Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Khu công nghiệp sinh thái và tìm hiểu một khu công nghiệp sinh thái trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.33 KB, 23 trang )

I.TỔNG QUAN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP SINH THÁI
1.1.Khu công nghiệp.
1.1.1.Khái niệm.
Khu công nghiệp (KCN) là khu vực dành cho phát triển công nghiệp theo một quy
hoạch cụ thể nào đó nhằm đảm bảo được sự hài hòa và cân bằng tương đối giữa các
mục tiêu kinh tế -xã hội- môi trường. KCN thường được Chính phủ cấp phép đầu tư
với hệ thống hạ tầng kỹ thuật và pháp lý riêng. Những KCN có quy mô nhỏ thường
được gọi là cụm công nghiệp.
Sự ra đời cửa các KCN đã đem lại những thành tựu to lớn, khẳng định vai trò quan
trọng của sự nghiệp hóa, hiện đại hóa, đẩy nhanh tiến trình hội nhập với nền kinh tế
khu vực và quốc tế.

1.1.2.Vai trò.
Tính đến tháng 3/2006, trên toàn quốc đã có khoảng 133 KCN do Thủ tướng Chính
Phủ thành lập, thuộc phạm vi đối tượng điều chỉnh của Nghị định này. Ngoài ra còn
khoảng 500 cụm công nghiệp do địa phương quản lý.
KCN ra đời đã tạo nên mảnh đất thuận lợi cho các doanh nghiệp công nghiệp trong và
ngoài nước có điều kiện đầu tư phát triền sản xuất. Hiện nay, Việt Nam đã có tới 3.300
doanh nghiệp trong và ngoài nước sản xuất, cung cấp dịch vụ công nghiệp hoạt động
trong các KCN, với tổng đầu tư khoảng 20 tỷ USD và 137.000 tỷ VND. Theo đánh giá
của các chuyên gia kinh tế thì các khu cụm công nghiệp đều đã đẩy nhanh tiến trình
CNH đất nước. Mặt khác, sự ra đời của các KCN còn tác động mạnh mẽ tới chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ
trọng nông nghiệp. Thực tế cho thấy, các tỉnh có nhiều KCN như Đồng Nai, Bình
1|Page


Dương, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu ngành kinh tế chỉ còn khoảng 10 – 15%
thậm chí tốc độ chuyển dịch cơ cấu còn diễn ra rất nhanh.
Các KCN phát triển, kéo theo tốc độ đô thị hóa cũng diễn ra khá nhanh, với cơ sở hạ
tầng được nâng cấp mọi mặt. Chất lượng cuộc sống của người dân quanh các KCN


cũng nhờ đó được nâng lên. Đồng thời với tốc độ đô thị hóa là những dịch vụ đi kèm
như dịch vụ ngân hàng, dịch vụ cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, kho tàng bến bãi, đào
tạo… cũng được kích thích phát triển. Đặc biệt KCN mở ra đã là nơi thu hút không ít
lao động địa phương, giải quyết một lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động.
Tính đến hết năm 2005, các KCN đã tạo công ăn việc làm cho trên 74 vạn lao động
trực tiếp (gấp 3 lần năm 2001, gấp 14 lần năm 1995), và khoảng 2 triệu lao động gián
tiếp. Bên cạnh đó, chất lượng và trình độ người lao động nhờ đó cũng được nâng lên.
Các KCN ra đời còn là một động lực làm chuyển biến tích cực trong cải cánh hành
chính, đổi mới cơ chế, chính sách, tạo mơi trường đầu tư hấp dẫn hơn. Và đó chính là
những bước đầu tiên để thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, kim ngạch xuất
khẩu tại các KCN chiếm tới 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần tạo
uy tín thương mại của Việt Nam trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp tại các
KCN cũng được hưởng cơ chế hải quan thông thoáng hơn, kích thích khả năng cạnh
tranh, đáp ứng được yêu càu hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.3.Hạn chế.
Không thể phủ nhận những thành công khi quyết định mở ra các KCN. Song bên cạnh
hàng loạt những thành quả thu được từ các KCN, thì cũng không ít bất cập, nếu không
sớm nhận ra và có những giải pháp kịp thời, phù hợp với điều kiện thực tế sẽ gây ra
nhiều hậu quả nghiêm trọng. Trước hết phải nói đến tình trạng đất canh tác nông
nghiệp dần bị thu hẹp. Điều này nếu thực sự không tính toán kỹ lưỡng, sẽ gây ảnh
hưởng tới an ninh lương thực.
Mặt khác, việc hình thành các KCN nhằm tạo điều kiện để các chủ doanh nghiệp đầu
tư mở rộng quy mô sản xuất, song thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp đã nhập dây
chuyền công nghệ lạc hậu hàng chục năm. Điều này, không ổn định, gây ô nhiễm môi
trường. Thêm nữa, do muốn thu hút các nhà đầu tư, nên nhiều địa phương ồ ạt mở ra
KCN mà không tính đến quy hoạch đô thị, khu dân cư, ảnh hưởng tới chất lượng môi
trường đô thị trong một vài năm tới.
Chất thải công nghiệp cũng đang là mối nguy cơ đe dọa tới cuộc sống của một số địa
phương có KCN trên địa bàn. Chất thải công nghiệp chưa được xử lí kĩ càng gây ô
nhiễm trầm trọng tới nguồn nước, không khí, tiếng ồn…Về vấn đề này đã có khá nhiều

