Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Phân tích câu nói của chủ tịch HCM nước độc lập mà nhân dân không được ấm no hạnh phúc thì độc lập không có ý nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.36 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh

Đề bài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “ Nước độc lập mà người dân
không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập không có ý nghĩa”. Làm rõ ý nghĩa
của luận điểm đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

Họ tên :

14

Vũ Việt Hà

MSV:

11131102

Lớp :

Tư tưởng Hồ Chí Minh


Hà Nội – 2014

MỤC LỤC
I. Lời nói đầu ……………………………………….……….. 1
II. Nội dung ……………………………………………….... 3
1, Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh phúc,
tự do ……………………………………………………….....… 5


2, Hạnh phúc, tự do là giá trị của độc lập dân tộc…….….... 9
3, Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay ……………… 12
III. Tạm kết…………………...…………………………….. 18
Nguồn tư liệu ………………………………………………….19


LỜI NÓI ĐẦU
Trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của cha
ông ta, hẳn mỗi người Việt Nam đều thấu hiểu rằng giá trị của độc lập là vô giá,
không gì có thể so sánh được. Nhưng liệu thành quả đích thực mà nền độc lập đem
lại cho người dân là gì? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng phát biểu một chân lí: "Nếu
nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
không có nghĩa lý gì". “Tự do” không phải là giá trị bất biến, tự nó luôn thay đổi
theo thời gian và theo bối cảnh xã hội. Có được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng
người dân phải được hưởng hạnh phúc, tự do. Hạnh phúc, tự do mới chính là mục
đích cuối cùng, là mong ước thẳm sâu nhất của mỗi người dân nước Việt.
Nghiên cứu Cương lĩnh dân tộc của Lênin : bình đẳng, tự quyết, đoàn kết giai
cấp công nhân các dân tộc, Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng sau khi cách mạng giải
phóng dân tộc thắng lợi, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc đòi hỏi trước hết phải đảm bảo
cho dân tộc đó quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính trị, lựa chọn
con đường và mô hình phát triển, độc lập cả về chính trị, kinh tế, văn hóa. Ngày
nay, nhân dân chỉ có được tự do đích thực “khi nào mà quyền lực của nhà nước bị
giới hạn bởi một bản hiến pháp dân chủ được phúc quyết bởi toàn dân, trong đó
xác định rõ những quyền cơ bản, cũng như xác định rõ việc người dân có quyền
được lựa chọn, quyền thay đổi Quốc hội, Chính phủ thông qua cuộc bầu cử chân
chính” (1). Vì vậy, chỉ có thể tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc, đất nước giành được độc lập thì dân tộc ấy mới có thể chọn lựa con đường
phát triển đất nước đi theo chủ nghĩa xã hội. Quan trọng hơn, độc lập dân tộc đòi
hỏi phải thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân có cuộc sống ấm

no, tự do, hạnh phúc, con người được phát triển toàn diện, hạnh phúc; con người
được phát triển toàn diện, có năng lực làm chủ. Độc lập tự do đòi hỏi phải xóa bỏ


tình trạng áp bức bóc lột, nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác về kinh tế,
chính trị và tinh thần. Vì vậy, để đảm bảo độc lập dân tộc thực sự và giữ vững
thành quả ấy, cả nước phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật của thời đại,
đáp ứng nguyện vọng ngàn đời của nhân dân ta là độc lập, tự do, ấm no, hạnh
phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “chúng ta tranh được tự do độc lập rồi mà dân
cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập thì tự do, độc lập cũng không làm gì”. Để
giữ vững độc lập, tự chủ, để đảm bảo cho nhân dân một cuộc sống ấm no hạnh
phúc, chúng ta không có con đường nào khác là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Với ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc không chỉ mang lại độc lập thống nhất cho tổ quốc, mà trong từng bước
phải mang lại tự do, hạnh phúc cho toàn dân.


