Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

vai trò của nhà nước trong công cuộc cải cách mở cửa kinh tế ở trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.76 KB, 37 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, nền kinh tế Trung Quốc trỗi dậy
mạnh mẽ, là hiện tượng nổi bật nhất, thu hút nhiều sự chú ý nhất ở khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn thế giới. Sau hơn 20 năm (1979-2003)
thực hiện cải cách mở cửa, bộ mặt kinh tế xã hội Trung Quốc đã biến đổi sâu
sắc.Về nhiều mặt, Trung Quốc đang chiếm những vị trí đáng kể trong nền kinh
tế thế giới, đứng hàng đầu về tốc độ tăng trưởng với một thực lực kinh tế không
nhỏ. Đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại thương, trải qua gần một phần tư thế kỷ,
ngoại thương Trung Quốc đã thu được nhiều thành tựu rực rỡ: từ chỗ xếp hàng
thứ 32 trên thế giới về xuất nhập khẩu (năm 1978) đến nay Trung Quốc đã là
cường quốc ngoại thương lớn thứ 5 trên thế giới với tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu lên tới 620,8 tỷ USD năm 2002 (tăng gấp 30 lần so với năm 1978). Hơn
thế nữa, vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc trong thương mại quốc tế ngày
càng được nâng cao, ngoại thương Trung Quốc đang đứng trước những cơ hội
mới để phát triển tốt đẹp hơn, đặc biệt là sau sự kiện Trung Quốc đã trở thành
thành viên thứ 143 của Tổ chức thương mại thế giới ngay vào năm đầu tiên của
thế kỷ XXI.
Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự
nhiên, dân cư, chế độ chính trị xã hội và cả về kinh tế với Trung Quốc. Cũng
giống như Trung Quốc, Việt Nam đang tiến hành đổi mới đất nước, hướng tới
việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, Việt Nam tiến hành mở cửa, đổi mới đất nước sau Trung Quốc 8 năm và
cho đến nay thì những thành tựu kinh tế, thành tựu phát triển kinh tế vẫn còn là
khiêm tốn so với những thành quả to lớn của nước bạn và còn chưa xứng với
tiềm năng của chính Việt Nam. Vì vậy, để thành công hơn nữa trong công cuộc
phát triển kinh tế của Việt Nam thì việc tham khảo bài học kinh nghiệm của
Trung Quốc là rất cần thiết.


Trong bài tiểu luận này, em cố gắng đưa những vấn đề cơ bản nhất vai trò
của Nhà nước trong công cuộc cải cách mở cửa kinh tế ở Trung Quốc anh (chị)


hãy rút bài học kinh nghiệm để nâng cao chất lượng công cuộc đổi mới ở Việt
Nam" trong quá trình cải cách và mở cửa của Trung Quốc trong hơn 30 năm
qua.
Những nội dung chính của tiểu luận.
A. Nguyên nhân của cải cách mở cửa của Trung Quốc.
B. Nội dung đường lối, kết quả cải cách và mở cửa của Trung Quốc.
C. So sánh quá trình thực hiện đường lối kinh tế trung quốc thời kỳ
cải cách mở cửa từ năm 1978 đến nay với chính sách đổi mới kinh tế việt
nam từ năm 1986 đến nay.
D. Kinh nghiệm chuyển đối của nền kinh tế trung quốc và một vài
liên hệ với công cuộc đổi mới kinh tế của việt nam.

2


A - NGUYÊN NHÂN CỦA CẢI CÁCH MỞ CỬA CỦA TRUNG QUỐC.

Ngày 01/10/1949, trên lễ đài quảng trường Thiên An Môn lịch sử, trước
cuộc mít tinh của 30 vạn quân dân thủ đô Bắc Kinh, Chủ tịch Mao Trạch Đông
đã đọc”tuyên ngôn của chính phủ nhân dân trung ương nước CHND Trung
Hoa”tuyên bố với toàn thế giới sự ra đời của nước CHND Trung Hoa.
Lịch sử 60 năm của nước CHND Trung Hoa kể từ ngày thành lập cho tới
nay có thể chia làm ba giai đoạn:
+ Giai đoạn đi lên 1949-1957 gồm thời kì khôi phục kinh tế, cải cách dân
chủ (1949-1952) và thời kì thực hiên kế hoạch phát triển kinh tế, cải tạo XHCN
(1953-1957).
+ Giai đoạn khó khăn về kinh tế và chính trị (1958-1978) gồm phong trào
“nhảy vọt” (1958-1965) và phong trào “ cách mạng văn hoá” (1966-1978).
+ Giai đoạn cải cách mở cửa hiện đại hoá XHCN (1978 đến nay).
I. Thành tựu trong những năm đầu của CHND Trung Hoa-cải cách

dân chủ, cải tạo XHCN và phát triển kinh tế-xã hội (1949-1957).
Năm 1940 Mao Trạch Đông đã viết tác phẩm “bàn về chủ nghĩa dân chủ
mới”, trong đó ông chủ trương sau khi cách mạng giành lại chính quyền Trung
Quốc sẽ xây dựng một xã hội dân chủ mới tương đối lâu dài, sau đó mới xây
dựng xã hội XHCN. Ba năm khôi phục kinh tế cải cách dân chủ (chủ yếu là cải
cách ruộng đất với khẩu hiệu”người cày có ruộng”) là sự mở đầu cho việc xây
dựng xã hội dân chủ mới (mà cho tới đầu năm 1952 Chủ tịch Mao Trạch Đông
dự kiến sẽ kéo dài khoảng 15 năm). Nhưng đến tháng 9/1952, Mao Trạch Đông
lại quyết định chuyển sang “quá độ lên CNXH” và chủ trương sẽ xây dựng thành
công CNXH trong thời gian vài ba kế hoạch 5 năm, mở đầu là kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất (từ năm 1953-1957).
Dưới ánh sáng của những nhận thức ngày nay, không cần phân tích nhiều
chúng ta có thể kết luận: Cải tạo quan hệ sản xuất quá nhanh như vậy là nóng
vội, không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lúc bấy giờ.
Thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cao độ sau đó cũng đã bộc lộ những khiếm
khuyết của nó. Nhưng mặt khác, chúng ta cũng không thể phủ nhận những thành
quả tích cực của công cuộc cải tạo XHCN. Qua cải tạo XHCN đối với công
3


thương nghiệp TBCN, khu vực kinh tế nhà nước còn quá yếu kém đã có điều
kiện để phát triển một bước tạo cơ sở vật chất đầu tiên cho quá trình cải cách
CNXH sau này. Phong trào tập thể hoá nông nghiệp quá nóng vội, tổ chức quản
lí hợp tác xã chưa tốt, nhưng tập thể hoá ruộng đất là một thành quả cần khẳng
định. Thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cao độ có nhiều khiếm khuyết, duy trì
quá lâu sẽ làm xơ cứng hoạt động kinh tế. Nhưng trong bối cảnh Trung Quốc
những năm 1950, thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cao độ có vai trò lịch sử của
nó. Trong điều kiện kinh tế còn quá yếu kém nó tạo điều kiện cho nhà nước có
thẻ phân bố nguồn lực, tổ chức sản xuất có hiệu quả.
Tóm lại, mặc dầu còn trong giai đoạn “dò đá qua sông”, mò mẫm trên con

