BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THANH HUYỀN
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN THEO
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở TRƯỜNG CAO
ĐẲNG
KINH TẾ - KỸ THUẬT NGHỆ AN TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN, 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THANH HUYỀN
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN THEO TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG
KINH TẾ - KỸ THUẬT NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PPDHBM GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ LAN
NGHỆ AN, 2013
1
Lời cảm ơn
Trước hết, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới các quý thầy, cô giáo trong
khoa Giáo dục Chính trị - trường Đại học Vinh đã tận tình giảng dạy, truyền
đạt những kiến thức quý báu, giúp đỡ tác giả trong suốt khóa học để tác giả
có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của khóa học và luận văn.
Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới NGƯT.TS. Nguyễn Thị Lan –
Trưởng Bộ môn Lý luận Chính trị, trường CĐ Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An đã
tận tình hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu cho tác giả trong suốt
quá trình nghiên cứu, giúp đỡ tác giả hoàn thành tốt đề tài luận văn của
mình.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ
thuật Nghệ An, khoa Sau đại học trường Đại học Vinh, bạn bè, đồng nghiệp,
gia đình đã luôn động viên, tạo điều kiện giúp đỡ tác giả theo học, hoàn
thành nhiệm vụ khóa học và cuốn luận văn tốt nghiệp này.
Nghệ An, tháng 10 năm 2013
Tác giả
Lê Thanh Huyền
2
BẢNG GHI CHÚ NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT
KTTT:
Kinh tế thị trường
KT – XH:
Kinh tế - xã hội
SV:
Sinh viên
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
YTXH:
Ý thức xã hội
3
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO
Trang
5
12
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN THEO TƯ
TƯỞNG
HỒ
CHÍ
MINH
12
1.1.
…………………………………………………...
Đạo đức và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
12
1.2.
đức cần giáo dục cho sinh viên ……………………………….
Tính tất yếu khách quan của việc giáo dục đạo đức cho sinh
31
1.3
viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh ……………………………...
Những nhân tố ảnh hưởng đối với công tác giáo dục đạo đức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên …………………….
Kết luận chương 1 .....................................................................
Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
36
45
SINH VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1.
2.2.
Ở
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ – KỸ THUẬT NGHỆ AN .
Khái quát về trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Nghệ An …
Thực trạng đạo đức và giáo dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí
46
46
Minh cho sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Nghệ
An ……………………………………………………………..
Kết luận chương 2 …………………………………………….
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
50
66
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
SINH VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Ở
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ – KỸ THUẬT NGHỆ
3.1.
AN …………………………………………………………….
Phương hướng nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh
67
viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường Cao đẳng Kinh tế –
3.2.
Kỹ thuật Nghệ An …………………………………………….
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho
sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường Cao đẳng Kinh tế –
67
4
Kỹ thuật Nghệ An ……………………………………………….
Kết luận chương 3 …………………………………………….
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
E. CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
75
95
96
98
102
5
Giáo dục đạo đức là một trong những vấn đề cần được coi trọng trong
công tác giáo dục, đào tạo ở các trường cao đẳng và đại học. Mỗi chế độ xã
hội có những chuẩn mực đạo đức khác nhau và ở Việt Nam hiện nay, chuẩn
mực đó đã được đúc kết trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Sinh thời,
Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức và luôn quan tâm đến việc giáo
dục đạo đức trong sự nghiệp trồng người. Công cuộc đổi mới ở nước ta hiện
nay lại đang rất cần một đội ngũ cán bộ có đủ cả đức lẫn tài. Cho nên, việc
tăng cường công tác giáo dục đạo đức là một trong những đòi hỏi cấp
thiết của sự nghiệp xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, chúng ta đã đạt được
những thành tựu đáng tự hào. Nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hóa, tập trung,
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường (KTTT). Kinh tế tăng trưởng
cao. Đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng lên rõ rệt. Sự nghiệp giáo
dục, đào tạo ngày càng phát triển. Vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng
cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên, quá trình phát triển nền KTTT định hướng
XHCN cũng đặt ra nhiều vấn đề cho xã hội phải giải quyết, trong đó, sự suy giảm
đạo đức của sinh viên (SV) đang trở thành vấn đề đáng báo động. Những hiện
tượng tiêu cực về đạo đức, lối sống trong SV đang được các phương tiện thông tin
đại chúng đưa tin hàng ngày gây nên nhiều bức xúc trong xã hội. Vì thế, việc
nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức cho SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều
kiện KTTT ở nước ta hiện nay là một yêu cầu cơ bản và cấp thiết.
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An là một trong những trung
tâm đào tạo nguồn nhân lực cho tỉnh Nghệ An và khu vực Bắc miền Trung.
