Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Các ví dụ thành công về khu công nghiệp sinh thái trên thế giới docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.5 KB, 8 trang )

Mục lục
1. Khu công nghiệp Kalundborg (Đan Mạch) 2
2. Quảng Đông – Trung Quốc 3
3. Thành phố Fujisawa - Nhật Bản 5
4. Thành phố Tirupur - Ấn Độ 6
5. Dự án PRIME, Philippin 6
6. Khu công nghiệp xanh ở Thái Lan 7
7. Bài học kinh nghiệm cho KCN Biên Hòa 1 7
Hình 1-Hệ sinh thái công nghiệp – KCN Kalundborg, Đan Mạch 3
Hình 2-Hệ sinh thái công nghiệp – Tập đoàn Guitang, Quảng Đông, Trung Quốc 2-1 4
MÔ HÌNH HỆ SINH THÁI CÔNG NGHIỆP TRÊN THẾ GIỚI
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO KHU CÔNG NGHIỆP BIÊN HOÀ 1
Khái niệm hệ sinh thái công nghiệp lần đầu tiên đưa ra bởi Robert Frosch và Nicholas
Gallopoulos trên tạp chí Scientific American năm 1989, nhưng trên thực tế mô hình hệ sinh
thái công nghiệp với qui mô trao chất công nghiệp đã xuất hiện trước đó. Một ví dụ điển hình
là KCN kalundborg (Đan Mạch) bắt đầu từ năm 1972 và ngày càng hoàn thiện. Những năm
gần đây mô hình hệ sinh thái công nghiệp càng được triển khai rộng rãi trên khắp thế giới do
tính ưu việt như đã được giới thiệu. Trong phần này, tập trung giới thiệu về KCN
Kalundborg - điển hình về cộng sinh công nghiệp và một số dự án phát triển KCN theo
hướng hệ sinh thái công nghiệp đã và đang triển khai ở châu Á, từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm cho KCN Biên Hoà 1.
1. Khu công nghiệp Kalundborg (Đan Mạch)
Khu công nghiệp Kalundborg có thành phần chính là nhà máy điện Asnaes đốt than để
chuyển hoá thành điện năng với công suất 1.500 MW, hiệu suất chỉ đạc 40%, 60% năng
lượng còn lại thải ra môi trường. Để mang lại lợi ích kinh tế, năng lượng thải ra được cấp cho
nhà máy lọc dầu Statoil, nhà máy sản xuất dược phẩm và enzyme Novo Nordisk, Nông trại
nuôi cá Asnaes và khu dân cư Thành Phố Kalundborg (20.000 dân). Các chất thải khác từ
nhà máy điện Asnaes như thạch cao được chuyển cho công ty làm ván trát tường Gyproc, tro
và xỉ chuyển cho công ty sản xuất xi măng và vật liệu lát đường Aalborg. Ngoài ra chất thải
sunfur từ nhà máy lọc dầu Statoil được sử dụng sản xuất axit sulfuric (công ty Kemira) bùn
thải từ nhà máy Novo nordisk và nông trại nuôi cá chuyển làm phân bón cho nông trại, …


Mô hình KCN Kalundborg biểu diễn ở hình 3.1.
Hình 1-Hệ sinh thái công nghiệp – KCN Kalundborg, Đan Mạch
Nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho sự hình thành cộng sinh công gnhiệp trong khu công
nghiệp Kalundborg
1
:
- Sự phù hợp giữa các ngành công nghiệp trên phương diện trao đổi chất thải;
- Khoảng giữa các nhà máy không quá xa;
- Mỗi nhà máy đều nắm được thông tin liên quan đến các nhà máy khác;
- Động cơ thúc đẩy các nhà máy tham gia là sự phát triển kinh tế bền vững;
- Sự phối hợp giữa các nhà máy trên tinh thần tự nguyện và phù hợp với qui định của
cơ quan chức năng.
2. Quảng Đông – Trung Quốc
Vùng Quảng Đông ở phía Nam Trung Quốc là nguồn mía lớn nhất, sản xuất ra hơn 40 % sản
lượng đường của cả nước. Chi phí sản xuất đường của Quảng Đông khá cao, hầu hết các nhà
1
Lowe, E. A., Eco-industrial Park Handbook for Asian Developing countries, report to Asian Development
Bank, 2001.
Nhà máy lọc dầu
Statoil
Nhà máy
điện Asnaes
Novo Nordisk
(SX dược phẩm
và enzyme
Khu dân cư
TP. Kalundborg
Nông trại nuôi
cá Asnaes
Kemira