đường xây dựng xã hội mới, nhưng nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và nhà
nước, nhờ sự nhiệt tình lao động của hàng trăm triệu lao động vừa được giải
phóng khỏi chê độ cũ, tình hình kinh tế xã hội Trung Quốc đã phát triển theo
hướng đi lên, công cuộc xây dựng XHCN đă thu được những thành quả bước
đầu quan trọng.
II. Những năm khó khăn của CHND Trung Hoa, phong trào ”nhảy
vọt “ và “cách mạng văn hoá “(1958-1977).
Tháng 9-1956, Đảng Cộng Sản Trung Quốc họp đại hội VIII, nhận định
cải tạo XHCN về cơ bản đã hoàn thành, nhưng đến tháng 5/1958 Đảng Cộng
Sản Trung Quốc lại tiến hành kì họp lần thứ II của đại hội VIII, phủ nhận nghị
quyết của kì họp thứ I, Chủ tịch Mao Trạch Đông cho rằng mâu thuẫn chủ yếu
trước mắt của Trung Quốc là mâu thuẫu giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản,
giữa con đường XHCN và con đường TBCN. Căn cứ vào ý kiến của Chủ tịch
Mao, đại hội đã đề ra đường lối chung “dốc hết sức lực, vươn lên hàng đầu, xây
dựng XHCN nhiều, nhanh, tốt, rẻ “ và phát triển “đại nhảy vọt” sau đó lại xuất
hiện phát triển “công xã nhân dân” ở nông thôn.
Những năm “đại nhảy vọt” với các phát triển “toàn dân làm gang thép”,
“sản lượng nông nghiệp mỗi năm tăng gấp đôi” v.v...đã làm tổn hại rất lớn nền
kinh tế và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhân dân.Sản xuất công
nghiệp mất cân đối nghiêm trọng. Từ năm 1957 đến năm 1960 sản lượng lương
4


thực giảm 26,4% (từ 195 triệu tấn giảm xuống 143,5 triệu tấn) trong khi dân số
tăng 15,5 triệu người. Hàng tiêu dùng công nghiệp cực kì khan hiếm. Nạn đói
diễn ra hết sức nghiêm trọng từ thành phố đến nông thôn. Đến tháng 9/1960
chính phủ Trung Quốc đã chủ trương chuyển sang “điều chỉnh, củng cố, bổ
sung, nâng cao”, hạn chế những sai lầm và tổn thất do phong trào “nhảy vọt” tạo
ra. Đến năm 1965, theo thống kê của chính phủ, tổng giá trị sản phẩm công
nghiệp tăng 59,9% so với 1957, riêng sản lượng lương thực chỉ mới xấp xỉ mức

năm 1957.
Bước vào năm 1966, Mao Trạch Đông đã phát động cuộc “đại cách
mạng văn hoá vô sản”, đã gây ra những biến động vô cùng to lớn trong đời sống
kinh tế,chính trị, xã hội ở Trung Quốc. Trong nông nghiệp, Trung Quốc tập
trung đầu tư phát triển công nghiệp nặng, đặc biệt là công nghiệp quân sự. Ở
Trung Quốc thời kì này chi phí quân sự rất cao, thường chiếm khoảng 10% tổng
sản phẩm xã hội, chiếm 40% trong tổng số ngân sách nhà nước.
Trong nông nghiệp, các công xã nhân dân lại quay trở về với chính sách
tăng cường xã hội hoá tư liệu sản xuất, sức lao động. Kinh tế phụ của gia đìng
nông dân bị xoá bỏ. Hoạt động tài chính nhà nước đẩy nhanh tích luỹ từ nông
nghiệp do vậy đời sống kinh tế người lao động gặp nhiều khó khăn. Trên thực tế
qua ba năm đỉnh cao của thời “đại cách mạng văn hoá vô sản” sản lượng các
loại sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều giảm sút và không tăng.

Bảng 1: Sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu
Chủng loại sản phẩm
Phân bón (triệu tấn)
Than (triệu tấn)
Thép (triệu tấn)
Xi măng (triệu tấn)
Lương thực (triệu tấn)
Vải (tỉ mét)

1966
9.6
248.0
13.0
17.0
212.0
6.7


1967
8.1
190.0
10.0
14.0
218.0
5.5

1968
9.5
205.0
14.0
14.0
212.0
6.0

Nhìn vào tiềm lực công nghiệp của Trung Quốc trong một số ngành so
với một số nước trên thế giới là thấp kém. Nếu sản lượng tính bình quân theo

5


đầu người về điện: Trung Quốc kém Mỹ 67 lần, kém Liên Xô 28 lần, kém Anh
32 lần. Về thép kém Liên Xô 20 lần, kém Mỹ 19 lần, kém Nhật 32 lần...
Với nông nghiệp, sản xuất ngày càng trì trệ, vì vậy thu nhập của người lao
động thấp, đồng thời sản xuất hàng hoá ngũ cốc giảm xuống 15% so với trước
đó (1953-1957) là 28%.
Do sản xuất công-nông nghiệp ở tình trạng nói trên nên ngoại thương
cũng bị giảm xút. Tới năm 1971 kim ngạch ngoại thương mới đạt bằng năm

1959 là 4,4 tỉ (USD).
Như vậy, trong thời kì “ cách mạng văn hoá ”, do chính sách kinh tế đặt
ra ở Trung Quốc là chưa đúng hoàn cảnh, như : chế độ phân phối sản phẩm theo
nhu cầu trong điều kiện sản xuất xã hội còn thấp kém, chính sách quân sự hoá
nền kinh tế… Hậu quả là chính trị - xã hội rối loạn, lòng dân li tán và sản xuất bị
đình đốn.
Năm 1976, Mao Trạch Đông từ trần, Đặng Tiểu Bình lên thay, tiếp tục
lãnh đạo Đảng và Trung Quốc. Trung Quốc chủ trương thực hiện “bốn hiên đại
hoá”: Công nghiệp, nông nghiệp, khoa học kĩ thuật và quốc phòng. Mục tiêu
“bốn hiện đại hoá” thể hiện những tham vọng rất lớn. Trong giai đoạn đầu
(1976-1985) sản lượng phải tiến tới đạt được: thép 60 triệu tấn, lương thực 400
triệu tấn/năm...Để thực hiện những chủ trương trên Trung Quốc cố gắng tăng
nhanh tích luỹ, đẩy mạnh nhập khẩu trang thiết bị và vay vốn của nước ngoài. Tỉ
lệ tích luỹ trong thu nhập quốc dân tăng tới 36,5%. Trung Quốc tăng cường đầu
tư cho xây dựng cơ bản, năm 1978 là 45 tỉ NDT (bằng 1,5 lần năm 1977).
Nguồn vốn đầu tư của Trung Quốc chủ yếu tập trung cho khu vực sản xuất vỡi
những ngành công nghiệp hiện đại. Do vậy, khu vực phi sản xuất bị xem nhẹ.
Từ đó, những vấn đề ăn ở, văn hoá, y tế, giáo dục trong tình trạng thấp kém
không được chú ý.
Những diễn biến kinh tế ở Trung Quốc những năm 1976-1978 đã phản
ánh sự nôn nóng, đây là quá trình tiếp nối chủ trương “đại nhảy vọt” của thời
gian trước. Do vậy, nó dẫn tới hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế xét trên
phương diện cơ cấu và hiệu quả. Với nông nghiệp, năm 1957 chiếm tỉ trọng
43% thì năm 1978 hạ xuống 27% (trong tổng sản lượng giá trị công-nông
6


nghiệp). Cũng trong thời gian ấy, tỉ trọng công nghiệp từ 56% tăng lên 72%
trong tổng giá trị sản lượng công-nông nghiệp. Với tình trạng nông nghiệp như
vậy, nên trong thời gian 1976-1978 hàng năm Trung Quốc phải nhập khẩu một

lượng lương thực và thực phẩm thường chiếm 20% trong tổng giá trị hàng hoả
nhập khẩu. Công nghiệp nhẹ cũng trong tình trạng tương tự khiến cho hàng hoá
tiêu dùng khan hiếm, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Tóm lại, qua đó, ta có thể thấy được Trung Quốc tiến hành cải cách mở
cửa trong bối cảnh lịch sử đặc thù không giống với bất cứ nước nào trên thế
giới, biểu hiện chủ yếu như sau:
Thứ nhất, cải cách mở cửa được thực hiện trong bối cảnh sự nghiệp
XHCN đã trải qua những bước quanh co gian khổ, nhất là đã trải qua bài học
đau xót của “cách mạng văn hoá”, nền kinh tế đứng bên bờ sụp đổ.
Thứ hai, cải cách mở dửa được tiến hành trên cơ sở sức sản xuất tương
đối thấp.
Thứ ba, cải cách mở cửa được tiến hành dưới thể chế kinh tế kế hoạch tập
trung cao độ.
Thứ tư, cải cách mở cửa hầu như được tiến hành trên cơ sở của chế độ
công hữu đơn nhất.
Thứ năm,cải cách mở cửa tiến hành trong tình trạng đóng cửa, nửa đóng
cửa và hoàn cảnh quốc tế đặc biệt.
Những điều kiện cũng như khó khăn trên đưa Trung Quốc vào những
thách thức mới trên con đường hoà nhập vào hệ thống kinh tế thế giới và buộc
Trung Quốc phải có những biện pháp, chủ trương cải cách kinh tế nếu không
muốn bị tụt hậu, không muốn đưa nhân dân vào cảnh lầm than. Từ đó Trung
Quốc đã bắt tay vào công cuộc cải cách kinh tế từ năm 1978 đến nay.

B - NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI, KẾT QUẢ CẢI CÁCH VÀ MỞ CỬA
CỦA TRUNG QUỐC.
Hội nghị trung ương III khoá XI Đảng cộng sản Trung Quốc được coi là
một cuộc “giải phóng tư tưởng” mở đường cho công cuộc cải cách thể chế hiện
7



đại hoá đất nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hoá ở Trung
Quốc.
Nhiệm vụ quan trong hàng đầu của cuộc cải cách là cải cách thể chế kinh
tế. Sóng gió của tiến trình cải cách mở cửa của Trung Quốc hơn 20 năm qua đã
trải qua 3 giai đoạn phát triển:
+ Giai đoạn thứ nhất (từ tháng 12-1978 đến tháng 9-1984) là giai đoạn
khởi đầu của cải cách.Trọng điểm của cải cách là ở nông thôn, đồng thời tiến
hành mở rộng thí điểm quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp quốc hữu ở thành
phố đã xây dung đặc khu kinh tế.
+ Giai đoạn thứ hai (từ tháng 10-1984 đến tháng 12-1991)là giai đoạn
triển khai cải cách. Trọng điểm của cải cách ở thành phố, xí nghiệp quốc hữu là
khâu trung tâm của cả cuộc cải cách, cảicách giá cả là then chốt. Cải cách từ lĩnh
vực kinh tế mở rộng sang các lĩnh vực xã hội như khoa học kĩ thuật, giáo dục.
+ Giai đoạn thứ ba (từ đầu năm 1992 đến nay) là giai đoạn bước đầu xây
dung thể chế kinh tế thị trường XHCN.Trọng điểm của cải cách là sáng lập chế
độ, chủ yếu mở rộng và phát triển thêm thị trường , xây dung chế độ xí nghiệp
hiện đại, xây dựng hệ thống điều tiết vĩ mô mới. Nếu nói nhiệm vụ chủ yếu của
hai giai đoạn đầu là xóa bỏ chế độ cũ, dỡ bỏ ngôi nhà cũ thì nhiệm vụ của giai
đoạn thứ ba là sáng lập thể chế mới, xây dựng ngôi nhà mới. Tuy nhiên, chúng
tôi sẽ phân tích theo cơ cấu sau.
I. Cải cách nông nghiệp là nhiệm vụ cần thiết.
Cuộc cải cách lần này thực chất là giao ruộng đất cho nông dân để họ thực
sự làm chủ đồng ruộng của mình(chế độ khoán). Chỉ trong 5 đến 6 tháng 5,7
triệu đội sản xuất nông nghiệp đã chuyển thành 180 triệu đơn vị sản xuất gia
đình. Trong thời gian này, toàn bộ ruộng đất, gia súc, nông cụ và các tài sản
công hữu khác đã được chia cho các gia đình nông dân. Cuộc cải cách đã cải
thiện đáng kể đời sống nông thôn, đồng thời cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn để
cần giải quyết.
Sau cải cách, toàn bộ số ruộng trên cả nước(khoảng 100 triệu ha) đã được
chia thành 1500 triệu mảnh nhỏ, diện tích trung bình mỗi mảnh khoảng một

8


mẫu(0,067ha). Kết quả của cuộc cải cách là đáng mừng do Trung Quốc đã tìm ra
cơ chế, chính sách quản lí nông nghiệp mới phù hợp với quy luật phát triển kinh
tế khách quan, đi vào cải cách thực hiện khoán trách nhiệm đến từng hộ nông
dân đi đôi với cải cách chính sách giá cả và cơ chế lưu thông nông sản, thúc đẩy
nông nghiệp tăng trưởng và phát triển. Đi đôi với khoán hộ tạo đIều kiện cho
nông nghiệp phát triển Trung Quốc đã chủ trương xây dựng các xí nghiệp hương
trấn để phát triển công nghiệp nông thôn, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo
hướng công nghiệp hiện đại hoá. Ở đây xin đề cập đến một trong những “điểm
sáng” đặc sắc của nền kinh tế thị trường XHCN Trung Quốc là các xí nghiệp
hương trấn(hình thức “doanh nghiệp thôn xã”).
Thời kì đầu cải cách, nông nghiệp Trung Quốc đã đạt được những thành
tựu to lớn, làm rung động cả nước, nhưng từ năm 1985 sản xuất nông nghiệp bị
chững lại. Nông thôn xuất hiên nhiều vấn đề cấp bách làm tổn hại đến lợi ích
của nông dân, tác hại đến tính tích cực của sản xuất. Nhưng không phảI tất cả
các ngành kinh tế ở nông thôn Trung Quốc đều gặp khó khăn. Các ngành phi
nông nghiệp ở nông thôn ngược lại đang rất phát đạt, được đánh giá cao. Ngay
từ cuối những năm 50, ở Trung Quốc đã xuất hiện những xí nghiệp xã đội: là
nhưng đơn vị sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp do các công xã và đại đội sản
xuất ở nông thôn lập ra. Năm 1978 có 1,5 triệu xí nghiệp xã đội với 28 trệu lao
động. Cuộc cải cách ở nông thôn đã tạo ra những tiền đề quan trong cho sự phát
triển các xí nghiệp xã đội nhỏ sản xuất tăng trưởng nhanh, đồng thời số lượng
lớn lc lượng lao động của nông thôn cũng tăng nhanh đòi hỏi các ngành phi
nông nghiệp thu nhận. Do vậy đến năm 1983, số người làm việc trong các xí
nghiệp này tăng lên 32,347 triệu người. Năm 1984, xí nghiệp xã đội đổi tên
thành “xí nghiệp hương chấn” bao gồm các xí nghiệp tập thể của xã thôn, xí
nghiệp hội kinh doanh 5 ngành lớn là công nghiệp, công nghiệp chế biến nông
sản, xây dựng, giao thông vận tải, dịch vụ và thương nghiệp. Trải qua nhiều

năm, xí nghiệp hương chấn Trung Quốc không ngừng lớn mạnh và đã đóng góp
đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Đến cuối năm 1993 tổng số xí nghiệp hương
chấn tăng lên tới 24,592 triệu, giá trị tổng sản lượng đạt 2902,26 tỉ NDT có
123,451 triệu lao động, làm ra 52% giá trị ròng tăng thên của xã hội. Với 62%
9


số tăng thu nhập ròng của nông dân là từ xí nghiệp hương chấn và 68% mức
thuế tăng thêm trong năm là do xí nghiệp hương chấn đóng góp, đã tạo ra nguồn
ngân sách lớn cho Trung Quốc.
* Những thành tựu phát triển và cải cách của nông nghiệp Trung Quốc.
Trong 60 năm qua, đặc biệt là hơn 30 năm cải cách nông nghiệp Trung
Quốc đã có những thành tựu đáng ghi nhận về cơ chế tổ chức, chính sách quản lí
nông nghiệp thích hợp về xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, về khoa học công
nghệ nông nghiệp ...
Kết quả là tổng sản lượng các loại nông sản chủ yếu đều tăng trưởng với
mức độ cao. Thời gian từ 1949-1999, tổng sản lượng lương thực tăng 4,5 lần,
tổng sản lượng dầu ăn tăng 6 lần, tổng sản lượng đường tăng 26 lần, tổng sản
lượng trái cây tăng 25 lần, tổng sản lượng bông vải tăng 7,5 lần, tổng sản lượng
thịt các loại tăng 15 lần, tổng sản lượng thuỷ sản nội địa và hảI sản tăng 40
lần ... đã đáp ứng về cơ bản nhu cầu lương thực, thực phẩm của xã hội.
Diện tích canh tác đến năm 1999-2000 đã duy trì ở mức 95-96 triệu ha,
trong đó diện tích lúa nước trên 25 triệu ha và diện tích đất trồng cạn khoảng 70
triệu ha. Diện tích gieo trồng hàng năm duy trì ở mức 150 triệu ha, trong đó diện
tích gieo trồng cây lương thực là 110 triệu ha.
Thành tựu to lớn nhất của nông nghiệp Trung Quốc sau 60 năm qua là sản
xuất lương thực, đảm bảo cơ bản cái ăn cho 1,4 tỉ người Trung Quốc: mỗi ngày
tiêu thụ 750 triệu kg lương thực, 60 triệu kg thịt lợn, 10 triệu kg dầu ăn... Với
diện tích canh tác chỉ chiếm 7% diện tích canh tác của thế giới nhưng đến nay
Trung Quốc đã sản xuất được trên 20% sản lượng lương thực của thế giới và

nuôi sống được 22% dân số của thế giới. Đây không chỉ là kì tích, là niềm tự
hào của nền nông nghiệp Trung Quốc trong nửa thế kỉ qua, mà còn được coi là
một thành tựu nổi bật đáng khâm phục của nông nghiệp thế giới. Bình quân
lương thực của Trung Quốc năm 1949 là 197 kg/người bằng 73% bình quân
lương thực trên đầu người của thế giới. Đến năm 1995 đạt gần 400 kg/đầu người
và bằng 98% bình quân lương thực thế giới...
10