Nhà trường đã có bề dày trên 50 năm xây dựng và phát triển, đã và đang
khẳng định thương hiệu của một trường trọng điểm khu vực Bắc miền Trung
và tỉnh Nghệ An, đáp ứng được nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội (KT – XH) của đất nước trong giai đoạn mới. Nhìn chung, đa số SV
6
của trường đều có ý thức học tập, tu dưỡng đạo đức. Tuy nhiên, hầu hết các em đều
sống xa nhà, tuổi trẻ nên rất dễ bị cám dỗ bởi lối sống tha hóa về nhân cách, đạo
đức. Một bộ phận SV đã có những biểu hiện về suy thoái đạo đức.
Trong bối cảnh đó, cần có một sự nghiên cứu căn bản về công tác giáo
dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh của nhà trường trong giai đoạn hiện
nay để từ đó nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Để đáp ứng nhu cầu đó,
tôi đã chọn vấn đề: “Giáo dục đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh ở trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An trong giai đoạn hiện
nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giáo dục đạo đức cho SV theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay là vấn đề được Đảng, ngành giáo dục và nhiều nhà khoa
học quan tâm nên đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng,
ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị đã ban hành chỉ thị 06 – CT/TW về đẩy mạnh
thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”. Mục đích của Chỉ thị đã nêu rõ: “Làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận
thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức
và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức
tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng
trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ đảng viên, công chức, viên chức, đoàn
viên, thanh niên, học sinh, ... nâng cao đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X
của Đảng” [8; 2].
Ban tư tưởng Văn hóa Trung ương với tác phẩm “Đẩy mạnh học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, (Nhà xuất bản Chính trị Quốc
7
gia, Hà Nội, 2007) gồm có ba chuyên đề: Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay; Giới thiệu tác phẩm
“Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh; Giới thiệu tác phẩm “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác
phẩm là “tài liệu rất cần thiết và bổ ích, góp phần làm cho cuộc vận động học
tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh đạt được mục
đích, yêu cầu đề ra và trở thành nếp sinh hoạt hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng
viên và mọi người dân trong toàn xã hội ta” [3; 6].
Ban Tuyên giáo Trung ương với “Tài liệu học tập chuyên đề tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm chống tham ô, lãng
phí, quan liêu”, (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008). Chuyên đề
này cung cấp những nội dung cơ bản của tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, phục vụ
cho việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Đảng,
trong xã hội hiện nay.
Nhiều bài viết, bài báo, công trình của các nhà khoa học nghiên cứu
chuyên sâu về giáo dục đạo đức cho SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tác giả Nguyễn Lương Bằng với bài viết “Sinh viên với việc học tập
đạo đức Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, (Tạp chí Lý luận
Chính trị và truyền thông, số 5, năm 2009), “Giáo dục ý thức chính trị cho
sinh viên trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế”, (Tạp chí Lý luận Chính
trị, số 12, năm 2008). Tác giả Đoàn Minh Duệ (1997) với đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ: “Tình hình tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của sinh
viên các trường đại học, cao đẳng các tỉnh phía Bắc miền Trung hiện nay”.
Đề tài đã đánh giá thực trạng công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của SV các trường đại học, cao đẳng các tỉnh phía Bắc miền Trung.
Từ đó đưa ra những giải pháp có tính khả thi để nâng cao hiệu quả hoạt động
8
này. Tác giả Thái Bình Dương (2007) với đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ:
“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh
viên ở trường Đại học Vinh hiện nay” đã góp phần quan trọng đưa công tác
giáo dục đạo đức cho SV trường Đại học Vinh ngày càng có hiệu quả hơn.
Các công trình tiếp cận từ các góc độ khác nhau, nghiên cứu về thực
trạng, vị trí, tầm quan trọng của SV trong giai đoạn hiện nay, tìm ra các giải
pháp giáo dục về ý thức chính trị, đạo đức, lối sống, đào tạo họ thành những
công dân tốt, cán bộ tốt, góp phần to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và
xây dựng đất nước.