2|Page


địa phương phải trả giá, đời sống người dân bị đe dọa. Nếu không đánh giá đúng và
không đưa ra những giải pháp hữu hiệu, tổ chức tốt việc phòng chống ô nhiễm thực tại
này sẽ gây những tác hại khôn lường.
Việc quy hoạch thiếu đồng bộ, thiếu tầm nhìn chiến lược đã gây ảnh hưởng xấu đến
chất lượng tăng trưởng kinh tế. Chẳng hạn, tạo ra sự phát triển không đồng bộ giũa
trong và ngoài hàng rào KCN, sự phân hóa rõ rệt về mọi mặt giữa trong và ngoài KCN,
gây sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các KCN; thiếu sự liên kết giữa các KCN
trong một vùng, một địa phương, giữa các doanh nghiệp trong cùng một KCN. Do đó
chính các doanh nghiệp, các KCN không những không khai thác hết thế mạnh của địa
phương, mà còn làm xáo trộn hoạt động kinh tế -xã hội địa phương.
Sự tập trung cao của lao động tại các KCN đang khiến cho vấn đề xã hội ngày càng trở
thánh áp lực đối với chính quyền địa phương và người dân quanh KCN. Đó là tình
trạng thiếu nhà ở, điều kiện sinh hoạt khó khăn, giá cả hàng hóa tiêu dùng tăng và đáng
lo ngại nhất vẫn là nảy sinh tệ nạn xã hội.
Quá trình hình thành và phát triển KCN là một xu thế tất yếu trong quá trình phát triển
kinh tế- xã hội. Tuy nhiên, từ những bất cập này sinh trong thực tế, chúng ta cần phải
có tầm nhìn chiến lược trong sự phát triển của KCN. Có như vậy, mới đảm bảo được
tính bền vững của các mô hình này. Tính bền vững của các KCN, sẽ tạo điều kiện phát
huy những ảnh hưởng tốt và giảm thiểu tác động xấu, góp phần phát triển kinh tế đất
nước theo hướng CNH - HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.Sinh thái công nghiệp.
1.2.1.Khái niệm.
Sinh thái công nghiệp (STCN- Industrial Ecology) thể hiện sự di chuyển hóa mô hình
hệ thống công nghiệp truyền thống sang dạng mô hình tổng thể hơn- hệ STCN Industrial Ecosystem. Trong đó, chất thải hay phế liệu từ quy trình sản xuất này có thể
sử dụng làm nguyên liệu cho quy trình sản xuất khác. Khái niệm STCN được biết đến
vài năm trước đây, đặc biệt từ khi xuất hiện bài báo của Frosch và Gallpoulos, 1989).
Khái niệm STCN còn được xem xét ở khía cạnh tạo thành mô hình hệ công nghiệp bảo

toàn tài nguyên là chiến lược có tính chất đổi mới nhằm phát triển công nghiệp bền
vững bằng cách thiết kế những hệ công nghiệp theo hướng giảm đến mức thấp nhất sự
phát sinh chất thải và tăng đến mức tối đa khả năng tái sinh- tái sử sụng nguyên liệu và
năng lượng. STCN là một hướng mới tiến đến đạt được sự phát triển bền vững bằng
cách tối ưu hóa mức tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên và năng lượng đồng thời giảm
thiểu sự phát sinh chất thải. Hay nói cách khác, khái niệm STCN còn bao hàm tái sinh,
3|Page


tái chế, tuần hoàn các loại phế liệu, giảm thiểu chi phí xử lí, tăng cường việc sử dụng
tất cả các giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm bao gồm cả sản xuất sạch hơn và xử lí cuối
đường ống. Ở đây sản xuất sạch hơn là hướng tới ngăn ngừa ô nhiễm ở mức cơ sở sản
xuất riêng lẻ, trong khi đó STCN hướng tới ngăn ngừa ô nhiễm ở mức hệ công nghiệp.
TÁI SINH
TÁI CHẾ
TUẦN HOÀN PHẾ LIỆU

SINH
THÁI
CÔNG
NHIỆP

GIẢM THIỂU CHI PHÍ
NGĂN NGỪA Ô NHIỄM

Mặc dù khái niệm STCN vẫn còn mới mẻ và chưa có một định nghĩa thống nhất, tuy
nhiên có thể thấy sự nhất trí rằng khái niệm STCN thể hiện nhựng quan điểm sau đây:
- STCN là tổ hợp toàn diện và thống nhất tất cả các thành phần của hệ công nghiệp và
các mối quan hệ của chúng với môi trường xung quanh.
- STCN nhấn mạnh việc xem xét các hoạt động do con người điều khiển sao cho có thể

phát triển công nghiệp theo hướng bảo tồn tài nguyên và bảo vệ môi trường
- STCN xem xét quá trình tiến hóa (cải tiến) công nghệ sản xuất là yếu tố quan trọng để
chuyển tiếp từ hệ công nghiệp không bền vững hiện tại sang hệ STCN bền vững trong
tương lai.
1.2.2.Trao đổi chất công nghiệp.
1.2.2.1 Quá trình trao đổi chất công nghiệp
Quá trình trao đổi chất công nghiệp thể hiện sự chuyển hóa của dòng vật chất và năng
lượng từ nguồn tài nguyên tạo ra chúng, qua quá trình chế biến trong hệ công nghiệp
đến người tiêu thụ và cuối cùng thải bỏ. Trao đổi chất công nghiệp cung cấp cho chúng
ta khái niệm cơ bản về quá trình chuyển hóa hệ thống sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
hiện tại theo hướng phát triển bền vững. Đây là cơ sở cho việc phân tích dòng vật chất,
xác định và đánh giá các nguồn phát thải cũng như các tác động của chúng đến môi
trường.
1.2.2.2 Quá trình trao đổi chất công nghiệp so với quá trình trao
đổi chất sinh học.
4|Page


Quá trình trao đổi chất sinh học đã có từ khi xuất hiện khoa học sinh học. Khái niệm
này được sử dụng để mô tả các quá trình chuyển hóa trong cơ thể sinh vật sống. Trao
đổi chất sinh học được sử dụng để mô tả các quá trình hóa sinh xảy ra luân phiên trong
các phân tử sinh học.
Sự giống nhau giữa quá trình trao đổi chất sinh học và trao đổi chất công nghiệp là các
quá trình trao đổi chất có thể được chia thành 2 nhóm chính: quá trình đồng hóa và quá
trình dị hóa. Cũng như thế, một hệ STCN tổng hợp vật chất, hay thực hiện quá trình
đồng hóa, và phân hủy vật chất, tức là thực hiện quá trình tương tự như quá trình dị hóa
sinh học. Trong một hệ sinh học, quá trình trao đổi chất xảy ra ở tế bào, ở các cơ quan
riêng biệt cũng như trong toàn bộ cơ thể sinh vật. Tương tự như vậy, quá trình trao đổi
chất công nghiệp cũng có thể xảy ra trong từng cơ sở sản xuất riêng biệt, trong từng
ngành công nghiệp và ở mức toàn cầu. Mặc dù có một số điểm khác biệt giữa một sinh

vật sống và một cơ sở sản xuất khái niệm trao đổi chất công nghiệp có thể áp dụng với
các cơ sở sản xuất. Điểm cốt yếu là phải xác định rõ phạm vi mà dòng vật chất và năng
lượng tham gia vào quá trình chuyển hóa.
Bảng 1: Sự khác nhau giữa sinh vật sống và cơ sở sản xuất
Sinh vật sống

