Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Xây dựng hệ tiêu chí đánh giá hệ thống tài chính của một quốc gia về phương diện vĩ mô áp dụng hệ tiêu chí đó để đánh giá hệ thống tài chính việt nam (dưới hai góc nhìn so sánh theo thời g

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.99 KB, 35 trang )

Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

BÀI TẬP NHÓM 1
MÔN: TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài: Xây dựng hệ tiêu chí đánh giá hệ thống tài chính của một quốc gia về phương
diện vĩ mô? Áp dụng hệ tiêu chí đó để đánh giá hệ thống tài chính Việt Nam (dưới hai
góc nhìn: so sánh theo thời gian và so sánh theo chiều ngang)? Giải pháp cốt lõi cho
những vấn đề lớn?

GVHD
LỚP
HỌC VIÊN THỰC HIỆN

:PGS.TS. LÂM CHÍ DŨNG
: K24 TNH.ĐN_1
: 1. Nguyễn Thị Lài
2. Võ Thanh Hoàng
3. Nguyễn Thị Ngọc Lan
4. Nguyễn Thị Bích Liên
5. Phạm Thị Thùy Liên
6. Lê Xuân Thành
7. Trần Thị Hồng Yến
Đà Nẵng, Tháng 07 – 2012

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 1



Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

DANH SÁCH NHÓM 1 – LỚP K24 TNH.ĐN_1
1. Nguyễn Thị Lài
2. Võ Thanh Hoàng
3. Nguyễn Thị Ngọc Lan
4. Nguyễn Thị Bích Liên
5. Phạm Thị Thùy Liên
6. Lê Xuân Thành
7. Trần Thị Hồng Yến

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 2


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống tài chính, với đặc trưng là sự hiện diện của các định chế tài chính và
thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng -ngân hàng, thị
trường chứng khóan (thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu), có vai trò quan trọng
trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự phát triển
lành mạnh của Hệ thống tài chính là một nhân tố thiết yếu đảm bảo ổn định kinh tế vĩ
mô, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, và góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế bền vững.

Hiện nay, toàn cầu đang phải đối mặt với việc khắc phục hậu quả của cuộc
khủng khoảng kinh tế nặng nề nhất từ trước đến nay mà đỉnh điểm của sự bùng nổ
khủng hoảng là vào cuối năm 2007. Trong đó, khủng hoảng tài chính chỉ là một phần
của khủng hoảng kinh tế nhưng khủng khoảng tài chính lại gây thiệt hại lớn nhất vì
nguồn vốn được di chuyển qua các nước khác nhau và có yếu tố trực tiếp lây lan. Do
đó, một hệ thống tài chính toàn cầu vững mạnh sẽ góp phần ngăn chặn các cuộc khủng
hoảng tương tự xảy ra với nền kinh tế toàn cầu.
Đối với Việt Nam, Công cuộc đổi mới bắt đầu từ năm 1986 đã thay đổi đáng kể
diện mạo đất nước. Nền kinh tế Việt Nam đã và đang chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch
hóa tập trung sang cơ chế thị trường và hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới
nói chung và Hệ thống tài chính toàn cầu nói riêng. Các thể chế, định chế và cấu thành
thị trường tài chính cũng từng bước được hình thành, cải cách theo nguyên tắc thị
trường, hội nhập.
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế tại nhiều nước trên
thế giới và suy giảm tăng trưởng kinh tế trong nước chưa chấm dứt, cùng với mức lạm
phát cao, rủi ro tài chính – tiền tệ gia tăng, vấn đề tiếp tục cải cách, tái cấu trúc Hệ
thống tài chính ở Việt Nam càng trở nên bức thiết.

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 3


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

Chính vì những lẽ đó mà việc xây dựng hệ tiêu chí để đánh giá một cách toàn
diện hệ thống tài chính của một quốc gia là vô cùng quan trọng. Trong bài viết này
chúng tôi đã nghiên cứu từng bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính cùng với vai

trò của nó đối với nền kinh tế để xây dựng nên hệ tiêu chí này. Đồng thời, trên cơ sở
thực tiễn nền kinh tế Việt Nam hiện nay, bài viết cũng đã đề xuất những định hướng
giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy Hệ thống tài chính Việt Nam phát triển lành mạnh,
đóng góp hữu hiệu cho phát triển kinh tế đất nước trong bối cảnh mới.