Bên cạnh đó là các công trình mang tính chất hệ thống, tìm hiểu,
nghiên cứu quá trình hình thành, những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục thanh niên, cả về mặt lý luận và thực tiễn: Tác giả Đoàn
Nam Đàn (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đăng Tuyên (2009), “Giáo dục, bồi dưỡng thế
hệ trẻ cho cách mạng theo di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo
dục, số 222 kỳ 2 tháng 9. TS Trần Quy Nhơn (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, Nxb Giáo dục, Hà Nội…
Một số luận văn thạc sỹ của Đại học Vinh cũng đã nghiên cứu về vấn
đề giáo dục đạo đức cho SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh như Hồ Thị Bích
Ngọc (2010), “Vận dụng tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh vào việc giáo
dục đạo đức cho học sinh trường trung cấp kinh tế, kỹ thuật, công nghệ Việt
Anh”; Lê Thị Thúy (2012), “Nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh
viên trường cao đẳng nghề kỹ thuật công nghiệp Việt Nam – Hàn Quốc, tỉnh
Nghệ An thông qua giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Có thể nói rằng, vấn đề giáo dục đạo đức cho SV đã được nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau, khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn của tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với quá trình giáo dục đạo đức cho SV ở các
9
trường đại học, cao đẳng hiện nay. Nhìn chung các bài viết, công trình nghiên
cứu có nội dung khá phong phú. Nhưng đến nay, chưa có tác giả nào nghiên
cứu vấn đề này ở trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An. Vì vậy, tác
giả chọn vấn đề “Giáo dục đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
ở trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Nghệ An trong giai đoạn hiện nay”
làm đề tài luận văn thạc sỹ Khoa học Giáo dục là không bị trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho SV của trường Cao
đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận của đề tài nhằm làm rõ sự cần thiết phải giáo dục
đạo đức cho SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức cho SV theo tư tưởng Hồ Chí
Minh ở trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An hiện nay.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả của việc giáo dục đạo đức cho SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong
nhà trường.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác giáo dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho SV ở
trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu trong phạm vi trường Cao đẳng Kinh
tế - Kỹ thuật Nghệ An với đối tượng là SV, thông qua việc giáo dục đạo đức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
10
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng kết hợp phương pháp biện chứng duy vật và các phương pháp
phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, so sánh... nhằm làm rõ
mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu được thông qua, đề tài sẽ góp phần phân tích thực trạng đồng thời
đề xuất được một số phương hướng và giải pháp nhằm giáo dục đạo đức cho
SV ở trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
7. Đóng góp của đề tài
Góp phần làm sáng tỏ thực trạng công tác giáo dục đạo đức của trường
Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An trong giai đoạn hiện nay. Từ đó đề xuất
các giải pháp có tính khả thi để áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục đạo đức trong nhà trường.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người làm
công tác nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, về giáo dục học.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
có 3 chương, 7 tiết:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức cho SV theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Chương 2: Thực trạng giáo dục đạo đức cho SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở
trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Nghệ An.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức cho SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật
Nghệ An.
11
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH
VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
12
1.1. Đạo đức và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cần giáo dục cho sinh viên
1.1.1. Đạo đức và vai trò của đạo đức
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Trong đời sống xã hội, các hoạt động của con người bao giờ cũng có sự
chi phối của những mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân và giữa cá nhân với
xã hội. Những mối quan hệ đó quy định giới hạn nhất định nhằm đảm bảo lợi
ích của cộng đồng và xã hội, tạo thành động lực cho xã hội phát triển. Đó là
các qui tắc, chuẩn mực hoàn toàn tự giác trong hành động của mỗi cá nhân
trong tất cả các quan hệ xã hội. Nói cách khác, đó chính là đạo đức của con
người trong xã hội.
Đạo đức bao hàm nhiều phạm trù khác nhau như lương tâm, danh dự,
nhân phẩm, hạnh phúc... nhưng lại rất cụ thể, gắn liền với đời sống hàng ngày
của chúng ta. Tất cả các phương diện, khía cạnh của đời sống đều gắn liền với
phạm trù đạo đức từ những mối quan hệ trong mỗi gia đình đến các mối quan
hệ ngoài xã hội, trong các hoạt động kinh doanh, giáo dục, y tế… Vậy đạo
đức là gì? Cùng với sự phát triển không ngừng của lịch sử xã hội loài người
gắn liền với các hình thái KT – XH từ thấp đến cao, các khái niệm về đạo đức
cũng được xác định với những chuẩn mực, tiêu chí riêng, được quy định bởi
đặc điểm KT – XH của xã hội đó.
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo
đức học đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm trong triết học Hy Lạp cổ đại.
“Theo tiếng Hy Lạp cổ đại, đạo đức học là “ethos”, có nghĩa là truyền thống,
phong tục, đặc tính. Các nhà triết học bàn về đạo đức lúc bấy giờ dùng từ
“ethos” để nói về những đặc điểm bền vững ở con người trong mối quan hệ
xã hội” [33; 13]. Như vậy, theo các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, đạo đức học
13
có vai trò quan trọng trong việc chi phối mối quan hệ giữa cá nhân với cá
nhân, giữa cá nhân với xã hội trong quá trình giao tiếp hàng ngày.