Cơ sở sản xuất

Sinh vật có khả năng tái sản sinh ra chúng. Cơ sở sản xuất chỉ tạo ra sản phẩm hoặc
Sinh vật có tính đặc trưng và không thể dịch vụ phục vụ. Cơ sở sản xuất có thể
thay đổi đặc tính của chúng trừ khi trải thay đổi từ mặt hàng sản xuất cũng như
qua quá trình tiến hóa lâu dài.
dịch vụ thương mại từ dạng này sang dạng
khác. Một cơ sở sản xuất chuyển hóa
nguyên liệu, bao gồm cả nhiên liệu và
năng lượng thành sản phẩm, phế phẩm và
chất thải.
Trao đổi chất sinh học là quá trình tự điều chỉnh . Đối với từng sinh vật, quá trình này
được thực hiện bởi những cơ chế sinh học chung. Ở mức hệ sinh thái, quá trình này xảy
ra thông qua sự đấu tranh sinh tồn giữa các sinh vật. Một hệ STCN cũng là một hệ tự
điều chỉnh. Tuy nhiên, trong trường hợp này, cơ chế chính của quá trình là hệ kinh tế
được vận hành theo quy luật cung- cầu. Một cách tổng quát, những điểm giống và khác
nhau giữa những quá trình trao đổi chất của hệ sinh thái tự nhiên và hệ công nghiệp.

5|Page


Trong hệ sinh thái tự nhiên, chu trình sinh học của vật liệu được duy trì bởi 3 nhóm
chính: sản xuất, tiêu thụ và phân hủy. Nhóm sản xuất có thể là cây trồng và một số vi
khuẩn có khả năng tự tạo ra nguồn thức ăn cần thiết cho bản thân chúng nhờ quá trình

quang hợp hoặc để cung cấp năng lượng và protein cần thiết cho cơ thể chúng. Nhóm
phân hủy có thể là nấm vi khuẩn. Nhóm này có khả năng chuyển hóa các chất hữu cơ
thành nguồn thức ăn cần thiết cho nhóm sản xuất. Do đó, nhóm phân hủy cũng đóng
vai trò của cơ sở tái chế. Với nguồn năng lượng là ánh nắng mặt trời, thế giới tự nhiên
có khả năng duy trì chu trình sản xuất- tiêu thụ- phân hủy một cách vô hạn. Hay nói
cách khác, một thực thể tồn tại độc lập nhỏ nhất cũng là một hệ sinh thái.
Trong hệ công nghiệp, hoạt động sản xuất bao gồm tạo ra năng lượng và những sản
phẩm khác. Nhóm tiêu thụ sản phẩm có thể là những nhà máy khác, con người và động
vật. Quá trình phân hủy bao gồm xử lý, thu hồi và tái chế chất thải. Tuy nhiên, khác
với hệ sinh thái tự nhiên, hệ công nghiệp vẫn thiếu nhóm phân hủy và tái chế hiệu quả.
Cả chất thải và phế phẩm được thải ra môi trường xung quanh. Xét theo khía cạnh này,
hệ công nghiệp là một hệ thống không hoặc ít khép kín. Để đạt tiêu chuẩn của một hệ
STCN, các sản phẩm phụ và chất thải phải được tái sử dụng và tái chế.
Hệ thống thích hợp nhất là mô hình cải tiến, tạo dòng vật chất khép kín trong hệ công
nghiệp nhằm đạt hiệu quả sản xuất cao nhất. Điều này có thể đạt được bằng các
phương thức trao đổi, tái sinh, tái chế nguyên liệu và năng lượng giữa các cơ sở sản
xuất khác nhau trong hệ STCN.
Đặc điểm quá trình trao đổi chất của hệ sinh thái tự nhiên và hệ công nghiệp hiện
tại
Đặc tính

Hệ sinh thái tự nhiên

Hệ công nghiệp hiện đại

Đơn vị cơ bản

Sinh vật

Nhà máy


Dòng vật chất

Hệ khép kín

Chủ yếu là biến đổi theo một chiều

Tái sử dụng

Hầu như hoàn toàn

Thường rất thấp

Vật liệu

Có khuynh hướng cô đặc, Hầu như được sử dụng một cách
chẳng hạn C02 trong không
khí được chuyển hóa thành
sinh khối qua quá trình
quang hợp

Quá trình tái tạo

6|Page

phung phí để chế tạo ra vật liệu khác,
vật liệu bị pha loãng quá mức có thể
tái sử dụng, nhưng lại bị cô đặc đủ để
gây ô nhiễm


Một trong những chức năng Sản xuất ra sản phẩm và cung cấp
chính của sinh vật là sự tự dịch vụ là mục đích chủ yếu của hệ
sinh sản
công nghiệp nhưng tái sản xuất không


phải là bản chất của hệ công nghiệp
1.2.3.Hệ sinh thái công nghiệp.
Cơ sở hình thành khái niệm STCN là dựa trên hiện tượng trao đổi chất công nghiệp.
Đó là toàn bộ các quá trình vậy lí chuyển hóa nguyên liệu và năng lượng cùng với sức
lao động của con người thành sản phẩm, phế phẩm và chất thải ở điều kiện ổn định.
Khái niệm này giúp chúng ta hiểu được hoạt động của hệ công nghiệp và mối quan hệ
của chúng đối với môi trường xung quanh. Trên cở sở đó, cũng với những hiểu biết về
hệ sinh thái, con người có thể hiệu chỉnh hệ công nghiệp sao cho tương thích với hoạt
động của hệ sinh thái tự nhiên. Bằng cách làm như vậy, các cơ sở sản xuất công nghiệp
có thể được tổ hợp thành những hệ STCN. Những hệ STCN này sẽ bao gồm nhiều cơ
sở sản xuất được tập hợp sao cho chúng sử dụng sản phẩm và chất thải cửa nhau.
Những kiến thức cơ bản về quá trình trao đổi chất công nghiệp và hệ STCN là cơ sở để
hiểu rõ và ứng dụng những nguyên lý cơ bản của khái niệm STCN.
Hệ STCN được tạo thành từ tất cả các khâu sản xuất, chế biến, tiêu thụ, kết hợp cả sản
xuất công nghiệp và nông nghiệp. Bốn thành phần chính của hệ STCN bao gồm: (1) cơ
sở sản xuất nguyên vật liệu và năng lượng ban đầu, (2) nhà máy chế biến nguyên liệu,
(3) nhà máy xử lý/ tái chế chất thải và (4) tiêu thụ thành phẩm.