Đến nay Trung Quốc đứng đầu thế giới về tổng sản lượng hạt cốc, lúa mì,
lúa nước, khoai tây, rau dầu lợn và cá. Đứng thứ hai trên thế giới về tổng sản
lượng ngô, bông, chè, trái cây, cừu và lượng gỗ khai thác hàng năm. sản lượng
nông sản bình quân đầu người của Trung Quốc chưa cao vì dân số quá lớn (1,4
tỉ người) nhưng đối với cac nông sản chủ yếu đã có mức tăng trưởng nhanh.
Như sản lượng rau xanh bình quân đầu người của Trung Quốc là 250 kg vượt
bình quân của thế giới. Sản lượng lương thực đạt gần 400kg, thịt đạt gần 50 kg,
trứng đạt 17kg xấp xỉ bình quân thế giới. Từ năm 1991 đến nay, sản lượng thịt
và trứng của Trung Quốc hàng năm đều vượt Mĩ. Sản lượng rau xanh của Trung
Quốc hiện nay đạt 320-350 triệu tấn/năm chiếm trên 50% sản lượng rau của toàn
thế giới. Sản lượng trái cây các loại của Trung Quốc đạt khoảng 35 tấn/năm,
đứng thứ nhì thế giới sau Mĩ. Riêng sản lượng táo và lê của Trung Quốc nhiều
gấp đôI Mĩ. Sản lượng quả có múi của Trung Quốc đạt 7 triệu tấn/năm đứng thứ
3 thế giới. Trong 10 năm gần đây, nghề trồng hoa của Trung Quốc tăng cả về
diện tích, sản lượng và doanh thu. Diện tich trồng hoa tăng 4,5 lần, giá trị sản
lượng tăng 5 lần. Đến nay cả nước có gần 100.000 ha trồng hoa tạo ra nguồn thu
nhập 3 tỉ NDT. Hoa của Trung Quốc bắt đầu vươn ra thị trường thế giới. Riêng
thành phố Côn Minh tỉnh Vân Nam có 350 ha hoa, hàng tháng sản xuất trên 1
triệu bông hoa và bắt đầu xuất khẩu sang Nhật và một số nước khác.
Nông nghiệp Trung Quốc chuyển động mạnh mẽ từ công nghiệp cổ
truyền sang công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Trong hơn 60 năm qua, nông nghiệp Trung Quốc không chỉ dừng lại ở
việc ứng dụng khao học công nghệ thâm canh cổ truyền mà đã tích cực nghiên
cứu, tìm tòi ứng dụng các công nghệ mới phù hợp với yêu cầu tăng năng suất
cây trồng vật nuôi, tăng năng suất nông nghiệp và tăng sản lượng đất đai trong
từng niên vụ sản xuất.
Trước hết, công nghệ sinh học được nghiên cứu ứng dụng có kết quả phục
vụ cho lai tạo giống mới và nhân giống. Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế
giới nghiên cứu được nhiều giống lúa lai đưa vào sản xuất đại trà trong 25 năm
gần đây trên diện tích gần 20 triệu ha, làm tăng năng suất từ 10-25 tạ/ha. Kĩ
11


thuật nhân giống bằng nuôi cấy mô cũng được ứng dụng rộng rãi đối với mía,
chuối....
Về thuỷ nông, đã xây dựng một hệ thống hồ chứa nước mặt giếng nước
ngầm, hệ thống kênh mương và máy móc, thiết bị tưới tiêu đảm bảo cho hơn 45
triệu ha gieo trồng.
Cơ giới hoá nông nghiệp cũng phát triển khá nhanh. Năm 1950 Trung
Quốc mới có 400 chiếc máy kéo, đến năm 1978 có 550 nghìn máy kéo lớn và
1,37 triệu máy kéo nhỏ. Đến nay có gàn 600000 máy kéo lớn và gần 9 triệu máy
kéo nhỏ. Mức độ cơ giới hoá các khâu sản xuất nông nghiệp chủ yếu hiện nay về
làm đất đạt 55-60% diện tích gieo trồng, tưới tiêu, nước 70%, vận chuyển 60%.
Từ năm 1996 đến nay, Trung Quốc đã đưa vào ứng dụng rộng rãi trong
sản xuất 10 hạng mục kĩ thuật mới, trong đó có các giống lúa lai kĩ thuật trồng
rau ... việc ứng dụng khoa học công nghệ mới trong nông nghiệp đảm bảo tăng
trưởng nông nghiệp 40%.
Đúc kết kinh nghiệm phát triển và cải cách nông nghiệp thời gian qua.
Đảng cộng sản Trung Quốc đã họp hội nghị trung ương lần thứ III, khoá XV và
đã rút ra 5 kinh nghiệm cơ bản của hơn 30 năm cải cách nông nghiệp là:
1. Cần phải thừa nhận và bảo đảm đầy đủ quyền tự chủ của nông dân,

phát huy tính tích cực của nông dân, hạt nhân là đảm bảo lợi ích vật chất của
nông dân, tôn trọng quyền dân chủ của nông dân...
2. Cần phát triển kinh tế nhiều loại sở hữu coi công hữu là chủ thể, thực
hiện sở hữu tập thể đối với ruộng đất kinh doanh khoán gia đình, tách quyền sử
dụng với quyền sở hữu, sử dụng thể chế kinh doanh hai tầng...
3. Kiên trì cải cách theo hướng thị trường, tạo ra sức sống mới cho kinh tế
nông thôn. Xây dựng địa vị chủ thể của trang trại trong kinh doanh tự chủ của
các nông hộ, khuyến khích nông dân phát triển sản xuất hàng hoá hướng về thị
trường. Cải cách thể chế lưu thông nông sản phẩm. Tăng cường cải thiện vai trò
điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với lương thực.
4. Tôn trọng đầy đủ tinh thần sáng tạo của nông dân, dựa vào quần chúng
thúc đẩy sự nghiệp vĩ đại của cải cách. Khoán hộ và xí nghiệp hương trấn là
12


những sáng tạo to lớn của nông dân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Kiên trì đường lối công tác căn bản “từ quần chúng mà ra, đi vào quần chúng ”.
5. Xuất phát từ toàn cục, coi trọng cao độ nông nghiệp, làm cho cải cách
nông thôn và cải cách thành thị phối hợp với nhau, phát triển hài hoà. Kiên trì
coi nông nghiệp là cơ sở, từ các mặt chính sách, khoa học kĩ thuật, đầu tư hỗi trợ
mạnh mẽ cho nông nghiệp.
II. Hiện đại hoá công nghệp là nhiệm vụ hàng đầu.
1. Tăng cường vốn đầu tư hiện đại hoá trang thiết bị của các ngành
công nghiệp để sản xuất nhiều hàng xuất khẩu.
Để hiện đại hoá nền công nghiệp, Trung Quốc trước hết tăng cường đầu
tư cho các cơ sở sản xuất bằng các nguồn vốn của nhà nước, của tư bản nước
ngoài đưa vào và vốn đi vay của nước ngoài. Vốn của nước ngoài được sử dụng
trong thời gian từ năm 1979 đến năm1992 lên tới 98,43 tỉ (USD) trong đó có
34,51 tỉ (USD) là đầu tư trực tiếp, 60,08 tỉ (USD) là tín dụng. Trung Quốc nhập
nhiều thiết bị máy móc để thế cho các máy cũ, khuyến khích phát triển các xí

nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng thêm nhiều công trình mới, nhằm sản xuất ra
nhiều sản phẩm có chất lượng cao để xuất khẩu. Trung Quốc đã dùng 80% số
vốn vay được, chủ yếu để phát triển các nghành mũi nhọn và xây dựng cơ sơ vật
chất hạ tầng cho công nghiệp.
Để sử dụng vốn có hiệu, Trung Quốc cũng thay đổi cách quản lí trong
công nghiệp. Các xí nghiệp quốc doanh được nới rộng quyền hạn kinh doanh(tự
lập kế hoạch, tự tìm nguyên liệu và thị trường tiêu thụ...) nhà nước chỉ làm
nhiệm vụ đIều tiết, chỉ đạo ở cấp vĩ mô.Để có các mặt hàng có sức cạnh tranh
trên thị trường quốc tế, Trung Quốc một mặt hết sức coi trọng việc nhập khẩu kĩ
thuật từ nước ngoài, nhưng mặt khác cũng ra sức phát triển và nâng cao chất
lượng những sản phẩm của các ngành công nghiệp truyền thống, các mặt hàng
tiêu dùng vốn có tiếng như: tơ lụa, dụng cụ gia đình...Với chính sách tận dụng
nguồn nhân lực trong nước để chế biến và để bán ra nước ngoài các thành phẩm
với giá cao, Trung Quốc vừa giải quyết được tình trạng thừa lao động, vừa thu
hút được nhiều ngoại tệ mạnh.
13