Ở xã hội phong kiến phương Tây, tư tưởng đạo đức thường xuất phát từ
những tín điều tôn giáo và “thừa nhận những tồn tại trong mối quan hệ xã hội
như nhân – nghĩa, thiện – ác. Tuy nhiên, xuất phát điểm của nó chủ yếu là thế
giới quan thần học được bao trùm trong triết học, luật học và chính trị học”
[33; 48].
Ở xã hội phong kiến phương Đông, tư tưởng đạo đức học lại thường
xuất phát từ các mối quan hệ giữa người với người, mà trước hết là quan hệ
vua – tôi, cha – con, vợ - chồng… thông qua học thuyết Khổng Tử - học
thuyết về chính trị xã hội của Nho giáo xuất hiện ở Trung Quốc ảnh hưởng
đến Việt Nam và các nước Đông Nam Á, Triều Tiên, Nhật Bản... Ở Phương
Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại bắt nguồn từ
cách hiểu về Đạo của họ. Đạo là con đường sống của con người trong xã hội,
là năng lực phổ biến điều hành mọi sự vận động và biến hóa không ngừng của
vạn vật và sự việc quanh ta. Nói một cách khác, theo ngôn ngữ của chúng ta
ngày nay thì Đạo là quy luật xảy ra xung quanh ta, không tùy thuộc vào ý
nguyện cá nhân của bất cứ ai.
Khái niệm Đức lần đầu tiên xuất hiện trong Kinh văn thời nhà Chu và
từ đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Theo Khổng
Tử, sống đúng luân thường là có Đức. Theo tư tưởng của Lão tử thì tu thân tới
mức hiệp nhất với trời đất, an hoà với mọi người là có Đức. Đức là hiểu Đạo.
Đức là mức độ tập trung của Đạo ở một con người. Nói theo ngôn từ ngày
nay, Đức là trình độ năng lực nắm vững và vận dụng quy luật. Trình độ cao
bao nhiêu thì Đức dày bấy nhiêu. Đức là những phẩm chất mà một con người
cần phải có. Đạo là con đường rèn luyện để đạt được những phẩm chất đó.
14
Trước Các Mác, Ph, Ăngghen, các nhà triết học khi bàn về đạo đức đều
tìm nguồn gốc, bản chất của đạo đức hoặc ở ngay chính bản tính của con
người, hoặc ở một bản thể siêu nhiên bên ngoài con người, bên ngoài xã hội.
Nét chung của các lý thuyết này là không coi đạo đức phản ánh cơ sở xã hội,
hiện thực khách quan.
Đối lập với những quan niệm trên, đứng trên lập trường duy vật biện
chứng, Các Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng “Phương thức sản xuất đời
sống vật chất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói
chung. Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại,
sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [19; 15]. Toàn bộ tư tưởng
thể hiện trong các hình thái ý thức xã hội (YTXH) của một thời đại đều bắt
nguồn từ điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội đó. Chính nhờ quá trình lao
động nên con người luôn nảy sinh những nhu cầu mới. Nhu cầu đó nảy sinh
từ những điều kiện vật chất và tồn tại khách quan của con người. Hay nói
cách khác, YTXH là sự phản ánh tồn tại xã hội của họ.
Đạo đức cũng là một hình thái YTXH phản ánh sự tồn tại xã hội dưới
dạng các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi của con
người trong quan hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá
khứ cũng như tương lai, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Ph.Ăngghen cho rằng “Con
người, dù tự giác hay không tự giác, rút cuộc đều rút những quan niệm đạo
đức của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp
của mình, tức là những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi”
[20; 136]. Ý thức đạo đức tạo cho con người quan niệm đúng về cái thiện và
ác, cái xấu và tốt, lương tâm và trách nhiệm; để có ứng xử đúng với mình, với
người khác, với tập thể và xã hội..v..v..
15
Đạo đức là nền tảng tinh thần xã hội, góp phần quan trọng trong việc
ổn định và phát triển xã hội. Xã hội càng phát triển, vai trò của đạo đức càng
quan trọng. Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con
người, nó thuộc về vấn đề tốt - xấu, đúng - sai, được sử dụng trong 3 phạm vi:
lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt, đôi lúc còn
được gọi là giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ nghĩa nhân
văn, triết học và những luật lệ của một xã hội, về cách đối xử từ hệ thống này.
Trong sự nghiệp cách mạng, đạo đức là nền tảng, là “cái gốc của người cách
mạng”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta có thể hiểu khái
niệm đạo đức như sau:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc,
quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử
của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được
thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền thống và sức mạnh
của dư luận xã hội [37; 1].