(SX acid sulfuric)
Gyproc
(SX ván trát tường)
Aalborg
(SX ximăng và vật
liệu lát đường)
Nông trại
Bùn giàu dinh dưỡng
Bùn
Hơi nóng
170.000 tấn tro & xỉ/năm
215.000 tấn
hơi/năm
225.000 tấn
hơi/năm
80.000 tấn
thạch cao/năm
Methane và Ethane 14.000 tấn hơi/năm
Sulfur
máy tinh chế đường không tái chế các chất thải của mình. Điều này làm họ mất đi nguồn thu
nhập thứ hai và thải ra một lượng lớn chất thải vào không khí, nước và đất.
Tập đoàn Guitang thành lập 1954, là công ty tinh chế đường mía lớn nhất Trung Quốc với
hơn 3.800 công nhân và 14.700 ha đất trồng mía. Tập đoàn Guitang đã tạo ra một tổ hợp các
công ty ở Guitang để tái sử dụng các chất thải và do đó đã làm giảm thiểu được sụ ô nhiễm.
Tổ hợp này bao gồm: nhà máy đường, nhà máy rượu, nhà máy phân bón, nhà máy bột giấy
và giấy, nhà máy giấy vệ sinh, nhà máy đá vôi, nhà máy xi măng và các nhà máy liên kết
khác. Mục tiêu hàng đầu là “giảm chất ô nhiễm, giảm chi phí và tiềm kiếm lợi nhuận hơn từ
việc tái sử dụng chất thải”
2-1
. Sản phẩm của tổ hợp các công ty Tập đoàn Guitang là 120.000

tấn đường/năm, 25.000 tấn đá vôi/năm, 30.000 tấn phân/năm và 8.000 tân kiềm/năm. Dòng
vật chất được biểu diễn trong hình 3.2.
Hình 2-Hệ sinh thái công nghiệp – Tập đoàn Guitang, Quảng Đông, Trung Quốc
2-1
Trong tương lai, Tập đoàn Guitang xây dựng hệ sinh thái công nghiệp bao gồm:
1. Trang trại bò thịt và bò sữa sử dụng lá mía sấy khô làm thức ăn.
2
Duan, Ning. 2001. Make Súnnet Sunrise: Efforts for contruction of the guigang eco-industrial city. Dràt paper
from Chinese Research Academy of environmental Sciences, Beijing.
Cánh
đồng mía
NHÀ MÁY
ĐƯỜNG
Nhà máy
phân bón
Nhà máy
xi măng
Nhà máy
rượu
Nhà máy
giấy
Bùn trắng
Bã mía
Rỉ mật
Bã rượu
Phân bón
Cây mía
2. Nhà máy chế biến sữa để sản xuất sữa tươi, sữa bột và sữa chua cho thị trường địa
phương.
3. Nhà máy chế biến thịt bò thuộc da.