2. Những thay đổi trong sản xuất và phân bố công nghiệp.
Giá trị sản lượng công nghiệp đã chiếm 45% GDP. Tỉ lệ hàng công
nghiệp tham gia vào cán cân buôn bán với nước ngoài ngày càng tăng. Trung
Quốc đứng đầu thế giới về sản lượng than, xi măng, vải bông sợi. Trước năm
1988 Trung Quốc phát triển mạnh các ngành công nghiệp truyền thống như:
luyện kim, dệt, công nghiệp nhẹ vv..Gần đây Trung Quốc tập trung phát triển
nhiều ngành công nghiệp hiện đại như: điện tử, cơ khí chính xác, hoá chất và du
lịch, vv.. nhằm thay đổi đáng kể cơ cấu các ngành công nghiệp. Các trung tâm
công nghiệp cũ ở vùng Đông Bắc Trung Quốc như Cáp Nhĩ Tân, Thẩm Dương,
An Sơn với các ngành công nghiệp nặng được tiếp tục phát triển.
Các thành phố Bắc Kinh, Thái Nguyên, Bao Đầu(vùng Hoa Bắc) có cả
các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và thực phẩm.Ngày nay vùng hạ

lưu sông Trường Giang (Hoa Trung) cũng trở thành vùng công nghiệp quan
trong với hai trung tâm lớn: Thượng Hải, Vũ Hán. Ngoài ra các ngành công
nghiệp năng lượng , khai khoáng, hoá chất cũng bắt đầu được phát triển mạnh ở
các tỉnh và thành phố miền Tây (Lan Châu, Tây An... ).Đặc biệt các mặt hàng
vật liệu xây dựng, đồ gốm, sứ, hàng dệt được sản xuất ở khắp các vùng nông
thôn.

Bảng 2: Sản lượng một số ngành công nghiệp (1990)
Loại sản phẩm
Sản lượng
Than(triệu tấn)
1000
Thép(triệu tấn)
71
Dầu mỏ(triệu thùng)
1040
Điện(triệu kw/h)
620000
Dệt bông vải(triệu mét)
15800
Len, dạ, tơ, lụa(triệu mét)
240
Tốc độ phát triển công nghiệp tăng nhanh, mức tăng bình quân hàng năm
thời kì 1978-1992 là 13,2%, giá trị sản phẩm công nghiệp thời kì này tính theo
giá so sánh tăng 1,7 lần. Năm 1993 sản xuất tăng trưởng mạnh mẽ. So với năm
1992 tăng tới 23,6%, giá trị sản lượng đạt 4047,2 tỉ(NDT). Giá trị tàI sản cố định
của công nghiệp cả nước năm 1993 đạt 1996,3 tỉ(NDT), so với con số 340
14



tỉ(NDT) của năm 1978 thì tăng 1656,3 tỉ(NDT).Qua xây dựng cơ bản, năng lực
sản xuất các sản phẩm chính mới tăng thêm trong thời gian này là:
Bảng 3: Năng lực sản xuất các sản phẩm chính mới tăng thêm

Loại sản phẩm

Sản lượng tăng thêm

Gang (triệu tấn)

13,33

Thép (triệu tấn)

14,13

Than (triệu tấn)

184,35

Nhựa (triệu tấn)

1,42

Hoá chất (triệu tấn)

6,64

Xi măng (triệu tấn)


46,48

Gỗ (triệu m3)

5,81

Xe đạp (triệu chiếc)

7,25

Mười lăm năm qua, trình độ kĩ thuật công nghiệp Trung Quốc được nâng
cao rõ rệt. Hiện nay có khoảng 40% sản phẩm sử dụng tiêu chuẩn kĩ thuật quốc
tế, khoảng 30% sản phẩm cơ điện có chỉ tiêu chất lượng đạt trình độ quốc tế của
thập kỉ 70, đầu thập kỉ 80.
Nhờ sản xuất tăng, kĩ thuật khá nên hàng công nghiệp xuất khẩu ngày
càng nhiều. Kim nghạch xuất khẩu hàng tháng sản phẩm công nghiệp năm 1980
là 9 tỉ (USD), đã tăng lên 75,1 tỉ (USD) vào năm 1993, tức là tăng 7,3 lần; tỉ
trọng hàng xuất khẩu từ chưa đầy một nửa tăng lên 81,8%. Do đó công nghiệp
đã trở thành ngành sản xuất tạo nguồn ngoại tệ chủ yếu của Trung Quốc, đáng
kể là các ngành sản xuất máy cái, máy dệt, máy chế bién lương thực, thực phẩm,
xe hơi, máy khâu, quạt điện, đồng hồ...và gần đây còn thêm các ngành máy bay
dân dụng, tàu biển, đồ dùng điện gia đình.
III. Cải cách thể chế ngoại thương.
Trung Quốc đã thực hiện cải cách điều chỉnh mạnh mẽ trong cả hai mặt
quản lí hành chính ngoại thương và quản lí kinh doanh của các xí nghiệp, công
ty ngoại thương bằng các chính sách:
15


- Điều chỉnh cơ cấu quản lí hành chính ngoại thương.

- Thực hiện tách chức năng chính quyền và xí nghiệp.
- Cải cách thể chế kế hoạch ngoại thương.
- Cải cách thể chế quản lí ngoại hối và thuế: sau năm 1979 Trung Quốc đã
chú trọng cải cách thể chế quản lí ngoại hối thông qua một số hình thức: điều
chỉnh hối xuất: Năm 1994 để thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế đối
ngoại, Trung Quốc đã bắt đầu thả nổi ngoại tệ có quản lí. Việc thả nổi hối xuất,
không những đã phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế TrungQuốc mà nó
còn tạo điều kiện cho đồng NDT đi vào thị truờng thế giới.
* Áp dụng một số biện pháp điều chỉnh trong quản lí ngoại tệ vốn có
trong nhân dân. Trong hoạt động ngoại thương Trung Quốc cũng đã thực hiện
một loạt các cải cách sau:
- Áp dụng một số biện thu thuế xuất nhập khẩu: Đối với hàng hoá xuất
khẩu, nếu hàng hoá có doanh thu lớn thì thhu thuế điều tiết xuất khẩu, nếu xuất
khẩu không có lãi hoặc lợi nhuận dưới 7,5% thì không thu...
- Tăng cường thúc đẩy các xí nghiệp từng bước thực hiện đổi lợi nhuận
sang thuế, độc lập kinh doanh, tự chịu lỗ lãi.
- Thực hiện chế độ hoàn vốn xuất khẩu.
Ngoài ra, các quan hệ kinh tế đối ngoại đã góp phần quan trọng vào việc
cải cách kinh tế- xã hội của Trung Quốc. Từ năm 1978 tới nay, Trung Quốc đã
mạnh dạn thực hiện chính sách mở cửa, tận dụng các điều kiện thuận lợi trong
quan hệ quốc tế để phát triển nền kinh tế quốc dân. Để thu hút vốn đầu tư của
nước ngoài, Trung Quốc đã thành lập các đặc khu kinh tế một số thành phố và
vùng ven biển. Trong các đặc khu kinh tế, các dịch vụ kinh doanh và hàng hoá
xuất khẩu đều được hưởng chính sách ưu đãi. Các đặc khu kinh tế được coi là
đội quân tiên phong mở cửa với thế giới bên ngoài của Trung Quốc, một kênh
độc đáo để Trung Quốc tận dụng vốn, kĩ thuật nước ngoài và liên hệ với thị
trường thế giới và cũng là nơi thử nghiệm tổng hợp chính sách cải cách của
Trung Quốc. Các đặc khu lớn như Thẩm Quyến, Chu Hải, Hạ Môn và Sán Dầu
đã đóng góp rất lớn cho nền kinh tế quốc dân. Tổng giá trị sản phẩm công
nghiệp của bốn đặc khu năm 1990 đạt 28,25 tỉ USD, gấp 26 lần so với năm