Bộ phận chế biến/ sản xuất
nguyên liệu & năng lượng

Bộ phận tiêu thụ sản phẩm

Bộ phận sản xuất nguyên liệu &

năng lượng ban đầu
Bộ phận xử lý chất thải

Cơ sở sản xuất nguyên liệu và năng lượng ban đầu có thể gồm một hoặc nhiều nhà
máy cung cấp nguyên liệu ổn định cho hệ STCN. Qua nhiều quá trình chế biến, ví dụ
trích ly, cô đặc, phân loại, tinh chế…các nguyên liêu thô sẽ được chuyển hóa thành
nguyên liệu cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tái sinh tái chế. Sản phẩm, phế
phẩm, sản phẩm phụ…sẽ được chuyển đến người tiêu dùng. Cuối cùng, nhà máy xử lý
7|Page


chất thải sẽ thực hiện công tác thu gom, phân loại và xử lí các vật liệu có khả năng tái
chế cũng như chất thải.
Một hệ STCN sẽ tận dụng nguyên vật liệu và năng lượng thải bỏ của các nhà máy khác
nhau trong hệ thống và các thành phần không phải là cơ sở sản xuất, ví dụ từ các hộ gia
đình thuộc khu dân cư nắm trong khuôn viên của hệ thống đang xét. Bằng cách này,
lượng nguyên liệu và năng lượng tiêu thụ cũng như lượng chất thải phát sinh sẽ giảm
do chất thải/ phế phẩm được sử dụng để thay thế một phần nguyên liệu và năng lượng
cần thiết.
Có thể phân chia hệ STCN theo 5 dạng khác nhau dựa trên ranh giới của hệ thống.
Tiêu chí để xác định ranh giới của hệ STCN là dựa trên vị trí địa lí hoặc chuỗi sản
phẩm/ nguyên liệu. Các loại hình hệ STCN này có thể mô tả như sau:
- Hệ STCN theo chu trình vòng đời sản phẩm. Trong trường hợp này, ranh giới của hệ
STCN được xác định theo các thành phần kinh tế ( cả nhà sản xuất và người tiêu dùng)
liên quan đến một loại sản phẩm cụ thể.
- Hệ STCN theo chu trình vòng đời nguyên liệu. Tương tự hệ sinh thái theo chu trình
vòng đời sản phẩm, ranh giới của hệ STCN theo chu trình vòng đời nguyên liệu được
xác định bởi các thành phần liên quan đến một loại nguyên liệu cụ thể.
- Hệ STCN theo diện tích/vị trí địa lí. KCN Burnside ở Halifax( Canada), KCN
Kalunborg( Đan Mạch) là những thí dụ điển hình về loại hình hệ STCN này. Trong

trường hợp này, ranh giới địa lí không kể đến một loại nguyên liệu cụ thể.
- Hệ STCN theo loại hình công nghiệp. Theo cách phân loại này, một nhóm các cơ sở
sản xuất thuộc loại hình công nghiệp hợp thành hệ STCN. Trong thực tế, loại hình hệ
STCN này được xây dựng theo định hướng môi trường chung của từng loại hình công
nghiệp.
- Hệ STCN hỗn hợp. Trong trường hợp này, khái niệm hệ STCN không đề cập đến một
ranh giới cụ thể mà chỉ xem xét mối tương quan giữa các nhà máy có thể sử dụng phế
phẩm/ phế liệu của nhau. Đây là loại hình thông dụng nhất.
1.3.Khu công nghiệp sinh thái
1.3.1.Khái niệm.
Khu công nghiệp sinh thái (KCNST) là nhằm xây dựng một hệ công nghiệp gồm nhiều
nhà máy hoạt động độc lập nhưng kết hợp với nhau một cách tự nguyện, hinhg thành
quan hệ cộng sinh giữa các nhà máy với nhau và môi trường.
Trong KCNST cơ sở hạ tầng công nghiệp được thiết kế sao cho chúng có thể tạo thành
một chuỗi những hệ sinh thái hòa hợp với hệ sinh thái tự nhiên trên toàn cầu. Khái
8|Page


niệm sinh thái công nghiệp còn được xem xét ở khía cạnh tạo thành mô hình hệ công
nghiệp bảo toàn tài nguyên là chiến lược có tính chất đổi mới nhằm phát triển công
nghiệp bền vững bằng cách thiết kế những hệ công nghiệp theo hướng giảm dến mức
thấp nhất sự phát sinh chất thải tăng đến mức tối đa khả năng tái sinh – tái sử dụng
nguyên liệu và năng lượng. Sinh thái công nghiệp là một hướng mới tiến đến đạt được
sự phát triển bền vững bằng cách tối ưu hóa mức tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên và
năng lượng đồng thời giảm thiểu sự phát sinh chất thải. Hay nói cách khác, khái niệm
sinh thái công nghiệp bao hàm tái sinh,tái chế, tuần hoàn các phế liệu, giảm thiểu chi
phí xử lý, tăng cường việc sử dụng tất cả các giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm bao gồm cả
sản xuất sạch hơn và xử lý cuối đường ống. Ở đây sản xuất sạch hơn là hướng tới ngăn
ngừa ô nhiễm ở mức cơ sở sản xuất riêng lẻ, trong khi đó sinh thái công nghiệp hướng
tới ngăn ngừa ô nhiễm ở mức hệ công nghiệp.

Như vậy các nhà máy trong KCNST cố gắng đạt được những lợi ích kinh tế và hiệu
quả bảo vệ môi trường chung thông qua việc quản lý hiệu quả năng lượng, nước và
nguyên liệu sử dụng.
1.3.2.Lợi ích của việc phát triển KCN sinh thái.
Các KCNST đem lại lợi ích nhiều mặt, thiết thực, cụ thể:
1.3.2.1. Đối với các DN thành viên và chủ đầu tư KCNST
- Giảm chi phí, tăng hiệu quả sản xuất bằng cách tiết kiệm, tái chế, tái sử dụng nguyên
- vật liệu và năng lượng: tái chế và tái sử dụng chất thải.
- Đạt hiệu quả kinh tế cao hơn nhờ chia sẻ chi phí cho các dịch vụ chung: quản lý chất
thải, đào tạo nhân lực, nguồn cung cấp và hệ thống thông tin môi trường cùng các dịch
vụ hỗ trợ khác.
- Những lợi ích cho các Doanh nghiệp thành viên là làm tăng giá trị bất động sản và lợi
nhuận cho chủ đầu tư KCNST.
1.3.2.2. Đối với SXCN nói chung.
- KCNST là một động lực phát triển kinh tế CN của toàn khu vực: tăng giá trị sản xuất
công nghiệp, dịch vụ, thu hút đầu tư, cơ hội tạo việc làm cho người lao động.
- Tạo điều kiện hỗ trợ và phát triển các ngành công nghiệp nhỏ địa phương, làng nghề
truyền thống cùng tồn tại và phát triển.