Như vậy, quan điểm đạo đức học của chủ nghĩa Mác – Lênin đã kế
thừa những quan điểm đúng đắn, tốt đẹp nhất của các học thuyết trước đó,
đồng thời nâng lên một tầm cao mới. Nếu như các nhà triết học Hy Lạp cổ đại
quan niệm đạo đức chỉ có ở tầng lớp quý tộc, chủ nô, do Chúa trời định đoạt,
tồn tại bên ngoài ý chí con người, hay các nhà triết học của xã hội phong kiến,
tư bản luôn xây dựng các quan niệm đạo đức dựa trên lập trường tư tưởng của
giai cấp thống trị hoặc đề cao chủ nghĩa cá nhân, thì quan điểm đạo đức học
của Các Mác, Ăngghen, Lênin gắn bó chặt chẽ lợi ích của cá nhân với lợi ích
của tập thể và xã hội. Hình thái YTXH đạo đức giúp con người điều chỉnh
hành vi của mình trong cuộc sống, tự nguyện, tự giác thực hiện nghĩa vụ đạo
16
đức cao cả đối với tập thể, với xã hội và chính bản thân mình, hướng con
người tới cái tốt, cái thiện.
1.1.1.2. Vai trò của đạo đức
- Đối với sự phát triển xã hội
Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội loài người qua các giai
đoạn lịch sử khác nhau, đạo đức học cũng hình thành và phát triển gắn liền
với những chuẩn mực được quy định bởi đặc điểm về văn hóa, tôn giáo, kinh
tế, xã hội… của xã hội đó. Vì vậy, đạo đức có vai trò to lớn đối với sự phát
triển xã hội, phản ánh tồn tại xã hội. Điều này đã được các nhà triết học xem
xét và bàn luận tới.
Trong xã hội Hy Lạp – La Mã cổ đại, sự xuất hiện và phát triển chế độ
chiếm hữu nô lệ đã hình thành một nền đạo đức đa dạng, phong phú, đó là “sự
đối lập giữa những khuynh hướng khác nhau về đạo đức như tốt và xấu, cao
cả và thấp hèn, thiện và ác, những biểu hiện đạo đức trong xã hội như chính
từ sự phát triển của xã hội tạo nên” [33; 16]. Giá trị đạo đức thường được đề
cao qua các truyền thuyết, sử thi đậm chất nhân văn như hình tượng nữ thần
Atina xinh đẹp như mặt trăng, đầy tình nhân ái đối với con người. Hình tượng
thần Dớt có tài - đức vẹn toàn. Ôđixê là bản trường ca bất hủ, một biểu tượng
cao đẹp về tính trung thực, lòng dũng cảm, sự trong sáng trong tình bạn, tình
yêu….Tất cả những hình tượng đó đều là biểu hiện của những phẩm giá đạo
đức tốt đẹp của con người.
Trong xã hội Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử (551 – 479 tr.CN) cho rằng
có 5 mối quan hệ trong đời sống là: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh –
em, bạn – bè. Để thực hiện 5 mối quan hệ đó được toàn vẹn thì ông yêu cầu
mọi người cần phải đạt được 3 đức tính: Trí, Nhân, Dũng. Ông mong muốn
xã hội phát triển bình ổn, gia đình sống hạnh phúc, con người giữ được đạo
17
lý. Còn quan niệm của Mạnh Tử trong quan hệ là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Ông
rất đề cao đạo đức đến mức ông đề xuất quản lý xã hội bằng đức trị.
Trong xã hội Ấn Độ cổ đại, nội dung cốt lõi nhất trong học thuyết của
Đạo Phật do Thích Ca Mâu Ni sáng lập là khuyên con người sống hướng
thiện, biết yêu thương nhau, giúp đỡ nhau, tránh điều ác.
Ở Việt Nam, vấn đề đạo đức được đặt ra từ rất sớm. Đó là sự ảnh
hưởng của tư tưởng Nho giáo trên mọi mặt của đời sống trong xã hội phong
kiến. Lòng yêu thương con người, tinh thần đoàn kết, kiên cường chống giặc
ngoại xâm của người dân Việt Nam. Đặc biệt tư tưởng đạo đức được thể hiện
rõ nét trong các truyền thuyết, ca dao, tục ngữ. Nhân dân ta đã đề cao những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức giúp con người hướng tới những điều
tốt đẹp. Truyện Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Trạng Quỳnh, Thạch Sanh... đều
giáo dục con người xây dựng nhân cách cao đẹp trong cuộc sống. Những con
người có nhân cách trong sáng, hướng thiện thì sẽ luôn được hạnh phúc.