16


1979, trước khi lập đặc khu. Nếu tính cả tỉnh Hải Nam, đặc khu thứ năm của
Trung Quốc thì tổng kim ngạch xuất khẩu của năm đặc khu đạt 15,66 tỉ USD,
tăng 13,6% so với năm trước. Năm 1991 Thẩm Quyến thu hút được một triệu
USD tiền vốn, tăng 44% so với 1990, Chu Hải thu hút được 850 triệu USD, tăng
75%. Sán Dầu thu hút được 750 triệu USD, tăng 200%. Năm đặc khu kinh tế có
kim ngạch ngoại thương bằng 20% của cả nước. Trong đó riêng Thẩm Quyến
đạt 61% doanh thu của cả năm đặc khu. Các đặc khu cũng tăng trưởng xuất
khẩu, phát triển du lịch thu ngoại tệ cho nhà nước. Riêng ở Thẩm Quyến, số
khách du lịch nước ngoài hằng năm lên đến hơn 1 triệu lượt người, tương đương
với lượng du khách các vùng khác trong nước. Các đặc khu kinh tế còn là nơi thí
điểm các biện pháp cải cách kinh tế mới nhằm nêu gương và thúc đẩy cải cách
trong nội địa như lập thị trường chứng khoán, mua bán cổ phiếu, tuyển chọn
người tài giỏi. Đây cũng là trường học, đào tạo cán bộ quản lí kinh doanh giỏi,
thích nghi với thị trường quốc tế. Mối giao thương và liên hệ với Hồng Kông,
Ma Cao, Đài Loan cũng tăng lên rõ rệt. Các đặc khu kinh tế với bốn cửa sổ phục
vụ cho mục tiêu kinh tế và chính trị của Trung Quốc đã làm được chức năng của
chúng về cơ bản.
Trung Quốc còn tích cực vay tiền của nước ngoài ( Nhật, Bỉ, Hà Lan,
ngân hàng thế giới ...) để phát triển kinh tế trong nước. Cho tới năm 1995, Trung
Quốc đã dùng trên 160 tỉ USD vốn đầu tư của nước ngoài để xây dựng các công
trình trong các lĩnh vực khác nhau như năng lượng, giao thông vận tải và cơ sở
hạ tầng( nhà ở, đường ống nước).
Trung Quốc một mặt tăng cường trao đổi khoa học kĩ thuật, kinh nghiệm
quản lí kinh tế với nước ngoài, mặt khác mở rộng buôn bán với thế giới. Hàng
xuất khẩu chủ yếu là hàng dệt, sản phẩm công nghiệp nhẹ, thực phẩm, gia cầm...
Hàng nhập khẩu phần lớn là máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, một ít hàng tiêu
dùng và nông phẩm. Tổng xuất khẩu kim ngạch xuất nhập khẩu năm 1995 lên

đến 280 tỉ USD.
Trung Quốc còn chú ý đến việc khai thác các di tích văn hoá, lịch sử và
cảnh quan thiên nhiên để phục vụ du lịch. Năm 1995, 46 triệu khách du lịch đã
tới thăm Trung Quốc-năm 1995 nguồn thu của nghành này lên đến 9 tỉ USD.
17


DỰ ĐOÁN TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG CỦA CÁC NGÀNH
Thực tế
1985-1995

Ước tính
1996-2000

2001-2010

2011-2020

1995-2020

GDP

9,8

8,4

6,9

5,5


6,5

Nôngnghiệ

4,2

3,1

4,2

3,7

3,8

p

13,1

8,2

6,6

5,4

6,6

Côngnghiệp

9,8


9,7

8,1

6,0

7,5

Dịch vụ

IV. Các vùng kinh tế chính của Trung Quốc.
-Vùng Đông Bắc: là vùng có những cơ sở công nghiệp nặng quan trọng

của Trung Quốc. Trong vùng có các nguồn nguyên liệu phong phú, tạo đIều kiện
thuận lợi cho việc phát triển các ngành công nghiệp:khai khoáng(than, quạng
sắt, dầu mỏ ), luyện kim, cơ khí, hoá chất và dệt. Các trung tâm công nghiệp lớn
là: Cáp Nhĩ Tân, Thẩm Dương, Phú Thuận, An Sơn và cảng Đại Liên. Nông sản
chủ yếu là: lúa mì, ngô, cao lương, củ cải đường,khoai tây và hạt hướng dương.
-Vùng Hoa Bắc: nằm ở hạ lưu sông Hoàng Hà, là vùng phát triển mạnh cả

về công nghiệp và nông nghiệp. Sản lượng công nghiệp của vùng chiếm khoảng
1/5 tổng sản lượng công nghiệp toàn quốc. Các ngành chính có khai thác nhiên
liệu(than, dầu mỏ), điện lực, luyên kim, hoá chất, cơ khí và chế biến nông sản.
Ngành đánh cá biển cũng khá phát triển. Các trung tâm công nghiệp lớn trong
vùng là: Thiên Tân, Thái Nguyên, Tế Nam, Thanh Đảo. Ở phía nam của vùng
nhờ có các công trình thuỷ lợi nên cũng trồng được lúa nước. Bắc Kinh là thành
phố lớn nhất trong vùng, đồng thời là thủ đô của Trung Quốc. Bên cạnh những
công trình kiến trúc cổ như: Cố Cung, Di Hoà Viên . . . Bắc Kinh đã và đang
xây dựng thêm nhiều khu phố hiện đại với các nha cao tầng với các quảng
trường lớn và hệ thống giao thông nội thị với các phương tiện hiện đại.

-Vùng Hoa Trung: nằm trên lưu vực và châu thổ sông Trường Giang. Dân

cư trong vùng rất đông đúc. Các ngành kinh tế chính gồm cả công nghiệp, nông
nghiệp và đánh cá biển. Các nông sản quan trọng có: lương thực (lúa mì, lúa
18


gạo), chè, đỗ, lạc, bông và rau quả. Các trung tâm công nghiệp đồng thời là cảng
lớn của vùng: Thượng Hải, Vũ Hán, Nam Kinh. Thượng Hải nằm bên cửa sông
Trường Giang là thành phố đông dân nhất Trung Quốc(12 triệu dân). Hoạt động
kinh tế chủ yếu là công, thương nghiệp.
-Vùng Hoa Nam: nằm ở khu vực gió mùa cận nhiệt đới nên có điều kiện

thuận lợi cho cây công nghiệp nhiệt đới phát triển. Ngoài lúa gạo Hoa Lan còn
sản xuất: chè, mía, cà phê, cao su, cam chanh...Trong vùng có nhiều mỏ quặng
kim loại màu lớn nhưng chưa được khai thác. Thành phố cảng lớn nhất của vùng
là Quảng Châu.
Những vấn đề còn tồn tại trong cuộc cải cách, cải tổ ở Trung Quốc:
- Nạn lạm phát kéo dài: giá cả tăng lên liên tục, hàng hoá không đủ cho
nhu cầu xã hội(đặc biệt nghiêm trọng là các năm 1988 đến 1989).
- Các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh kém hiệu quả.
- Sản xuất nông nghiệp không đều và có xu hướng chững lại: do mức
đầu tư của nhà nước cho nông nghiệp còn ít, năng suất lao động chưa cao trong
khi bình quân diện tích đất canh tác bị giảm( hiện nay chỉ còn 0,09ha/người )
sản lượng lương thực của Trung Quốc tuy có tăng thêm nhưng do dân số tăng
khá nhanh nên hàng năm Trung Quốc phải nhập lượng lương thực khá lớn ( 8
triệu tấn ) .
- Sức ép của những vấn đề xã hội: số người thất nghiệp tăng lên.Riêng
tỉnh Tứ Xuyên với số dân trên 100 triệu, đã có 15 triệu người thất nghiệp lâm
vào thất nghiệp còn có các nhân viên dôi ra đòi hỏi tinh giản bộ máy nhà nước

trong đó có các nhân viên soạn thảo, thẩm định, phê chuẩn, thực thi . . trong các
cơ quan kinh tế như kế hoạch, vật giá ... gây ra sự bất bình đẳng do thiếu việc
làm: Trong năm 1993 có hơn 6000 vụ bãi công bất hợp pháp ở Trung Quốc và
hơn 200 cuộc bạo loạn
- Phân hoá xã hội và những mâu thuẫn về lợi ích trong dân cư tăng lên
địa vị của các nhóm dân cư và quan niệm của con người đã có sự thay đổi :
không ít người là thanh niên coi việc có thu nhập cao là tiêu chuẩn quan trọng
19


