cuộc sống và nhà trường của mình; tạo điều kiện để sinh viên được
tranh luận, phát biểu chính kiến của mình, khẳng định trước tập thể, hỗ trợ nhau trong học
tập, hạn chế những thói quen chưa tốt trong học tập và trong cuộc sống: làm biếng, không
chuẩn bị gì khi đến lớp, trên lớp chỉ biết nghe và ghi thụ động, thiếu tự tin thiếu mạnh dạn
trong tranh luận, nghiên cứu và trong giao tiếp nói chung.
Đổi mới phương pháp dạy-học là một yêu cầu khách quan của thực tế vừa là động
lực phát triển, đòi hỏi mỗi thầy giáo nhận thức sâu sắc được vai trò và trách nhiệm tích cực
tham gia vào quá trình đổi mới ở đại học, đòi hỏi sinh viên phải thay đổi vai trò, cách học
cho phù hợp. Nó cũng đặt ra cho những nhà quản lý những yêu cầu mới trong việc trang bị
cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu dạy học, đánh giá xếp loại sinh viên, giảng viên,… Đây là
nghĩa vụ, trách nhiệm và cũng chính là lương tâm của của mỗi chúng ta trước những thử
thách to lớn trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước.
2. Các xu thế và phương hướng đổi mới dạy học ở Đại học
2.1. Các xu thế đổi mới phương pháp dạy học đại học

Hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy học thường theo hai xu thế:
a. Áp dụng phương pháp dạy học “đặt vấn đề và giải quyết vấn đề”
Từ những năm 1960, GV chúng ta đã làm quen với thuật ngữ “dạy học nêu vấn đề”
nhưng cho đến nay vẫn chưa vận dụng thành thạo. Có người cho rằng, thuật ngữ “nêu vấn
đề” có thể gây hiểu lầm là GV nêu ra vần đề để sinh viên giải quyết, do đó đề nghị thay
“nêu vấn đề” bằng “gợi vấn đề”. Thực ra, trước hết cần tập dượt cho sinh viên khả năng
phát hiện vần đề từ một tình huống trong học tập hoặc trong thực tiễn. Đây là một khả
năng có ý nghĩa rất quan trọng đối với một con người và không phải dễ dàng mà có được.
Mặt khác, sự thành đạt trong cuộc đời không chỉ tùy thuộc vào năng lực phát hiện kịp thời
những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn mà bước quan trọng tiếp theo là giải quyết hợp lí
những vần đề được đặt ra. Vì vậy, ngày nay người ta có xu hướng dùng thuật ngữ “dạy học
giải quyết vấn đề” hoặc “dạy học đặt và giải quyết vấn đề”, “dạy học phát hiện và giải
quyết vấn đề”.
 Bản chất
Dạy học đặt và giải quyết vấn đề là PPDH trong đó GV tạo ra những tình huống có
vấn đề, điều khiển sinh viên phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng
tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kỹ năng và đạt được
những mục đích học tập khác.
 Đặc trưng
- Đặc trưng cơ bản nhất của dạy học này là “tình huống gợi vấn đề” vì “tư duy chỉ bắt
đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề” (Rubinstein).
Tình huống có vấn đề (tình huống gợi vấn đề) là một tình huống gợi cho sinh viên
những khó khăn về lý luận hay thực tiễn mà họ thấy cần có khả năng vượt qua, nhưng
không phải ngay tức khắc bằng một thuật giải, mà phải trải qua quá trình tích cực suy nghĩ,
hoạt động để biến đổi đối tượng hoạt động hoặc điều chỉnh kiến thức sẵn có.
Thực tế đã chỉ ra là có rất nhiều kiểu vấn đề, chủ đề có thể lựa chọn. Điều này phụ
thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể, từng cách xây dựng vấn đề và các hoạt động đề ra cho
người học. Tuy nhiên, đặc trưng bề nổi của một vấn đề thì không bao giờ rời xa nhu cầu
của người học (nhu cầu về nhận thức, lĩnh hội kiến thức,..) cũng như không bao giờ xa rời
mục tiêu học tập. Dưới đây là một vài cách xây dựng vấn đề:

+ Xây dựng vấn đề dựa vào kiến thức có liên quan đến bài học. Toàn bộ bài giảng
được xây dựng dưới dạng vấn đề sẽ kích thích tính tò mò và sự hứng thú của người
học. Tính phức tạp hay đơn giản của vấn đề luôn luôn là yếu tố cần được xem xét.
+ Xây dựng vấn đề dựa trên các tiêu chí thường xuyên biến đổi trong công việc, nghề
nghiệp (Vấn đề đó có thường xuyên gặp phải? Và nó có phải là nguồn gốc của
những thiếu sót trong sản xuất? Nó có tác động lớn tới khách hàng hay không? Tuỳ
theo từng hoàn cảnh thì các giải pháp đặt ra cho vấn đề này có đa dạng và khác biệt
không?)
Vấn đề phải được xây dựng xung quanh một tình huống (một sự việc, hiện tượng,…)
có thực trong cuộc sống. Vấn đề cần phải được xây dựng một cách cụ thể và có tính chất
vấn. Hơn nữa, vấn đề đặt ra phải dễ cho người học diễn đạt và triển khai các hoạt động liên
quan. Một vấn đề hay là một vấn đề không quá phức tạp cũng không quá đơn giản. Cuối
cùng là cách thể hiện vấn đề và cách tiến hành giải quyết vấn đề phải đa dạng.
Vấn đề đặt ra cần phải có nhiều tài liệu tham khảo nhưng trọng tâm nhằm giúp người
học có thể tự tìm tài liệu, tự khai thác thông tin và tự trau dồi kiến thức; các phương tiện
thông tin đại chúng như sách vở, băng cát sét, phần mềm mô phỏng, internet,… cũng cần
phải đa dạng nhằm phục vụ mục đích trên.
Vấn đề đặt ra cần phải có tác dụng kích thích các hoạt động nhận thức cũng như các
hoạt động xã hội của người học. Theo tôi, các hoạt động này thường gắn kết với một hoạt
động nghiên cứu thực thụ mà ở đó người học cần phải:
• Đặt vấn đề (Vấn đề đặt ra là gì?)
• Hiểu được vấn đề
• Đưa ra các giả thuyết (Các câu trả lời trước và đối chứng với các câu hỏi đã
được đặt ra trong tình huống)
• Tiến hành các hoạt động thích hợp nhằm kiểm tra các giả thuyết của mình
(nghiên cứu, phân tích, đánh giá tài liệu liên quan, sau cùng là tổng hợp việc
nghiên cứu)
• Thảo luận và đánh giá các giải pháp khác nhau dựa theo từng tiêu chí mà hoàn
cảnh đưa ra
• Thiết lập một bản tổng quan và đưa ra kết luận

Các bước đặt ra trên đây sẽ giúp cho người học nâng cao khả năng tổng hợp kiến
thức. Ví dụ như một vấn đề liên quan đến sinh thái sẽ có nhiều khái niệm liên quan: các
khái niệm vật lý, hoá học, các khái niệm về kinh tế, sức khoẻ cộng đồng, chính sách,..
- Quá trình dạy học theo phương pháp “đặt và giải quyết vấn đề” được chia thành
nhiều bước, những giai đoạn có tính mục đích chuyên biệt.
Để đảm bảo mọi hoạt động có thể bao phủ được toàn bộ các yêu cầu trên, Trường
Đại học Rijkuniversiteit Limbourg tại Maastricht đã đề ra các bước tiến hành như sau:
+ Bước 1: Làm rõ các thuật ngữ và khái niệm liên quan
+ Bước 2: Xác định rõ vấn đề đặt ra
+ Bước 3: Phân tích vấn đề
+ Bước 4: Lập ra danh mục các chú thích có thể
+ Bước 5: Đưa ra mục tiêu nghiên cứu và mục tiêu học tập
+ Bước 6: Thu thập thông tin
+ Bước 7: Đánh giá thông tin thu được
Trong số các bước trên, người học thường gặp khó khăn trong việc phân tích vấn đề
và tổng hợp các thông tin liên quan vấn đề.
- Quá trình dạy học theo phương pháp này bao gồm nhiều hình thức tổ chức đa dạng
lôi cuốn sinh viên tham gia cùng tập thể động não, tranh luận dưới sự dẫn dắt, gợi
mở, cố vấn của giảng viên.
 Ưu điểm
• Phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập.
Vì phương pháp này dựa trên cơ sở tâm lý kích thích hoạt động nhận thức bởi sự tò
mò và ham hiểu biết cho nên thái độ học tập của HV mang nhiều yếu tố tích cực. Năng lực

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×