4. Nhà máy hoá sinh để sản xuất các axit amin dựa trên các sản phẩm dinh dưỡng và sản
phẩm hoá sinh khác sử dụng chất thải từ nhà máy chế biến thịt bò.
5. Phát triển các công ty trồng nấm sử dụng phân bón từ trang trại nuôi bò thịt và bò
sữa. Phần còn lại của quá trình trồng nấm sẽ được sử dụng làm phân bón tự nhiên cho
các cánh đồng mía.
Kế hoạch xây dựng Thành Phố Guitang trở thành Thành Phố công nghiệp sinh thái:
Kế hoạch kêu gọi các xí nghiệp sản xuất đường quy mô nhỏ chuyên chở các chất thải của
mình tới tổ hợp công nghiệp sinh thái Guitang và đặt mục tiêu tái sử dụng các chất thải một
cách triệt để nhất: “Tái sử dụng tới 80% xỉ và bã mía, 100% mật rỉ, 100% bã rượu”; đồng
thời kêu gọi hợp nhất các vùng trồng mía thành vùng trồng mía rộng hơn. kế hoạch bao gồm
cả việc đào tạo các nhà quản lý cho chính phủ và các KCN, tổ chức thực hiện KCNST và phổ
biến rộng rãi các chiến lược SXSH. Một số mục tiêu dài hạn của kế hoạch này như sau:
1. Phát triển KCN mía đường sinh thái để có thể trồng cây mía hữu cơ, tăng hàm lượng
đường của cây mía, tăng sản lượng trên 1m
2
đất trồng và tăng vụ.
2. Mở rộng các nhà máy giấy với mục tiêu tăng sản lượng lên tới 300.000 tấn/năm.
3. Chuyển đổi một phần sản phẩm đường sang Fructoza là loại tiêu thụ tốt hơn.
4. Tạo điều kiện để sản xuất cồn nhiên liệu từ rỉ mật (công suấ 200.000 tấn/năm). Sản
phẩm cồn nhiên liệu này sẽ góp phần làm ô nhiễm không khí do khí thải của phương
tiện giao thông.
5. Thông qua công nghệ sử dụng ít clo để tẩy trắng bột giấy, giấy tạo ra từ công nghệ
này sẽ trắng hơn giấy được làm theo công nghệ truyền thống.
3. Thành phố Fujisawa - Nhật Bản
Tập đoàn EBARA – Khu công nghiệp sinh thái Fujisawa
Tập đoàn EBARA của Nhật Bản thành lập năm 1912 là một tập đoàn bao gồm nhiều nhà
máy sản xuất máy móc công nghệ cao, thiết bị điện chính xác và thiết bị môi trường. Sản
phẩm gồm có bơm, tuabin, máy hút bụi, tủ lạnh, thiết bị điều hoà không khí, hệ thống xử lý
nước thải, chất thải rắn, bùn và hệ thống cọ rửa.
Đáp ứng nhu cầu của các công ty kỹ thuật môi trường chuyển đổi từ công nghệ cuối đường

ống sang giảm thiểu phát sinh chất thải, EBARA quyết định thực hiện kế hoạch biến 35 ha
Fujisawa thành KCNST hoàn thiện bằng việc áp dụng khái niệm ô nhiễm cho các sản phẩm
và công nghệ sản xuất của KCN. KCNST kết hợp chặt chẽ tất cả các lĩnh vực của cuộc sống
thành thị bao gồm nơi ăn chốn ở, công nghiệp, nông nghiệp, bán lẻ, dịch vụ công cộng, cơ sở
hạ tầng, nghiên cứu, phát triển, thể thao, giải trí và các vùng tự nhiên. Tất cả các hoạt động
công nghiệp, nông nghiệp, hộ gia đình, thương mại, dịch vụ, … tạo ra dòng vật chất khép kín
trên cơ sở tái sinh và tái sử dụng chất thải trong nội bộ. Trọng tâm của quy trình này là các
nhà máy lọc nước, xử lý nước thải và sản xuất điện.
Các công nghệ chính được kết hợp trong khu công nghiệp và các chức năng trong hệ thống
bao gồm:
- Hệ thống đốt cháy hoá khí tầng sôi và nấu chảy tro biến các rác thải thành thị, nông
thôn, chất thải và nhựa thành các sản phẩm bán được như amoniac, mêtan, hyđrô từ
khí bị đốt cháy. Sự đốt cháy đồng thời cung cấp nhiệt cho nhà máy nhiệt điện;
- Hệ thống xử lí khí thải chuyển các khí thành nitơ và oxit sunfua được sử dụng làm
phân bón trong nông nghiệp;
- Hệ thống pin mặt trời và các máy phát điện sử dụng sức gió đặt trên các máy nhà để
tạo ra điện và đun nước nóng;
- Hệ thống xử lý nước thải tách phần nước dùng để cọ rửa nhà vệ sinh, tưới cây, vườn,
công viên, phần bùn cặn qua hệ thống xử lý bùn được sử dụng làm phân trong nông
nghiệp;
- Bơm trao đổi nhiệt nước thải sử dụng khả năng lưu trữ cho mục đích làm lạnh và đun
nóng;
- Công nghệ pin nhiên liệu mới sẽ chuyển đổi khí mêtan hoặc hiđrô thải ra từ hệ thống
khí hóa, đốt cháy thành năng lượng điện nhờ các phản ứng hóa học;
- Hệ thống cung cấp nước trực tiếp bao gồm hàng loạt các máng nước trên máy nhà và
bồn chứa để giảm chi phí năng lượng kết hợp với việc bơm nguồn nước ngầm;
- Các ngôi nhà sẽ được thiết kế hiệu quả cao với các vật liệu xây dựng cách nhiệt và
một hệ thống nước thải chân không để tiết kiệm nước.
Các công nghệ sử dụng trong dự án này được đánh giá làm giảm lượng tiêu thụ năng lượng
tới 40%, giảm lượng tiêu thụ nước tới 30%, giảm lượng nước thải tới 95%, lượng oxit