NỘI DUNG
Bàn về vấn đề dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh có những bước phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin. Nếu như C.Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc,
thì Hồ Chí Minh tập trung bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân; C.Mác
và V.I.Lênin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản thì Hồ Chí Minh
bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Mác – Ănghen đã nêu ra
những quan điểm có tính chất phương pháp luận để giải quyết các vấn đề dân tộc:
nguồn gốc, đặc trưng dân tộc, quan hệ giai cấp dân tộc để xác định quan điểm, thái
độ, phương pháp, thách thức của giai cấp công nhân và Đảng cộng sản quốc tế để
giải quyết vấn đề dân tộc. Sau đó, Lênin chỉ ra xu hướng phát triển khách quan của
dân tộc là độc lập dân tộc và liên kết dân tộc; xây dựng cương lĩnh dân tộc tạo cơ
sở cho đường lối, chính sách dân tộc của các Đảng cộng sản trong thời kì đế quốc

chủ nghĩa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực chất của vấn đề dân tộc là vấn đề
thuộc địa, là vấn đề đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc và xây
dựng nhà nước dân tộc.
Ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Thư gửi Ủy ban Nhân dân các
kỳ, tỉnh, huyện và làng” và đăng bài báo “Bỏ cách làm tiên ấy đi!” trên tờ Cứu
Quốc, phê phán tệ bán chức và buộc dân góp quỹ. Trong thư, người đứng đầu nhà
nước tuyên bố: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.


1. Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh phúc,
tự do:
Năm 1911, khi Việt Nam đã hoàn toàn trở thành thuộc địa của thực dân Pháp,
nước mất độc lập, dân nô lệ, Hồ Chí Minh không hoàn toàn tán thành con đường
cứu nước của các bậc tiền bối, quyết tâm đi ra nước ngoài tìm con đường cứu nước
mới. Suy nghĩ lớn nhất, duy nhất của Người lúc đó là giải phóng đồng bào, tức là
lật đổ, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột của bọn thực dân, phong kiến, giành độc lập dân
tộc.
Trong khoảng bảy năm từ năm 1911 đến trước khi Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917 thắng lợi, Hồ Chí Minh đã : tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế
giới, tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà nước và khảo sát cuộc sống của nhân dân
các dân tộc bị áp bức. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, tuy
chưa có được nhận thức lý tính, nhưng Người thấy rằng chỉ có đi theo con đường
Cách mạng tháng Mười Nga thì mới giành được độc lập dân tộc. Người nhiệt thành
ủng hộ và tuyên truyền cho cuộc Cách mạng Tháng Mười.
Được ánh sáng của Quốc tế Cộng sản soi rọi, đặc biệt là Luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của Lênin, đã giải đáp trăn trở của Người về vấn đề giải phóng
các dân tộc thuộc địa, giải phóng dân tộc Việt Nam. Tiếp xúc với Luận cương, Hồ
Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước giải phóng

dân tộc. Người quyết tâm thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập
dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Trên diễn đàn Đại hội toàn quốc lần thứ
XVIII Đảng Xã hội Pháp (12-1920), Hồ Chí Minh đã yêu cầu Đảng phải tuyên
truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa. Năm 1923, Hồ Chí Minh
viết: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không
phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên
quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc,


nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ
nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động
trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”. Hồ Chí Minh không bao giờ chấp
nhận độc lập dân tộc dưới chế độ quân chủ chuyên chế, càng không chấp nhận chế
dộ thực dân. Bởi vì, đó là chế độ mà người dân bị đầu độc về tinh thần lẫn về thể
xác, bị bịt mồm và bị giam hãm. Phát biểu tại Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng “thực dân Pháp đã dùng lưỡi lê để chinh phục đất
nước chúng tôi. Từ đó chúng tôi không những bị áp bức bóc lột một cách nhục nhã,
mà còn bị hành hạ và đầu độc bằng thuốc phiện và rượu một cách thê thảm. Đó là
một chế độ tàn bạo mà bọn ăn cướp đã gây ra ở Đông Dương. Nhà tù nhiều hơn
trường học và lúc nào cũng chật ních người. Bất kỳ người bản xứ nào có tư tưởng
xã hội chủ nghĩa cũng đều bị bắt và đôi khi bị giết mà không cần xét xử... Với một
nền “công lý” ở Đông Dương như vậy, một sự phân biệt đối xử không có những
bảo đảm về quyền con người như vậy, một kiểu sống nô lệ như vậy, thì sẽ không có
gì hết”. Hơn ai hết, Người ý thức rất rõ không có độc lập là sống kiếp ngựa trâu, thì
“chết tự do còn hơn sống nô lệ”. Vì vậy, Người nung nấu và truyền quyết tâm cho
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải
giành kỳ được độc lập cho dân tộc”.
Độc lập dân tộc không phải là điều mới mẻ trong lịch sử dân tộc và lịch sử thế
giới. Nhưng độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh lại hoàn toàn mới, vì đó là
một kiểu độc lập dân tộc được nâng lên một trình độ mới, một chất mới. Đối với