nhất để đánh giá gía trị con người , sự phân hoá giầu nghèo ngày càng tăng lên ,
tệ nạn tham nhũng ở Trung Quốc rất nặng nề .
- Chênh lệch giữa các vùng ngày càng trầm trọng: Miền Đông đã giầu lại
càng giầu thêm, các miền khác đã nghèo lại càng nghèo đi.
Những cuộc cải cách Trung Quốc nổi bật lên như một hiện tượng kỳ
diệu năm 1993, giá trị tổng sản phẩm quốc dân đạt 3138 tỉ NDT, tăng 13,4%so
với năm 1992, tăng gấp đôi so với 358,8 tỉ của năm 1978 là năm chuẩn bị cải
cách kinh tế, kinh tế tăng trưởng mạnh đã nâng cao đáng kể mức sống của nhân
dân, chất lượng sống được cảI thiện nhiều. Thu nhập của dân thành phố năm
1978 là 316(NDT), năm 1993 đã tăng lên 2,337(NDT), trừ nhân tố giá cả thì
mức tăng thực tế là 6,3%/năm.
C - SO SÁNH QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI KINH TẾ
TRUNG QUỐC THỜI KỲ CẢI CÁCH MỞ CỬA TỪ NĂM 1978 ĐẾN
NAY VỚI CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI KINH TẾ VIỆT NAM TỪ NĂM 1986
ĐẾN NAY.
Quá trình cải cách ở Trung Quốc có thể nói là sự vùng lên của chủ nghĩa
xã hội, trong hệ thống trật tự thế giới và đáng để Việt Nam học hỏi kinh nghiệm.

*NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
Cải cách kinh tế ở Trung Quốc hay đổi mới kinh tế ở Việt Nam đều có

mục tiêu chung là loại bỏ thể chế kinh tế cũ đã lỗi thời, tìm tòi và thiết lập thể
chế kinh tế mới phù hợp hơn với những hoàn cảnh thực tế và những điều kiện đã
thay đổi. Tuy nhiên, chúng diễn ra trên những tập quán, những chính sách quản
lí xã hội khác nhau...Do đó, chúng có những sự tương đồng cũng như dị biệt rất
cơ bản về quan điểm, chính sách cũng như biện pháp thực hành.
I. Những tương đồng:
Mô hình kinh tế mới mà Trung Quốc và Việt Nam lựa chọn về từ ngữ có
đôi chút khác nhau song căn cứ vào cách giải thích chính thức về nội dung
chúng có nhiều cái chung:
20


Thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu, trong đó sở hữu công
cộng làm nền tảng.
Nhà nước có vai trò định hướng, điều hành nền kinh tế chủ yếu bằng kế
hoạch gián tiếp và các công cụ thị trường.
Hình thành một cách đồng bộ các thị trường tiêu dùng tư liệu sản xuất,
tiền tệ, sức lao động...
Coi phân phối lao động là chính, đồng thời thừa nhận các hình thức phân
phối khác như nhờ thời cơ, như lợi tức cho vay, nhờ mở doanh nghiệp...
Mở cửa nền kinh tế thị trường phát triển rộng rãi ra thế giới.
Có một điểm cần lưu ý là Trung Quốc chủ trương chính thức cho phép
duy trì một nền kinh tế nhiều thành phần như vậy ít nhất đến giữa thế kỉ 21, điều
này làm cho các thành phần kinh tế, các lực lượng thị trường trong và ngoài
nước yên tâm đầu tư và kinh doanh. ở Việt Nam chưa có sự xác định về thời
gian như vậy.
Ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, nông nghiệp và các xí nghiệp quốc
doanh có vai trò trụ cột trong nền kinh tế quốc dân. Song trước đây cả hai trụ cột
này đều bị lung lay nghiêm trọng do chính sách công hữu hoá và quản lí điều
hành chính sách mệnh lệnh, do đó cả hai nước đều phải tìm cách giải phóng

năng lực sản xuất, trả quyền tự chủ cho các đơn vị kinh doanh. Trên thế giới,
không có quốc gia nào có thể làm giàu, cất cánh được nhờ phát triển nông
nghiệp nhưng Việt Nam và Trung Quốc đều vẫn phải đang ở giai đoạn phải coi
trọng nông nghiệp. Trong quá khứ cả hai nước đều đã phải trả giá quá đắt cho
chính sách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách vội vã, để rồi luôn luôn
phải điều chỉnh lại, đưa nông nghiệp lên hàng đầu. Là những nước nông nghiệp,
tiểu nông chiếm ưu thế tuyệt đại bộ phận người lao động còn tập trung sản xuất
khai thác ruộng đất thì khâu đột phá quan trọng nhất mà Trung Quốc và Việt
Nam phải thực hiện trước hết và chủ yếu là giải phóng năng lực sản xất tạo
quyền tự chủ kinh doanh cho hành trăm triệu nông hộ ở Trung Quốc và hành
chục triệu nông hộ ở Việt Nam. Thực ra cải cách nông thôn ở Trung Quốc cũng
như ở Việt Nam đều do nông dân tự phát làm từ lâu, đều bị vùi dập và phê phán
nhưng vẫn tồn tại một cách âm thầm và dai dẳng cho đến khi các cấp lãnh đạo
21


phát hiện và thừa nhận hiệu quả, đã nâng lên thành chính sách chung và lan
nhanh cả nước. Điều đó xảy ra ở các tỉnh Tứ Xuyên và An Huy của Trung Quốc
và Tỉnh Vĩnh Phú của Việt Nam những năm 1960.
Trung Quốc và Việt Nam đều chủ trương mở của nền kinh tế với thế giới,
thu hẹp khoảng cách kinh tế với các nước phát triển. Trung Quốc mở cửa sớm
hơn Việt Nam nhiều, đã có bước tiến dài trong quan hệ kinh tế quốc tế, đạt được
những thành công hết sức to lớn. Trung Quốc cũng đã có nhiều biện pháp tích
cực như mở cửa các đặc khu kinh tế, các thành phố và cảng mở cửa, các khu
khai thác và phát triển kinh tế kĩ thuật...nhờ đó mà kinh tế Trung Quốc phát triển
hết sức năng động. Ở Việt Nam, chính sách mở cửa được thực hiện muộn hơn
và trong hoàn cảnh ngặt nghèo do bị bao vây, o ép. Kim nghạch ngoại thương
nhỏ, các khu chế xuất lập ra đã mấy năm nhưng chậm đi vào hoạt động. Tuy
những năm gần đây quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam có tiến bộ đáng kể,
ngoại thương tăng đều đặn nhưng Việt Nam còn phải học hỏi nhiều kinh nghiệm

của Trung Quốc trong việc lập các khu kinh tế mở cửa, xây dựng hệ thống pháp
luật quan trọng hơn cần có chính sách kinh tế đối ngoại riêng, thích hợp với điều
kiện của mình.
Các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và Trung Quốc tuy đều đã được
áp dụng nhiều biện pháp cải cách, nhưng phần lớn đều kinh doanh kém hiệu
quả, thậm chí thua lỗ kéo dài. Một số giám đốc lộng hành, chiếm dụng tài sản xí
nghiệp. Tình trạng đó đặt nhà nước trước tình thế khó xử, nếu để chúng phá sản
thì lại đẩy công nhân ra lề đường, đồng thời những món nợ khổng lồ với ngân
hàng không được thanh toán, nhưng nếu cứ để cho chúng tồn tại thì nhà nước lại
phải bù lỗ, không thể giảm được thâm hụt ngân sách. Việc chuyển doanh nghiệp
nhà nước thành công ti cổ phần được coi là một lối thoát, song ở Trung Quốc và
Việt Nam đều đang ở giai đoạn thử nghiệm.
Trung Quốc và Việt Nam hiện nay đang chịu sức ép mạnh mẽ của một
loạt vấn đề xã hội, như thất nghiệp, phân hoá giàu nghèo tăng nhanh, trộm cướp,
buôn lậu, tham nhũng...Đó là mối đe doạ lớn đối với ổn định xã hội, khiến nhiều
tầng lớp dân cư lo lắng và bất bình. Nổi bật lên là tệ nạn tham nhũng lan tràn và
nghiêm trọng. Trung Quốc và Việt Nam đều coi đây như” quốc nạn”, đã đưa ra
22