9|Page


- Thúc đẩy quá trình đổi mới, nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học, tăng
nhanh tốc độ triển khai công nghệ mới.
1.3.2.3. . Lợi ích cho xã hội
- KCNST là một động lực phát triển kinh tế - xã hội mạnh của khu vực lân cận, thu hút
các tập đoàn lớn trong nước và nước ngoài. Tạo việc làm mới trong các lĩnh vực công
nghiệp và dịch vụ.
- Tạo động lực hỗ trợ các dự án phát triển mở rộng của địa phương về: đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực, phát triển nhà ở, cải tạo và nâng cấp hệ thống ,...

- Tạo một bọ mặt mới, một môi trường trong sạch và hấp dẫn cho toàn khu vực, làm
thay đổi cách nhìn thiếu thiện cảm cố hữu của cộng đồng đối với sản xuất công nghiệp
lâu nay.
- KCNST tạo điều kiện hợp tác với các cơ quan nhà nước trong việc thiết lập các chính
sách, luật lệ về môi trường và kinh doanh ngày càng thích ứng với xu thế hội nhập và
phát triển bền vững.
1.3.2.4. Lợi ích cho môi trường
- Giảm các nguồn gây ô nhiễm cho môi trường, giảm lượng chất thải cũng như giảm
nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên thông qua các nghiên cứu mới nhất về sản xuất
sạch, bao gồm: hạn chế ô nhiễm, tiết kiệm năng lượng, quản lý chất thải, tái tạo tài
nguyên và các phương pháp quản lý môi trường và công nghệ mới khác.
- Đảm bảo cân bằng sinh thái. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển KCNST: từ
việc chọn địa điểm, quy hoạch, xây dựng, tổ chức hệ thống khoa học, lựa chọn doanh
nghiệp, quá trình hoạt động, quản lý,... đều phù hợp với các điều kiện thực tế và đặc
điểm sinh thái của khu đất xây dựng và khu vực xung quanh.
- Tất cả vì mục tiêu môi trường, mỗi KCNST có một mô hình phát triển và quản lý
riêng để không ngừng nâng cao đặc trưng cơ bản của nó về bảo vệ môi trường.

10 | P a g e


II.CÁC ĐẶC ĐIỂM KHU CÔNG NGHIỆP SINH THÁI.
2.1.Tiêu chí và mục tiêu xây dựng khu công nghiệp sinh thái
2.1.1.Tiêu chí
 Có mật độ cây xanh cao, chiếm 20% tổng diện tích của KCN
 Cần xác định những loại hình nhà máy phù hợp với môi trường và cơ sở hạ tầng
trước khi đầu tư vào KCN. Diện tích mặt nước cân đối và đủ với diện tích KCN
để tạo khí hậu mát mẻ.
 Cần quản lý tốt môi trường nhà xưởng để giảm sự phát sinh chất thải trong các
cơ sở thành viên trong KCN từ 20%-30% bằng cách:

+ Kiểm soát hàng hóa
+ Giảm nguồn phát sinh chất thải
+ Tái phục hồi và tái sử dụng
+ Thiết kế sản phẩm phù hợp phương diện môi trường
2.1.2. Mục tiêu
 Xây dựng các tiêu chuẩn về xử lý môi trường trong KCN theo hướng sản xuất
sạch hơn.
 Xây dựng mô hình trung tâm trao đổi chất.
 Ngăn ngừa và giảm thiểu chất thải tại nguồn.
 Tái sinh và tài sừ dụng chất thải.
 Xây dựng hệ thống pháp lý và tổ chức bộ máy quản lý phù hợp.
2.1.3.Tiêu chuẩn xây dựng
 KCN sinh thái là mạng lưới hay một nhóm các doanh nghiệp sử dụng chế phẩm,
phụ phẩm của nhau.
 Tập hợp các công ty có công nghệ sản xuất bảo vệ môi trường.
 Tập hợp các công ty sản xuất sản phẩm sạch.
2.2. So sánh mô hình khu công nghiệp truyền thống với mô hình khu công
nghiệp sinh thái
2.2.1. Mô hình KCN truyền thống
- Bản chất mô hình KCN truyền thống là vận hành theo tuyến với những đóng góp
cụ thể:
11 | P a g e


+ Tăng trưởng kinh tế - xã hội. Thông thường đóng góp của CN đạt từ 30 - 40% và
đặc biệt ở nhiều quốc gia cho thấy SXCN chiếm từ 60 - 70% tỷ trọng kinh tế.
+ Nhịp độ tăng trưởng CN bình quân 12%/năm.
+ SXCN mang lại hiệu quả kinh tế cho các khoản đầu tư phát triển hạ tầng công
cộng. Một XNCN hoặc KCN được thiết kế, quy hoạch hợp lý sẽ đem lại những lợi
ích:

1) Nâng cao hiệu quả sử dụng đất khai thác các công trình tiện ích, hạ tầng kỹ thuật,
đường sá, viễn thông, thu gom xử lý chất thải, an ninh, các dịch vụ y tế, giải trí cho
người lao động;
2) Các KCN đống góp đáng kể cho diện mạo kiến trúc đô thị với những hình khối,
dáng dấp đặc biệt của các thiết bị lộ thiên, của các công trình kỹ thuật,... được diễn
đạt bằng ngôn ngữ kiến trúc nổi bật tính thời đại công nghệ mới và tiến bộ kỹ thuật.
- Những hạn chế của mô hình KCN truyền thống.
Mặt trái của SXCN hiện tại là những bất ổn về môi trường, như:
+ Ô nhiễm môi trường không khí từ: Lò đốt nhiên liệu hoá thạch; Hoạt động giao
thông vận tải, thải các chất ô nhiễm khí CO2, muội khói, bụi, chì. Năm 2000 lượng
khí CO2 tăng từ 365 ~ 380 ppm, thải vào khí quyển gây ra các biến đổi vật lý và
hoá học, mà trước hết là "hiệu ứng nhà kính".
+ Ô nhiễm môi trường nước: Nước thải CN là nguồn nước gây ô nhiễm lớn nhất đối
với tài nguyên nước. Hiện nay, hàng năm trên thế giới có trên 500 tỷ tấn nước thải
bẩn vào khu vực thiên nhiên và cứ 10 năm, số nước thải này tăng gấp đôi.
+ Ô nhiễm môi trường đất: Khai thác khoáng sản là tác động chính gây ra ô nhiễm
môi trường đất, chiếm khu vực đất lớn ở các mỏ than, Apatít, thiếc, Cromit, Vàng,
đá quý. Chặt phá, khai thác rừng làm tăng diện tích đất trống đồi trọc, giảm diện
tích rừng che phủ, đất bị thoái hoá, đẩy nhanh tốc độ sa mạc hoá.
+ Ô nhiễm ánh sáng như ánh sáng xâm nhập (Light trepass) là ánh sáng nhân tạo
xâm nhập vào không gian của người khác, khi họ không mong muốn. Lạm dụng
ánh sáng là việc sử dụng quá mức ánh sáng.
Ngót 3 thế kỷ hình thành và phát triển CN, nhân loại đã tiêu thụ một khối lượng
nguyên - vật liệu khổng lồ, tiêu tốn quá mức tài nguyên không thể tái tạo, sử dụng
12 | P a g e