một người dân mất nước, cái quý nhất là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân.
Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước, Người đã chọn kiểu độc lập dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản, đó là kiểu độc lập dân tộc làm tiền đề và phải đi
tới hạnh phúc, tự do.
“Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” là dòng tiêu ngữ của nước ta suốt 70 năm qua,
tuy đơn giản nhưng đó là “ham muốn tột bậc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi chỉ


có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”. Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam
thì trước hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và vì vậy độc lập đó
cũng chẳng có nghĩa lý gì.
Với Hồ Chí Minh, nước có độc lập rồi thì dân phải được hưởng hạnh phúc, tự
do, vì hạnh phúc tự do là thước đo giá trị của độc lập dân tộc. Muốn có hạnh phúc,
tự do thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh chỉ
có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời
sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình, chăm
lo cho con người và con người có điều kiện phát triển toàn diện. Khi Hồ Chí Minh
xác định giành độc lập theo con đường cách mạng vô sản tức là đã khẳng định độc
lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Trong nền độc lập đó mọi người đều phải được
hưởng ấm no, hạnh phúc nếu không độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Bác đã nói: “
Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn
đủ no mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và tính cách mạng
triệt để của Người.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cống hiến quý giá nhất của Hồ
Chí Minh cho cách mạng Việt Nam. Đó cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ
Chí Minh, xuyên suốt đường lối và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Theo quan
điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân lao động thoát

nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một
đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn,
lạc hậu. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một
xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm


nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng. Hạnh phúc,
tự do theo quan điểm Hồ Chí Minh là người dân phải được hưởng đầy đủ đời sống
vật chất và tinh thần do chủ nghĩa xã hội đem lại.
2. Hạnh phúc, tự do là giá trị của độc lập dân tộc:
Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam thì trước hết
phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và vì vậy độc lập đó cũng chẳng có
nghĩa lý gì.
Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh không phải là câu trả lời
cho mong muốn chủ quan của con người theo quan niệm duy tâm, không tưởng,
mà là câu trả lời cho một sự vận động lịch sử hiện thực theo khái niệm duy vật phê
phán. Chủ nghĩa xã hội là một vấn đề hiện thực, xuất phát từ thực tiễn khách quan,
từ hiện thực vận động của lịch sử, từ đặc điểm Việt Nam, một nước vốn là thuộc
địa, nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển, tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội trong
quan điểm Hồ Chí Minh không thể suy nghĩ chủ quan, giáo điều, nóng vội, duy ý
chí mà phải dựa trên cơ sở thực tiễn nước ta, đặc điểm thế giới và xu thế của thời
đại.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân
lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no
và sống một đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động khỏi
nghèo nàn, lạc hậu. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người bóc lột
người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động,
ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng



Có được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải được hưởng hạnh
phúc, tự do. Đấy chính là đòi hỏi chính đáng, điều mà không phải ai khác chính cụ
Hồ đã chỉ ra. Hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích cuối cùng, là mong ước
thẳm sâu nhất của mỗi người dân nước Việt. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “độc
lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”, “Chủ nghĩa xã
hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi
học, ốm đau có thuốc, không lao động được thì nghỉ ngơi,...Tóm lại xã hội ngày
càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt đó là chủ nghĩa xã hội”.
Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội được nói đến một cách
thiết thực, cụ thể, dễ hiểu : “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn, bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và
sống một đời hạnh phúc”. “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì
độc lập tự do cũng không có ý nghĩa gì”. “Chủ nghĩa xã họi là làm sao cho nhân
dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có
thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt được
dần dần được xóa bỏ”; “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và
văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. Nói tóm lại “chủ nghĩa xã
hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”. Hạnh phúc, tự do theo quan điểm Hồ Chí
Minh là người dân phải được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do chủ
nghĩa xã hội đem lại. Đời sống vật chất là trên cơ sở một nền kinh tế cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ
có tăng trưởng kinh tế, thu nhập cao “ăn ngon, mặc đẹp” chưa thể gọi là chủ nghĩa
xã hội. Chủ nghĩa xã hội là cùng với việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
là phải không ngừng nâng cao đời sống tinh thần. Trong điều kiện nước ta, nhiều



khi đời sống tinh thần, văn hóa phải đi trước “soi đường cho quốc dân đi; văn hóa
lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Theo Hồ Chí Minh,
nhân tố nào biến nước Việt Nam lạc hậu thành một nước tiên tiến: “Có lẽ cần phải
để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi nhằm phát triển văn hóa. Chủ nghĩa
thực dân đã kìm hãm nhân dân chúng tôi trong vòng ngu muội để chúng dễ áp bức.
Nền văn hóa nảy nở hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ” (2).
Ngay khi còn phải tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu là giành độc lập dân tộc, Hồ
Chí Minh đã nhìn thấu ý nghĩa và sức mạnh của văn hóa, của đời sống tinh thần.
Người cho rằng, con người cần phải có đời sống văn hóa tinh thần vì đó là lẽ sinh
tồn và mục đích cuộc sóng chúng ta. Sau này, trong kháng chiến ác liệt, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh “không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo chỉ sợ
lòng dân không yên”.
Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ căn nguyên kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột
người do chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra, nhờ đó xoá bỏ cơ sở
kinh tế sinh ra ách áp bức con người về chính trị và sự nô dịch con người về tinh
thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới mục
tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của mọi người lao động, làm cho mọi thành viên
của cộng đồng dân tộc trở thành người chủ thực sự, có cuộc sống vật chất ngày
càng đầy đủ và đời sống tinh thần ngày càng phong phú. Nó cũng bảo đảm cho dân
tộc vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân
tộc khác trong thế giới và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình
đẳng trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân
tộc này với cộng đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm chỉ có
thể được tìm thấy và giải quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt giải
phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột đem lại cho con người hạnh phúc, tự do.


Vì vậy Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống.
Văn hóa là lối sống, là quyền con người, là cái chân, thiện, mỹ giữa người với

người. Thống nhất với cách tiếp cận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh rất
chú trọng sức phát triển sản xuất, chú trọng chế độ sở hữu coi đó là những nhân tố
quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Nhưng điều đặc biệt mang sắc thái Hồ
Chí Minh, đó là Người chú trọng tiếp cận chủ nghĩa xã hội theo phương diện đạo
đức. Con người có hạnh phúc trong chế độ xã hội chủ nghĩa phải là những con
người được giáo dục và có đạo đức. Chế độ xã hội chủ nghĩa mang lại hạnh phúc
cho con người phải là chế độ không có chủ nghĩa cá nhân, và những gì phản văn
hóa và đạo đức. Hồ Chí Minh chỉ rõ chủ nghĩa cá nhân là trái với đạo đức cách
mạng, là trở lực trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa
cá nhân.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa xã hội. Chế độ
xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Hồ Chí Minh không chỉ là thước đo giá trị của
độc lập dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và
tự bảo vệ. Độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có một nền độc lập
dân tộc thật sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc tự do; chủ nghĩa
xã hội chỉ có phát triển trên một một nền độc lập dân tộc thật sự thì mới có điều
kiện phát triển và hoàn thiện.

3. Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay:


Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất
phong phú, trong đó bao trùm lên tất cả là động lực con người, trên cả hai bình
diện : cộng đồng và cá nhân. Đó là phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng
dân tộc - động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Đó là phát huy sức mạnh của
con người được giải phóng để làm chủ. Để phát huy sức mạnh này phải tác động
vào nhu cầu, lợi ích của con người, phát huy động lực chính trị, tinh thần đạo đức,
truyền thống, quyền làm chủ của người lao động, thực hiện công bằng xã hội …
Đó là khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, bao gồm

đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu,
chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập cái mới … Đó
cũng là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước tình hình hiện nay, mặc dù chủ nghĩa xã hội đang ở vào giai đoạn thoái
trào tuy nhiên nó vẫn là sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người và sự lựa
chọn đi theo con đườg xã hội cchủ nghĩa của Hồ Chí Minh và nhân dân là sự lựa
chọn duy nhất đúng đắn. Đất nước đang đứng trước những thử thách lớn lao của
thời đại, hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải kiên định con đường
mục tiêu của mình và phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa
học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện
đại. Theo sự khái quát của Đảng, thời kỳ quá độ đó là một quá trình cách mạng sâu
sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Có thể hiểu cái cũ ở đây
không chỉ là những tàn dư của xã hội tiền tư bản mà xã hội ta mới thoát ra mấy


chục năm qua, mà cái cũ ở đây còn là những yếu tố tư bản chủ nghĩa đang và sẽ
hiện diện trong đời sống kinh tế - xã hội. Đó là để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất
cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự biến đổi về chất nghĩa là sự biến đổi mang
tính chất bản chất, căn bản, toàn diện khác với sự biến đổi về lượng, sự biến đổi
của từng bộ phận. Nghĩa là trong thời kỳ quá độ, ở nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi
mang tính chất bản chất, căn bản và toàn diện ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội; và, quá trình đó phải diễn ra lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Đó là do xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hội
ta cũng chưa trải qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vì vậy, thời kỳ quá độ phải
diễn ra lâu dài là một tất yếu lịch sử. Đồng thời, với sự lâu dài đó, thời kỳ quá độ

phải trải qua nhiều bước phát triển khác nhau với nhiều hình thức tổ chức kinh tế,
xã hội cùng phát triển hội nhập, đan xen nhau. Có thể khẳng định, khi bước vào
thời kỳ quá độ, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, "các thế lực thù địch
tiếp tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội". Trong bối cảnh khó khăn
đó, Đảng ta vẫn lạc quan khẳng định, "Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh
đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn,
có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những
cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại, sự hình thành và phát triển của kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển”(3).
Nhận thức đúng những thời cơ và thách thức đang đặt ra để thực hiện
được mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, Đảng ta chỉ rõ chúng ta phải
quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng , nhiệm vụ cơ bản: Đẩy mạnh công


nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên, môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con người,
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công băng xã hội; Bảo đảm vững
chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, dân chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng

đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam
đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi
mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được
những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao.
Đặc biệt, trong Đại hội XI, vấn đề mô hình phát triển xã hội - mô hình chủ
nghĩa xã hội Việt Nam đã được Đảng ta trình bày một cách vừa cụ thể vừa hết sức
sâu sắc, toàn diện. Đảng ta khẳng định, “ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng đoàn kết, tôn trọng và


giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước trên thế giới”(4).
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn
cầu còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy
thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các
nước trong khu vực (8).
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt
7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế
giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1
lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm) (9).
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn
mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn
thì đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước

tính tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số
giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước và
bằng 33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3% (10). Kim ngạch xuất
khẩu có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với
GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến
tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn
ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD
(11).
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá,
trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương
thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển
ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng


bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững
thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển
một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng
trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững
chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt
kết quả vững chắc hơn.
Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 25 năm thực hiện đổi mới, đầu tiên
phải kể đến việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội
phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, khuyến
khích, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân. GDP bình
quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 1988 chỉ đạt
86 USD/người/năm - là một trong những nước thấp nhất thế giới, nhưng đã tăng
gần như liên tục ở những năm sau đó, giai đoạn 2005 - 2010 đạt 1.168
USD/người/năm (12), nước ta đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành
nước có thu nhập trung bình (thấp).

Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình
mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn
việc làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm
đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm 2006 - 2010, con số đó lại tăng lên
đến 1,6 triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao
động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010 (13).
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc
gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010.
Còn theo chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính
toán, thì tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi


lương thực, thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn
khoảng 17% năm 2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế
hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên
kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc đã đề ra (14). Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề
Xóa đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại
giao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam được đánh giá
là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á (15).
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại
hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước
đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến
cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ
sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm
1980 lên 90,3% năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô
đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Năm
2009, trên 1,3 triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với
lãi suất ưu đãi để theo học.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở
rộng đến khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên.

Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng
28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50%
xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch
bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung
bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ
qua: từ 0,561 năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690
năm 2000; 0,715 năm 2005 và 0,725 năm 2007 (16). Nếu so với thứ bậc xếp hạng


GDP bình quân đầu người thì xếp hạng HDI của Việt Nam năm 2007 vượt lên 13
bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 129 trên tổng số 182 nước được thống kê,
còn HDI thì xếp thứ 116/182. Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao
hơn Việt Nam. Như vậy, tổng quát nhất là chỉ số phát triển con người (HDI) của
nước ta đã đạt được ba sự vượt trội: chỉ số đã tăng lên qua các năm; thứ bậc về
HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi thọ và học vấn cao hơn chỉ số
về kinh tế.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô
được duy trì, các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm và ổn
định. Trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn lao động và
chất lượng lao động, khoa học và công nghệ. Thành tựu đó ngày càng khẳng định
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới,
khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất
nước với những bước tiến cao hơn. Thành tựu này được các nước trong khu vực
cũng như các đối tác có quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận

lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

TẠM KẾT


Có thể nói, tư tưởng HCM về CNXH về con đường quá độ lên CNXH ở VN
thực sự là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta
hiện nay. Vấn đề là phải tiếp tục làm quá triệt những tư tưởng ấy trong cơ chế,
chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước. Trong tổ chức và hành động của
mỗi cán bộ, Đảng viên, chỉ có bằng hiệu quả thực tế trong đổi mới KT và chính trị,
đem lại sự cải thiện vật chất và tinh thần cho nhân dân, chúng ta mới củng cố được
trong quần chúng niềm tin mà HCM đã khẳng định :” con đường tiến tới của
CNXH của các dân tộc là con đường chung của thời đại, của lịch sử, không ai ngăn
cản nổi”
Trước đây, trong thập kỷ 40 của thế kỷ XX, khi bàn về giá trị của các nhà tư
tưởng, Hồ Chí Minh đã nói rõ quan điểm của mình. Như một nhà hiền triết, Hồ Chí
Minh đã tìm thấy ở "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng bác ái. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là
phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó
thích hợp với điều kiện của nước chúng tôi". Và, trên quan điểm biện chứng và duy
vật lịch sử, Hồ Chí Minh đã đúc kết: "Khổng Tử, Giêsu, Các Mác, Tôn Dật Tiên
chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài
người, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Nếu họ còn sống trên đời này và họp lại
một chỗ, tôi tin rằng nhất định họ chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những
người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy". Chỉ vậy
thôi, cũng đủ thấy Hồ Chí minh là bậc Đại trí ở đời. Tư duy Hồ Chí Minh hướng
vào việc khai thác ưu điểm chung của các vị ấy là mưu cầu hạnh phúc cho loài
người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Tròn nửa thế kỷ sau, khi nhân loại tôn vinh
Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt
Nam”, người ta cũng khai thác điểm chung mà Hồ Chí Minh đã cống hiến cho



nhân loại, đó là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Những mục
tiêu đó chính là hạnh phúc, là đỉnh cao giá trị nhân văn, văn hóa của loài người.

Nguồn tư liệu:
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Sự thật, T4, tr.283
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.10, tr.392.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 70 – 71.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 70.



×