cacbonic 30% so với hệ công nghiệp/thành phố truyền thống.
Dự án ở Fujisawa chỉ do EBARA cung cấp tài chính, quản lí và thực hiện với sự cộng tác của
đại học UN và ZERI (nơi cung cấp các thông tin).
4. Thành phố Tirupur - Ấn Độ
Tirupur là trung tâm sản xuất vải sợi. Thành Phố Tirupur nằm ở phía Nam Ấn Độ với dân số
khoảng 300.000 người, gồm 4000 cơ sở dệt vải. Sản phẩm vải sợi mang lại giá trị khoảng
700 triệu đô la Mỹ/năm và phần lớn sản phẩm được xuẩt khẩu mang giá trị ngoại tệ lớn.
Thành phố Tirupur là vùng đất khan hiếm nước và càng khan hiếm hơn khi nguồn nước
ngầm không sử dụng được do hoạt động ngành dệt làm ô nhiễm. trong khi đó, một số lượng
nước lớn bị ô nhiễm đủ loại hóa chất sau quá trình nhuộm thải ra hàng ngày khoảng 90 triệu
lít. Nước sạch được mua từ nguồn nước ngầm không bị ôn nhiễm cách Tirupur 50 km, vận
chuyển bằng xe tải với chi phí khổng lồ. Dự án lớn (khoảng 30 triệu đô la Mỹ) đầu tư xử lý
nước thải nhưng kết quả là nước cũng không thể sử dụng được.
Để khắc phục tình trạng khan hiếm nước và giảm tiêu hao nhiên liệu, các nhà máy dệt nhộm
phát triển hệ thống tái sử dụng. Thứ nhất tái sử dụng nước của công đoạn nhuộm, do đó giảm
lượng nước cần sử dụng. Thứ hai, tái sử dụng lại phế liệu từ nguyên liệu (bông, đay, gai,…)
và giấy thải để đốt thay vì phải đốt 500.000 tấn củi vốn đã khan hiếm. bằng cách này các
doanh nghiệp giảm rất nhiều chi phí mua nước và củi đốt.
5. Dự án PRIME, Philippin
PRIME là tên viết tắt của sự tham gia quản lí môi trường của khu vực tư nhân, là một dự án
môi trường công nghiệp thuộc chương trình phát triển của liên hiệp quốc và bộ đầu tư –
Phòng thương mại & công nghiệp ở Philippin. Dự án PRIME triển khai bắt đầu từ năm 1998,
bao gồm bốn chương trình: (1) những việc phải làm cho các doanh nghiệp trong thế kỹ 21,
(2) sinh thái công nghiệp, (3) hệ thống quản lý môi trường và (4) tìm kiếm các cơ hội liên kết
giữa các nhà máy.
Dự án sinh thái công nghiệp thí điểm ở 6 KCN: 5 KCn ở Laguna và tỉnh Batangas: KCN
quốc tế Laguna (binan, Laguna), khu khoa học công nghệ nhẹ (Cabuyao, Laguna), khu công
nghệ Laguna (Sta.Rosa, Laguna), khu công nghiệp Carmelray (Canlubang, Lugana) và trung
tâm công nghiệp Lima (Malva, Batagas) và địa điểm thứ sáu nằm ở tình Bataan: công ty dầu
khí quốc gia Philippin. Dự án này tập trung vào việc trao đổi chất thải. Sự đa dạng của các