quá nhiều tài nguyên độc hại,... dẫn đến sự mất cân bằng nghiêm trọng trong mối
quan hệ: Thiên nhiên - Con người - Tài nguyên.
+ Yếu tố công nghệ: vận hành theo tuyến, các nguyên liệu và năng lượng qua chế

tác phần lớn đã chuyển hoá thành sản phẩm hàng hoá, một phần trở thành chất thải.
Các sản phẩm hàng hoá được con người sử dụng cuối cùng cũng trở thành rác thải
(Wasts). Cả hai loại chất thải này không có cơ hội tái chế, tái sử dụng, cuối cùng bị
thải bỏ trực tiếp vào môi trường tự nhiên. Những yếu tố này dẫn tới những bức xúc
về chất thải CN, dồn nén và gây tác động môi trường, kéo theo sự xuống cấp chất
lượng môi trường là bằng chứng không thể chối cãi.
+ Mô hình hoạt động: Quá trình công nghệ sản xuất sử dụng nguyên liệu và năng
lượng vận hành theo quy trình - theo tuyến (Hình 1).
Năng lượng

Sản
phẩm

Nguyên liệu

Sản xuất

tự nhiên

chế tạo

Tiêu
thụ

Phế

Thải bỏ

phẩm


vào

Năng lượng
thừa

môi
trường

Hình 1. Sơ đồ quá trình công nghệ vận hành theo tuyến của KCN truyền thống
+ Quy hoạch địa điểm xây dựng CN bất họp lý: Nhiều vị trí CN ở trước hướng gió,
hoặc đầu nguồn nước so với khu dân cư. Nhiều trường hợp địa điểm xây dựng CN
ngay trong khu dân cư.
2.2.2. Mô hình khu công nghiệp sinh thái
Mô hình KCNST là khái niệm khá mới. Lần đầu tiên 2 nhà khoa học Mỹ, Frosch và
Gallopoulos đã định nghĩa một cách đơn giản: Chất thải từ một quá trình này có thể
được sử dụng như nguyên liệu thô, đầu vào cho một quá trình khác (1989). Sau đó
nhiều ý tưởng được bổ sung và đi đến những khái niệm khá thống nhất: "KCNST là
cộng đồng các XNCN và dịch vụ kinh doanh được sắp đặt trên cùng địa điểm vì lợi
ích chung. Các DN thành viên cố gắng đạt tới việc cải thiện môi trường, hiệu quả
kinh tế và thực hiện nhiệm vụ xã hội thông qua công tác quản lý môi trường và
nguồn tài nguyên. Bằng cách cùng làm việc, cộng đồng các DN đạt được lợi ích
13 | P a g e


chung lớn hơn nhiều so với tổng lợi ích riêng lẻ mỗi công ty thực hiện bằng tối ưu
hoá mọi hoạt động tại từng cơ sở của mình".
- Mục tiêu của KCNST: Cải thiện hiệu quả kinh tế của các DN tham gia KCNST
đồng thời giảm thiểu các tác động môi trường của các DN thành viên. KCNST
Kalundborg ở Đan Mạch là một bằng chứng. Đây là KCN đầu tiên trên thế giới ứng
dụng Cộng sinh CN, một trong những nghiên cứu ứng dụng Sinh Thái học Công

nghiệp vào một hệ thống trao đổi năng lượng và nguyên - vật liệu giữa các Cty.
Trong vòng 15 năm (từ 1982 - 1997), KCN này đã giảm lượng tiêu thụ năng lượng
gồm dầu, than đá, nước. Đồng thời giảm đến mức thấp nhất khi CO2 và SO2 thải
vào môi trường xung quanh.
- Quy trình công nghệ: Vận hành theo hệ thống khép kín (Hình 2)
- Những đóng góp của mô hình KCNST .
Theo thống kê năm 2001, các Cty trong KCN Kalundborg thu được 160 triệu USD
lợi nhuận, trong khi chỉ đầu tư 75 triệu USD cho vận hành KCN theo mô hình
KCNST.
KCN Quzchou, tỉnh Zhejiang, Trung Quốc, diện tích 600 ha, là một KCNST hoá
chất. Tập đoàn chủ chốt là Juhua Group, tập trung vào 3 ngành CN hoá chất chính:
florua, clo và soda SX trên 180 loại sản phẩm hoá chất khác nhau.
Juhua Group thải ra khoảng 800 nghìn tấn chất thải rắn/năm (chủ yếu là tro, bụi bay
và hoá chất thải bỏ),80% lượng chất thải này được sử dụng tại các nhà máy SX xi
măng và gạch ở Quzchou. Juhua Group thải ra khoảng 23.000 tấn chất thải
lỏng/năm, trên 70% lượng chất thải này được các DNTV nhỏ tái chế và tái sử dụng.

Hình 2. Sơ đồ quá trình công nghệ vận hành theo tuyến của KCNST
14 | P a g e


- Phát triển KCNST trên thế giới.
Tuy mới ra đời vào những năm 90 của TK trước, mô hình KCNST đã được ứng
dụng ở nhiều quốc gia. Đến 2001 đã có 100 KCNST trên thế giới, trong đó ở Mỹ:
40, Thái Lan: 28 và còn lại ở Canada, Mehico, Anh, Pháp, Đức, Áo,Đan Mạch,
Nauy, Algieire, Nam Phi, Australia, Indonesia, Philipine, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc,...
Bằng phương pháp phân tích và tổng hợp các mô hình KCN, so sánh các yếu tố
công nghệ, sử dụng tài nguyên và tác động môi trường cho phép lựa chọn cách ứng
xử trong SXCN trước những thách thức của thực tế phát triển.