Có thể nói, dù trong bất kỳ xã hội nào thì đạo đức cũng giữ một vai trò
to lớn trong việc điều chỉnh hành vi của con người. Điều đó được thể hiện ở
các khía cạnh sau:
Thứ nhất, đạo đức là nhu cầu khách quan, nhu cầu vốn có của đời
sống xã hội. Đạo đức là một hình thái YTXH, nảy sinh không phải xuất phát
từ ý muốn chủ quan của con người, mà nó phản ánh và được nảy sinh từ
những điều kiện vật chất, từ hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất
của con người. Vì vậy, mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, gắn liền với sự phát
triển của chế độ xã hội khác nhau thì tư tưởng đạo đức cũng khác nhau, gắn
liền với những đặc trưng của xã hội đó, phản ánh tồn tại xã hội của xã hội đó.
Cùng với quá trình phát triển của sản xuất, nhu cầu trao đổi, giao lưu
của con người không ngừng được nâng cao và mở rộng. Con người phải giao
tiếp, phải có tác động qua lại lẫn nhau trên mọi mặt của đời sống. Chính lao
18
động đã tạo ra những điều kiện vật chất để thỏa mãn nhu cầu con người, mặt
khác, nó làm nảy sinh những nhu cầu mới, đó là những yếu tố cơ bản kích
thích sự hứng thú và tính sáng tạo, giúp con người có những điều kiện để
hoàn thiện bản thân mình. Đạo đức hình thành trong các mối quan hệ giữa
con người với con người, giữa cá nhân và xã hội, điều chỉnh những mối
quan hệ đó phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Từ đó giúp con người kết
hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Thứ hai, cùng với pháp luật, đạo đức có vai trò quan trọng trong việc
duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Sự phát triển của xã hội, bên cạnh
do sự ban hành hệ thống pháp luật bắt buộc, cưỡng chế mọi người phải tuân
theo, còn do ý thức tự giác của mỗi người, do mức độ con người nhận thức
được quy luật và hành động phù hợp theo quy luật. Chính đạo đức góp phần
điều chỉnh ý thức và hành vi của con người, giúp con người hoàn thiện nhân
cách trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, để phù hợp với sự phát
triển của xã hội.
Cùng với pháp luật, đạo đức góp phần điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội giữa con người với con người. Đôi khi, đạo đức lại có sức nặng trong việc
điều chỉnh hành vi của con người hơn cả pháp luật. Pháp luật là đạo đức tối
thiểu, đạo đức là pháp luật tối đa, mặc dù pháp luật thì chặt chẽ, chính xác,
ghi thành văn, có tính bắt buộc và khung hình phạt có nhiều nấc, nhưng lại
không trừng phạt được từ trong ý nghĩ, trong lương tâm của con người. Trong
khi đó, đạo đức mang nặng tính khuyên nhủ, chỉ có thiện và ác, tốt và xấu,
nhưng nó lại có thể trừng phạt người ta ngay từ trong suy nghĩ nhờ sự phán
xử của lương tâm. Đó chính là nét đặc thù của đạo đức. Điều đó tạo nên sức
mạnh to lớn của đạo đức trong đời sống xã hội. Vì tòa án nghiêm khắc nhất
của con người là tòa án lương tâm.
19
Thứ ba, đạo đức giúp con người nhận thức và hành động theo lẽ phải,
hướng tới cái thiện, cái tốt đẹp, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người và
người trong xã hội. Đồng thời, đạo đức giúp con người sáng tạo ra hạnh phúc,
gìn giữ phẩm giá, làm thức dậy trong con người những tình cảm tốt đẹp,
những phẩm chất cao quý, đó là lòng nhân ái, vị tha, tính trung thực, thẳng
thắn… Đạo đức như một động lực thôi thúc con người đấu tranh chống lại
những cái ác, cái xấu và phát huy những cái tốt, cái thiện, cái nhân văn cao cả.
Nói cách khác, đạo đức luôn hướng con người tới cái chân, thiện, mỹ.
Như vậy, đạo đức có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội,
góp phần duy trì sự bình ổn xã hội. Xã hội loài người càng phát triển, mối quan
hệ của con người càng được mở rộng thì đạo đức càng có vai trò quan trọng.
Khi xã hội đạt đến trình độ văn minh cao thì có thể có một số hình thái YTXH
sẽ mất đi, nhưng đạo đức vẫn tồn tại và phát triển cùng với con người.
- Đối với sự phát triển nhân cách
Giáo dục đạo đức cho SV là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu bên cạnh
việc dạy kiến thức. Giáo dục đạo đức nhằm hướng tới mục tiêu đào tạo
những con người không chỉ có tài mà còn có đức, để các em trưởng thành và
trở thành những công dân có ích cho xã hội. Có thể thấy, đạo đức trong sáng
của người SV là một trong những điều kiện, hơn nữa là điều kiện tiên quyết,
là tiền đề để trau dồi lý luận. Không những thế, lý luận ở đây cũng không chỉ
là tri thức, là học vấn nói chung mà là lý luận cách mạng.