chất thải ở các khu công nghiệp khác nhau sẽ kết nối tốt hơn giữa nhà máy thải và nhà máy
sử dụng. Dự án PRIME đã hỗ trợ các nhà máy phân tích số liệu và đơn giản hóa các luồng
thông tin liên quan tới việc trao đổi tiềm năng. Các phân tích này bao gồm việc xác định chất
thải tiềm năng và những nhà máy sử dụng các loại chất thải cụ thể, công nghệ chế biến lại và
chuyên chở, các cơ liên kết các nhà máy bằng việc trao đổi chất thải. Đồng thời, dự án đề ra
chiến dịch giảm lượng của các nhà máy. Đến mùa thu 2000, một cuộc hội thảo cho các doanh
nghiệp thuê KCN đã thu hút 70 doanh nghiệp tham gia với những chất thải trao đổi như dầu,
nước, bao bì đóng gói đã qua sử dụng,…
6. Khu công nghiệp xanh ở Thái Lan
KCN xanh được khởi xướng bởi Ban quản lí các KCN của Thái Lan (IEAT) – quản lí 28 khu
công nghiệp. KCN xanh bắt đầu phát triển ở 5 địa điểm nhỏ để học cách triển khai và sau đó
làm việc với tất cả các KCN ở Thái Lan. Năm địa điểm đó là KCN MapTa Phut (KCN hóa
dầu), KCN bờ biển đông với các nhà máy sản xuất ô tô và điện tử, KCN Bangpoo KCN phía
Bắc được xây dựng vào thập niên 80 với nhiều nhà máy khác nhau. Các địa điểm nhỏ phản
ánh cả các KCN mới hoặc củ và là hình ảnh tiêu biểu của các ngành công nghiệp ở Thái Lan.
Với mục tiêu là xây dựng KCN sinh thái, IEAT đề ra hợp tác trao đổi chất thải, khôi phục
nguồn tài nguyên, sản xuất sạch hơn, các chương trình cộng đồng và phát triển mạng lưới
công nghiệp sinh thái kết nối các nhà máy trong KCN với bên ngoài KCN. Sau thời gian thực
hiện, IEAT nhận thấy việc tái sử dụng các chất thải ngay trong nhà máy là mối quan tâm
hàng đầu, các cơ hội trao đổi chất thải trong nhà máy ở trong một khu công nghiệp nào đó là
có giới hạn. Sự giới hạn này thúc đẩy việc tiềm kiếm cơ hội trao đổi chất thải với các nhà
máy bên ngoài KCN. Để phát triển KCN xanh cần xây dựng
1
:
1. Hệ thống khôi phục tài nguyên hợp nhất hoặc có thể là khu công nghiệp khôi phục tài
nguyên.
2. Hệ thống khuyến khích và quản lý việc trao đổi chất thải.
3. Đào tạo và giúp đỡ tất cả các mặt của sự phát triển công nghiệp sinh thái.
4. Quản lý mạng lưới/ đơn vị phối hợp và các nhóm làm việc.
5. Văn phòng tăng cường ý thức cộng đồng để quản lí các dự án với các cộng đồng xung

quanh.
6. Một hoặc nhiều vườn ươm doanh nghiệp.
7. Hỗ trợ khu vực công cộng trong việc nghiên cứu & phát triển, phát triển chính sách,
đánh giá để đầu và quản lý thông tin.
7. Bài học kinh nghiệm cho KCN Biên Hòa 1
Qua những dự án phát triển hệ sinh thái công nghiệp của các nước đang phát triển ở Châu Á
và mô hình điển hình (KCN Kalundborg) cho thấy để phát triển KCNST cần:
− Có chiến lược phát triển và lộ trình cụ thể;
− Qui mô ban đầu nhỏ để thí điểm sau đó mở rộng;
− Lợi ích kinh tế và môi trường đặt lên hàng đầu;
− Thông tin chất thải của từng nhà máy phải đầy đủ và việc trao đổi thông tin giữa các
nhà máy phải thường xuyên;
− Sự tham gia của các nhà máy là tự nguyện, thu hút sụ tham gia bằng nguồn lợi kinh
tế;
− Trong một KCN, việc tìm các nhà máy sử dụng chất thải làm nguyên liệu gặp khó
khăn. Do vậy có thể phải tìm nhà máy ở ngoài KCN hoặc xây dựng thêm ngay trong
KCN;
− Cần có sự tham gia của các cơ quan nhà nước: quản lí thông tin, quy hoạch phát triển,
chính sách, đào tạo.

×