Bảng so sánh các mô hình KCN

KCN

hình Quá trình
Công

Sử dụng

Chất thải

Tài nguyên

Giải pháp

Mục tiêu

Xử lý

Môi

nghệ
Theo tuyến Không chọn Tăng theo

KCN

lọc

truyền
thống

KCN
thiện

trường

thân
Theo tuyến Tối ưu hoá

Thải vào

Ô nhiễm

phát triển môi trường
CN

môi
trường

Giảm phát Phối hợp các
sinh
giải pháp

Bảo tồn tài
nguyên

Giảm
đa

tối Tuần hoàn,


Giảm tác

tái chế

động MT

môi trường
KCNST

Hệ thống

Có chọn lọc

Bảng tóm tắt sự khác nhau cơ bản giữa KCN sinh thái và KCN truyền thống
Đặc tính

KCN sinh thái

KCN truyền thống

Đơn vị cơ bản

Nhà máy

Nhà máy

Dòng vật chất

Hệ khép kín


Chủ yếu là biến đổi theo

15 | P a g e


một chiều
Tái sử dụng

Hầu như hoàn toàn

Thường rất thấp

Vật liệu

Sử dụng tiết kiệm và tận Hầu như được sử dụng một
dụng triệt để vật liệu của cách phung phí để chế tạo
nhà máy này làm nguyên ra vật liệu khác, vật liệu bị
liệu cho nhà máy khác

pha loãng quá mức có thể
tái sử dụng, nhưng lại bị cô
đặc đủ để gây ô nhiễm.

Quá trình tái tạo

Nhà máy thực hiện công
tác thu gom, phân loại và
xử lý các vật liệu có khả
năng tái chế


Sản xuất ra sản phẩm và
cung cấp dịch vụ là mục
đích chủ yếu của khu công
nghiệp nhưng tái sản xuất
không phải là bản chất của
KCN.

16 | P a g e


III.VÍ DỤ MỘT MÔ HÌNH KHU CÔNG NGHIỆP SINH THÁI (KCNST
BURLINGTON,MỸ)

Mô hình khu công nghiệp sinh thái tại Burlington ,Mỹ.
Khái niệm thiết kế sinh thái đang bắt đầu được áp dụng cho sự phát triển của nền kinh
tế tổng hợp trong bối cảnh công nghiệp hiện nay. Thách thức của sinh thái công nghiệp
là tạo ra các công nghệ mới hỗ trợ cơ sở hạ tầng của xã hội loài người.
Khu công nghiệp sinh thái được định nghĩa là : “Một cộng đồng các doanh nghiệp hợp
tác với nhau và với các cộng đồng địa phương để chia sẻ hiệu quả tài nguyên (thông
tin,tài liệu,nước,năng lượng,cơ sở hạ tầng và môi trường sống tự nhiên),dẫn đến hiệu
quả kinh tế,cải thiện chất lượng môi trường và nâng cao công bằng các nguồn nhân lực
cho doanh nghiệp và cộng đồng địa phương. (Hội đồng về phát triển bền vững,1996).
Các thành phố như Burlington đã thành lập các trung tâm cộng đồng doanh nghiệp
Intervale (ICEC) để phát triển quanh năm.
Nông nghiệp tại đây nằm trên khu vực rộng 280 hecta,trên một vùng giới hạn đất ngập
thuộc thành phố Burlington.KCN sẽ tận dụng được phần lớn nhiệt thải từ nhà máy điện
MCNeil,công suất 53MW.Các nhà máy điện MCNeil,một trong những nơi tiêu thụ
lãng phí gỗ nhất của quốc gia.
Dự án thu hút một số doanh nghiệp liên minh bao gồm : một nhà máy bia,một khu xử
lý thực phẩm,nhà hàng và một loạt các nhà vườn và trang trại.

17 | P a g e


Mục đích chính của KCN sinh thái tại Burlington là tận dụng nhiệt thải sinh ra từ nhà
máy điện trong khu vực (trước đây được đánh giá là lãng phí) để sưởi ẩm cho các trang
trại và làm ấm nhà kính (thay vì sử dụng đèn như truyền thống),bên cạnh đó tạo ra một
chu trình tiếp cận với các chất thải hữu cơ,biến đổi sinh thái tạo thành các sản phẩm có
giá trị cao.Quá trình chuyển đổi sinh thái cần có một số giai đoạn.
Giai đoạn 1.
Các vật liệu hữu cơ được pha trộn,tiệt trùng. Sau đó được cấy nấm sò,các chất nền
được đặt trong một túi nhựa được đục lỗ,sau đó được đem đặt trong một căn phòng ủ
nấm.Khi nấm đã phát triển đủ người ta mang chúng đến một nhà xử lý và thu
hoạch.Hiệu quả sinh học chuyển đổi,tỷ lệ trọng lượng ướt của nấm thu hoạch với trọng
lượng khô của bề mặt,đã vượt quá 60%.Sau khi thu hoạch,chất nền còn lại được xem
như là một nguồn thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao cho chăn nuôi.Trong quá trình sản
xuất nấm,các hình thức sinh dưỡng của nấm xâm nhập vào rơm và các loại ngũ cốc (từ
nhà máy bia) tạo ra các axit amin thiết yếu như Lysine. Các thử nghiệm thức ăn này
cho gia súc và cá rô phi đã chứng minh tính hiệu quả của chúng.
Giai đoạn 2.
Các chất nền thừa của nấm được đặt trong các phòng nuôi giun.Tại đây,giun đất biến
đổi các chất nền thừa thành các chất giàu dinh dưỡng.Giun đất cũng là một sản
phẩm,phối hợp cũng với một số thủy sinh vật khác làm thức ăn cho cá trong nuôi trồng
thủy sản.
Gian đoạn 3.
Phân bón từ quá trình biến đổi của giun đất được sử dụng cho việc bón phân cho cây
rau (xà lách,rau xanh).Hoàn toàn không bón thêm bất kì loại phân bón hóa học nào
khác là yêu cầu cho việc sản xuất rau xanh.Ngoài ra phân bón dư có thể đem bán cho
các nông trại địa phương.
Sản phẩm rau sạch và nấm của quá trình được bán và cung cấp cho nhà hàng địa
phương hoặc các chợ trong khu vực.