nhiều biện pháp tích cực để phòng chống, song vấn đề này hoàn toàn không đơn
giản.
Trung Quốc và Việt Nam đều đang đứng trước những thách thức được
nhân đôi: vừa phải tự chiến thắng sự lạc hậu trì trệ của mình, vừa phải cố gắng
rút bớt khoảng cách với các nước xung quanh trong một vùng phát triển nhanh
và năng động nhất thế giới nên buộc phải có một sự tăng trưởng nhanh và liên
tục. Do đó sự thận trọng phải đi kèm với sự khẩn trương. Nó đòi hỏi những
phương thức thích hợp và sáng tạo.
II. Những khác biệt.
Cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc và cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam đã

diễn ra không đồng thời , trên hai đất nớc khác nhau rất nhiều về diện tích, tài
nguyên, lịch sử, văn hoá những hoạt động kinh tế cụ thể khác nhau, những ban
lãnh đạo khác nhau, dẫ dắt những dân tộc khác nhau. Việt Nam thực hiện đổi
mới kinh tế năm 1986. Khi quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam đang ở thời
kỳ căng thẳng. Ngoài quan hệ ngoại giao, không có sự giao lu kinh tế, văn hoá
khoa học nào, khi quan hệ hai nớc đợc đợc bình thờng hoá vào năm 1992, cuộc
đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã không có nhiều điều kiện tham khảo trực tiếp
những kinh nghiệm của cải cách kinh tế ở Trung Quốc ngay từ đầu.
1. Trung Quốc là một thị trường to lớn, nhiều ưu thế hấp dẫn về tài
nguyên và sức lao động hơn hẳn Việt Nam. Đó là một quốc gia khổng lồ, có
diện tích lãnh thổ lớn thứ ba trên thế giới, có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú và đa dạng vào bậc nhất thế giới. Trung Quốc chiếm vị trí số một về
dân số; tính đến cuối năm 1994 có 1 tỉ 198,5 triệu người, bằng khoảng 22% số
dân trên hành tinh, có nguồn lao động lớn, đạt khoảng 67% số dân. Tuy Trung
Quốc có một đội ngũ trí thức đông đảo, nhưng có khó khăn lớn trong việc nâng
cao dân trí của toàn xã hội. Hiện nay ít nhất có 1/4 số người mù chữ; chữ Hán lại
rất khó học, học mà không dùng rất dễ quên, nên số người nửa mù chữ không
phải là ít.
23


Việt Nam có chừng 73 triệu dân và diện tích bằng 1/30 của Trung Quốc,
là nước trung bình cả về ba mặt dân số, lãnh thổ và tài nguyên. Nếu so về trình
độ phát triển, Việt Nam cũng thấp hơn Trung Quốc khi bắt đầu cải cách.
GDP/người của Trung Quốc khoảng 300 đôla, trong khi của Việt Nam là
khoảng 150 đôla (năm 1994: lần lượt là 370 và khoảng 200).
Tuy nhiên, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi. Với địa hình trải dài
trên bán đảo Đông Dương, ven biển Đông, Việt Nam có vị trí quan trọng trong
giao lưu Quốc tế. Người dân Việt Nam được đánh giá là có tố chất tốt, chữ Việt
Nam dễ học nên tỷ lệ người biết chữ cao. Trải qua hàng ngàn năm xây dựng đất

nước và chống ngoại xâm, các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết,
thống nhất và gắn bó. Về mặt này, tình hình ở Trung Quốc có khác. Trong số
hơn 50 dân tộc, ngoài người Hán chiếm đa số, có những dân tộc "ít người",
nhưng dân số lên đến hàng triệu, hàng chục triệu, cư trú tập trung trên những
lãnh thổ rộng lớn sát biên giới, mà ngôn ngữ và nền văn hoá hoàn toàn khác với
người Hán, song lại gần gũi với nước láng giềng, như các dân tộc Mông Cổ,
Ugua, Tây Tạng...Đó là những kết quả của chính sách mở nang bờ cõi từ xưa.
2. Khi bước vào cải cách và đổi mới, nền kinh tế Trung Quốc và Việt
Nam đều bị tàn phá nặng nề. Ngoài nguyên nhân chung là do cả hai nước đều
thực hiện thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ, áp dụng nhiều chính
sách kinh tế sai lầm, duy ý chí, mỗi nước đều có lý do riêng. Sự xâm lược của
Pháp, Nhật, Mỹ, Trung Quốc, Khơ-me đỏ, và những cuộc chiến tranh chống lại
các cường quốc đó đã gây hậu quả nghiêm trọng đến mọi mặt đời sống kinh tế xã hội của Việt Nam. Còn Trung Quốc, kể từ năm 1950 đã không có chiến tranh,
trừ một số cuộc đụng độ biên giới; nhưng sức tàn phá của các cuộc nội chiến
liên miên và đẫm máu như "chống phái hữu", "cách mạng văn hoá", "phê Lâm
phê Khổng", cùng các chính sách kinh tế sai lầm cũng đủ đề, như một nhà
nghiên cứu phương Tây đã nói, đẩy cả dân tộc sát đến cơn hập hối.
Do có những nguyên nhân khác nhau, dẫn đến khủng hoảng kinh tế, nên
nhận thức để khắc phục hậu quả cũng khác nhau. Người Việt Nam phải có thời
gian để phân biệt được, đâu là do chiến tranh, đâu là lỗi tại mình; còn người
Trung Quốc sớm tỉnh ngộ, sớm huỷ bỏ các chiến dịch "đấu tranh giai cấp", "tạo
24


phản", coi "ngọn cỏ của chủ nghĩa xã hội còn hơn cây lúa của chủ nghĩa tư
bản...".
3. Trung Quốc và Việt Nam có những điều kiện khác nhau trong quan hệ
đối ngoại, nên tiến trình hoà nhập vào thị trường thế giới của ai nước khác nhau
về thời gian và mức độ.
Ngay từ đầu những năm 60, Trung Quốc đã có sự phân biệt trong quan hệ

với Liên Xô và Đông Âu, và từ đầu những năm 70, bắt đầu thắt chặt dần quan hệ
chính trị và kinh tế với Mỹ và các nước phương Tây khác. Đó là điều kiện rất
quan trọng để Trung Quốc có thể sớm từ bỏ mô hình kinh tế Xô - Viết và mở
của kinh tế sang phương Tây, tiếp cận với nền kinh tế thị trường thế giới. Trung
Quốc có uy thế chính trị mà Mỹ và Tây Âu phải kiêng nể, vì là một trong năm
uỷ viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp Quốc, không dễ bị lép vế
trước sức ép của các nước đó. Điều đó giải thích vì sao Trung Quốc có thái độ
cứng rắn trước việc Mỹ và Tây Âu doạ dẫm "trừng phạt kinh tế " vì cái cớ là vấn
đề nhân quyền. Việt Nam , bên cạnh việc cần có thời gian để chuyển biến nhận
thức trong quan hệ kinh tế Quốc tế, còn bị tác hại nặng nề do chính sách cấm
vận kinh tế của cường Quốc hàng đầu là Mỹ, do chính sách o ép của các nước
khác... Do đó Việt Nam phải có một thời gian dài để làm thất bại chính sách cấm
vận trên và tạo được hình ảnh tốt đẹp về nước Việt Nam đổi mới, hoà nhập cởi
mở như ngày nay.
4. Do hoàn cảnh cụ thể nên Trung Quốc có quốc sách "một nước hai chế
độ", do đó hai nền kinh tế (của lục địa và của Đài Loan - Hông Kông) song song
tồn tại và bổ sung cho nhau. Sự phát triển năng động và nhanh chóng vượt bậc
của "hai con rồng châu Á" kia đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc Trung Quốc
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Đặc biệt là Hồng Kông với vai trò một trong
những trung tâm tài chính hàng đầu ở châu Á - Thái Bình Dương, một cảng tự
do quốc tế lớn, một trung tâm cộng nghiệp về thương nghiệp hiện đại, đã mang
lại cho Trung Quốc nguồn ngoại tệ quan trọng qua các hoạt động trung chuyển
buôn bán , đầu tư trực tiếp, tạo công ăn việc làm. Ở Việt Nam, tình hình có khác.
Sau khi thống nhất đất nước, nền kinh tế thị trường ở miền Nam vốn đã có sự
phát triển nhất định, song đã bị thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cùng các chiến
25


×