Đạo đức là động lực để mọi người nói chung, SV nói riêng phát huy
tính chủ động, tích cực trong những điều kiện lịch sử - cụ thể, để biến quá
trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục nói chung, giáo dục tri thức nói
riêng. Việc coi trọng giáo dục đạo đức không chỉ là đòi hỏi cho nhiệm vụ xây dựng
đất nước, mà còn là đòi hỏi bức thiết của bản thân công tác giáo dục tri thức.
20
Công tác giáo dục tri thức coi giáo dục đạo đức không những là tiền đề
của việc nâng cao trình độ, đồng thời là nhiệm vụ của mình. V.I. Lênin đòi hỏi
phải làm cho toàn bộ nhiệm vụ giáo dục, đào tạo thanh niên trở thành nhiệm vụ
giáo dục đạo đức cộng sản. Nói về mục đích học tập lý luận của người cán bộ,
Bác Hồ đòi hỏi trước hết phải là học để làm việc, làm người rồi mới làm cán bộ.
Ai cũng biết thế hệ trẻ nói chung, SV đang ngồi trên ghế nhà trường nói
riêng chuẩn bị hành trang vào đời cần phải tích luỹ các kiến thức chuyên môn,
khoa học, công nghệ, ngoại ngữ, tin học… nhưng nếu chỉ chừng đó thôi mà
không lưu tâm hoặc bỏ qua việc trau dồi phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống, văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, ý thức pháp luật thì chưa đủ. Điều đó
rất dễ dẫn đến sự phát triển lệch lạc, phiến diện. Đó là con đường dẫn tới sự
thiếu hụt những giá trị nhân văn trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách của con người. Sự thiếu hụt đó là nguy cơ làm suy thoái, thậm chí biến
dạng quá trình phát triển của cá nhân và cộng đồng.
Đã đến lúc chúng ta cần phải ý thức được rằng, giáo dục đạo đức, thực
chất là giáo dục nhân cách là nhằm đáp ứng cho yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới. Giáo dục đạo đức là quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện ý thức
đạo đức cũng như năng lực thực hiện hành vi đạo đức của mỗi cá nhân. Đây
cũng là quá trình giúp cho cá nhân không chỉ hình thành mà còn góp phần
củng cố những nhu cầu đạo đức, đặc biệt là hình thành và nuôi dưỡng những
tình cảm, niềm tin và lý tưởng đạo đức. Trên cơ sở đó, giúp cho mỗi cá nhân
có thể nhận diện được các mặt tích cực và tiêu cực trong các hoạt động của
đời sống xã hội. Từ đó con người sẽ có ý thức trách nhiệm hơn, dám vì mình,
vì mọi người và vì những giá trị đạo đức đích thực. Tất cả sẽ tạo thành động
lực thúc đẩy cá nhân thực hiện hành vi đạo đức, đồng thời sáng tạo ra những
giá trị đạo đức mới, phù hợp với giai đoạn lịch sử mới.
21
1.1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cần giáo dục
cho sinh viên
1.1.2.1. Trung với nước, hiếu với dân
Đây là phẩm chất bao trùm nhất, quan trọng nhất của mỗi con người.
Tình yêu lớn nhất của mỗi con người là tình yêu quê hương, đất nước. Vì vậy,
phẩm chất đạo đức cơ bản nhất, quan trọng nhất là trung với nước, hiếu với
dân. Khái niệm trung, hiếu đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống dân tộc
Việt Nam và phương Đông, là chuẩn mực đạo đức phong kiến mà Nho giáo
đề ra. Trung của Nho giáo là trung với vua, bó hẹp trong phạm vi quan hệ vua
tôi, phải hết lòng thờ vua, trung thành với vua trong bất kỳ điều kiện nào.
Hiếu là hiếu với cha mẹ, phải kính trọng thương yêu và hết lòng phụng dưỡng
cha mẹ, đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục.
Hồ Chí Minh đã sử dụng khái niệm “trung, hiếu” và đưa vào nội dung
mới, không những kế thừa giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc mà còn
vượt qua những hạn chế của truyền thống đó. Người nói: “Đạo đức ngày nay
cao rộng hơn, không phải chỉ có hiếu với cha mẹ, mà trung với nước, hiếu với
dân” [29; 558], “Người kiên quyết cách mạng nhất lại là người đa tình, chí
hiếu nhất. Vì sao? Nếu không làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình
mà hàng chục triệu bố mẹ người khác cũng bị đế quốc dày vò. Mình không
những cứu bố mẹ mình mà còn cứu bố mẹ người khác, bố mẹ của cả nước
nữa. Phải hiểu chữ hiếu của cách mạng rộng rãi như vậy”[25; 60].