18 | P a g e


Hình a : Chất thải ngũ cốc từ nhà máy bia.
Hình b : Nấm phát triển từ chất nền pha trộn.
Hình c : Rau xanh
Hình d : Giun đất được nuôi để cải tạo đất.
Thành phần quan trọng trong việc thiết kế các hệ thống thực phẩm tích hợp cho các
vùng đô thị là nuôi trồng thủy sản.Mô hình nuôi trồng thủy sản tại KCN sinh thái được
thiết kế qua 4 modun.

19 | P a g e


Nguyên lý hoạt động : tại modun 1,cá được cô lập tại các ngăn và được cung cấp thức
ăn và nước tuần hoàn từ Modun 4,nước thải sẽ qua các modun tiếp theo (2,3,4) và tại
các modun đó sẽ được thêm vào các thủy sinh vật giúp xử lý các chất dinh dưỡng (như
20 | P a g e


Nitơ ,Photpho sinh ra từ chất thải rắn của cá) làm tăng quá tình làm sạch nước.Modun
cũng đươc cung cấp oxy từ một máy thổi khí..Đây là một chu trình khép kín.
Nếu phương pháp tiếp cận như vậy chứng minh được hiệu quả trong bối cảnh đô thị thì
các vấn đề lớn hơn về an ninh lương thực sẽ được giải quyết thông qua sự áp dụng các
khái niệm sinh thái công nghiệp.

21 | P a g e



IV.KẾT LUẬN
4.1. Cơ hội và thách thức trong việc áp dụng mô hình KCNST ở Việt Nam
(Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam).
4.1.1. Cơ hội
- Chuyển đổi từ mô hình KCN truyền thống thuộc VKTTĐPN sang mô hình KCNST
trên nền tảng của vị trí khu đất hiện có, không cần hình thành trên một địa điểm mới,
do vậy không ảnh hưởng tới quỹ đất đô thị và không bị chi phối bởi sự bành trướng của
quá trình đô thị hoá và không xâm phạm tới đất đai nông nghiệp có giá trị.
- Sử dụng có hiệu quả của hệ thống Hạ tầng kỹ thuật có sẵn.
- Sử dụng mạng lưới giao thông vận chuyển hiện hữu của Vùng và kết nối với mạng
lưới giao thông thuỷ, đường bộ, đường sắt và đường hàng không quốc gia và quốc tế.
4.1.2. Thách thức
Trường hợp trên khu đất của KCN cũ:
- Khó xây dựng được Hệ STCN đối với bán thành phẩm, phụ phẩm, chất thải nguyên
liệu và năng lượng ở đầu vào, đầu ra, vận chuyển trong một số DN hiện hữu và chuyển
đổi thành công nghệ Bảo vệ môi trường.
- Khó giải quyết mâu thuẫn giữa các DN có sẵn hay tham dự mới vào KCNST.
- Khó xác định chính xác năng lực của Hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện hữu và các hệ
thống dịch vụ khác để chuyển đổi sang Hệ thống hạ tầng kỹ thuật theo chủ đề môi
trường đã định. Thật sự khó khăn đối với các DN không đủ tiêu chuẩn là DN thành
viên của KCNST phải di dời hay chuyển đổi ngành nghề SX để trở thành các STCN.
Trường hợp trên khu đất hoàn toàn mới:
- Thuận lợi triển khai Hệ thống hạ tầng kỹ thuật theo chủ đề môi trường đã định.
- Chi phí đầu tư cho hệ thống này sẽ rất cao và phụ thuộc rất nhiều vào tiềm lực Hạ
tầng kỹ thuật toàn vùng.
- Tối ưu hoá dòng năng lượng và nguyên liệu còn phụ thuộc khả năng tổ chức.
Hệ STCN trên quy mô toàn VKTTĐPN.
4.1.3. Sự hỗ trợ
Xây dựng mô hình KCNST cho các Khu / Cụm CN hiện hữu đòi hỏi sự hỗ trợ của Nhà
nước về chính sách, chủ trương và các giải pháp cụ thể, như:

- Miễn giảm chi phí thuê đất cho các DN và người thuê đất.
- Hỗ trợ tài chính trong quá trình thay đổi công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực.
- Khuyến khích các DN tham gia KCNST.
- Các tiêu chí định hướng phát triển bền vững CN của Bộ Công Nghiệp.
22 | P a g e


4.2.Lời kết.
Qua quá trình phát triển kinh tế với việc các KCN ngày càng nhiều mang lại nguồn lợi
đáng kể cho đất nước,đem lại những thành tựu to lớn,khẳng định vai trò quan trọng của
sự nghiệp công nghiệp hóa,hiện đại hóa,đẩy nhanh tiến trình hội nhập với nền kinh tế
khu vực và quốc tế.Tuy nhiên vấn đề môi trường của KCN cần được quan tâm đúng
mức của cộng đồng.Nhiều nhà khoa học đã nhận ra rằng việc xử lý phần ngọn của các
triệu chứng môi trường (chất thải,khí thải,nước thải…) mà chưa giải quyết các nguyên
nhân chính làm phát sinh chất thải.Vì vậy các nhà khoa học đề xuất xây dựng mô hình
các khu công nghiệp sinh thái (KCNST) để hướng tới phát triên bền vững KCN,góp
phần bảo vệ môi trường.Để xây dựng KCNST cần điều chỉnh quy hoạch để nâng cao
chất lượng triển khai thực hiện quy hoạch các KCN (đẩy mạnh xúc tiến đầu tư vào các
khu công nghiệp) ; phát triển cơ sở hạ tầng các KCN một cách đồng bộ theo hướng
KCN,KCX kết hợp chặt chẽ với bảo vệ môi trường (phát triển đào tạo nguồn nhân lực
có tay nghề,hoàn thiện mô hình tổ chức,hoàn thiện khung pháp lý…) ,học hỏi kinh
nghiệm từ các nước có nền công nghiệp phát triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu.
[1] Trần Thị Nguyệt Sương. Sản xuất sạch hơn (Bài giảng tóm tắt)
Bài viết học thuật.
[2] John Told,Erica J.G.Brown,Erik Wells, 2003, Ecological design applied.
Burlington,USA.
[3] Odum, H.T., 1971. Environment, Power and Society. Wiley/Interscience, New

York City, 331 pp.
Trang web.
[4] />[5] />[6] />
23 | P a g e



×