Trung với nước, hiếu với dân trước hết phải có tinh thần yêu nước nồng
nàn, phấn đấu hy sinh vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, làm sao cho “dân giàu,
nước mạnh". Đối với SV, trung với nước, hiếu với dân, trước hết phải yêu Tổ
quốc, yêu nhân dân. Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân không phải là lý thuyết, siêu
hình mà được thể hiện cụ thể, thiết thực trong quá trình học tập, tu dưỡng,
trong mọi hoạt động của cuộc sống thường ngày.
22
Nói chuyện với nam nữ thanh niên, học sinh các trường Trung học ở
Hà Nội, Hồ Chí Minh căn dặn: “Yêu Tổ quốc: việc gì trái với quyền lợi của
Tổ quốc, chúng ta kiên quyết chống lại. Yêu nhân dân: việc gì hay người nào
phạm đến lợi ích chung của nhân dân, chúng ta kiên quyết chống lại”[25;
398]. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của SV là học tập thật tốt, học để nâng
cao nhận thức, học để nắm bắt khoa học kỹ thuật, học để nắm vững chuyên
môn nghiệp vụ. Nhưng mục đích của học tập tốt cũng nhằm phụng sự Tổ
quốc, phụng sự nhân dân, đóng góp sức mình vào sự phát triển của đất nước.
Đó chính là sự thể hiện trung với nước, hiếu với dân.
Theo Hồ Chí Minh, mỗi thanh niên phải có lòng yêu nước nồng nàn,
sẵn sàng hy sinh thân mình để bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc, tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, với giai cấp công nhân; phải căm thù sâu sắc lũ giặc
cướp nước và bè lũ phản động bán nước; phải quyết tâm phấn đấu vì sự
nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam và của dân tộc Việt
Nam, đặt lợi ích của Đảng, của giai cấp công nhân, của dân tộc lên trên hết,
trước hết. Người chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng là ra sức phấn đấu để thực hiện
mục tiêu của Đảng; hết sức trung thành phục vụ giai cấp công nhân và nông
dân lao động”[27; 86]. Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với cách
mạng, với nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở SV phải kính trọng và thương yêu cha
mẹ. Người đã mở rộng chữ hiếu, từ hiếu với cha mẹ, mối quan hệ giữa cá
nhân với cá nhân đến hiếu với nhân dân nhằm kết hợp nhuần nhuyễn giữa gia
đình và xã hội; giữa cha mẹ, anh, chị, em với đồng bào và đồng loại. Hiếu với
nhân dân là phải kính trọng, thương yêu nhân dân, học tập, lao động chiến
đấu vì nhân dân. Phải chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, việc
gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức
tránh. SV phải có thái độ đúng đắn, đấu tranh chống lại mọi biểu hiện
23
sai trái, gây phiền hà nhũng nhiễu cho nhân dân, làm cho dân phấn khởi tin
tưởng vào chế độ XHCN.
Theo Hồ Chí Minh, trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng
nước và giữ nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ của nước.
Bằng việc chuyển khái niệm trung với vua thành trung với nước, Hồ Chí
Minh đã loại bỏ công cụ thống trị đắc lực của bọn vua chúa phong kiến, đặt
lợi ích của nhân dân lên trên hết. Đây là một sự độc đáo của Hồ Chí Minh
trong việc sử dụng khái niệm đạo đức cũ để nói lên đạo đức mới.
Trung và hiếu gắn bó hữu cơ với nhau. Muốn trung với nước phải hiếu
với dân. Hiếu với dân là phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện dân chủ cho
người dân, phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, phải quan tâm đến việc
cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, việc gì có lợi
cho nhân dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh, đồng
thời phải làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền hạn của mình với tư cách là
người làm chủ đất nước. Vì thương dân, thông cảm với nỗi đau mất nước của
dân, Hồ Chí Minh đã phải xa những người thân của mình để ra đi tìm đường
cứu nước, bôn ba khắp nơi để tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt
Nam. Điều này nói lên rằng, ngay từ đầu Hồ Chí Minh đã có quan niệm mới
về đạo hiếu.
Trung với nước, hiếu với dân trước hết phải có tinh thần yêu nước nồng
nàn, phấn đấu hy sinh vì lợi ích quốc gia, dân tộc, làm sao cho “dân giàu,
nước mạnh”. Ở Hồ Chí Minh, đây là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách
mạng. Nó được thể hiện trong suốt cuộc đời vì dân, vì nước cho tới khi Người
qua đời. Người luôn mang trong mình tâm tưởng phấn đấu đó là: “Tôi chỉ có
một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành” [29; 517].