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 4


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

CHƯƠNG 1: HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
1.1 Khái niệm hệ thống tài chính:
Khái niệm hệ thống tài chính là một khái niệm đa dạng về ngữ nghĩa. Nó phụ
thuộc chủ yếu vào cách định nghĩa của người sử dụng trong từng trường hợp cụ thể,
do đó không có một cách định nghĩa duy nhất.
Tuy nhiên , ở đây có một vấn đề thuộc về bản chất: Tài chính là hệ thống các
quan hệ kinh tế trong phân phối, gắn liền với quá trình hình thành và sử dụng các quỹ
tiền tệ. Trong thực tế, các quan hệ tài chính diễn ra rất phức tạp và đa dạng, chúng đan
xen nhau trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của nền kinh tế. Tuy
nhiên, đó không phải là một hoạt động hổn loạn mà ngược lại, chúng tuân thủ những
nguyên tắc, những quy luật nhất định, trong đó những quan hệ tài chính có tính chất
đặc thù giống nhau nhóm lại thành một bộ phận riêng . Giữa các bộ phận này luôn có
các mối liên hệ, tác động lẫn nhau theo và tạo thành hệ thống tài chính.
Do đó, có thể hiểu Hệ thống tài chính là tổng thể các thành tố cấu thành các
hoạt động tài chính trong nền kinh tế.
1.2 Các thành tố cấu thành hệ thống tài chính:

1.2.1 Căn cứ vào các đặc trưng của chủ thể nắm giữ các quỹ tiền tệ trong xã hội
chúng ta có 04 bộ phận (hay 04 phân hệ) của hệ thống tài chính như sau:
Để có cái nhìn tổng quát nhất về cách phân loại này chúng ta có thể nhìn vào
bảng so sánh sau:
Phân loại

Chủ thể

Tài chính
công

Nhà Nước

Cơ cấu nguồn vồn Cơ cấu sử dụng nguồn vốn
Quỹ ngân sách nhà - Hỗ trợ đối với các hoạt
nước và các quỹ
động kinh tế - xã hội nhất
ngoài nhân sách
định.
- Thực hiện các chương
trình mục tiêu kinh tế - xã

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 5


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

hội.
- Quỹ dự trữ, dự phòng

Tài chính
doanh
nghiệp

doanh
nghiệp

Các trung Các
gian tài
tổ
chính
chức
tài
chính
trung
gian

Đầu tư, tích tụ vốn, Sản xuất – kinh doanh
huy động trực tiếp
từ công chúng
thông qua các hoạt
động cổ phần hoặc
hợp đồng nợ, vay
vốn của các trung
gian tài chính
trong đó chủ yếu là
vốn đầu tư của các

chủ sở hữu
Các
tổ
chức
nhận
tiền
gửi

Tiền gửi của các tổ Chủ yếu dưới hình thức cho
chức và cá nhân
vay
dưới nhiều hình
thức đa dạng bao
gồm không kỳ hạn;
Kỳ hạn ngắn, trung
và dài hạn...

Các
tổ
chức
tiết
kiệm
theo
hợp
đồng

Khoản thu (phí)
theo định kỳ.

Các

trung
gian
đầu


Vốn trung dài hạn
thông qua phát
hành các chứng từ
có giá

- Chi trả cho những người
đóng phí khi có sự kiện
thuộc phạm vi quy định
trong hợp đồng
- Đầu tư dưới các dạng khác
nhau.

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Đầu tư vào những lĩnh vực
chuyên môn trên cơ sở lợi
thế cạnh tranh nhằm né
tránh áp lực cạnh tranh với
ngân hàng

Trang 6


Môn tài chính tiền tệ
Tài chính

dân cư

Khu vực dân


GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng
Thu nhập với tư
cách người lao
động (tiền lương,
tiền công) hoặc với
tư cách nhà đầu tư

Đóng thuế, hình thành quỹ
tiêu dùng, đầu tư tài chính
dưới 2 dạng: Góp vốn và
cho vay

Từ bảng phân tích ở trên với những mô hình hoá các dòng vận động tiền tệ có thể hình
dung hệ thống tài chính qua sơ đồ sau:

Tài chính
Nhà Nước
(1a)

(2a)

(1b)

(2b)


Tài chính
Dân cư
Tài chính

Thị trường

doanh

Tài chính

nghiệp

(3b)

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

(4b)

Trang 7


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

(3a)
(4a)

Các trung gian
tài chính


(1a&2a): Doanh nghiệp & dân cư nộp thuế và các khoản đóng góp tài chính
khác cho nhà nước.
(1b&2b): Nhà nước thực hiện các khoản cấp phát kinh phí và các tài trợ khác
nhau từ các quỹ tài chính nhà nước cho doanh nghiệp và các thành phần dân cư.
(3a&4a): Các trung gian tài chính huy động vốn nhàn rỗi của doanh nghiệp và
dân cư.
(3b&4b): Các trung gian tài chính cấp tín dụng cho doanh nghiệp và dân cư.
Trong sơ đồ trên các luồng tài chính được biểu hiện bằng các mũi tên kép là kết quả
của các giao dịch tài chính giữa các khâu tài chính.
1.2.2 Căn cứ vào tính chất của các quan hệ tài chính
1.2.2.1 Phân hệ tài chính theo tài chính phi thị trường
Đặc trưng chủ yếu:
- Dòng tiền được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác.
- Có thể dựa trên quan hệ bắt buột hoặc tự nguyện.
- Tính chất không đối giá, tức không phải là hành vi mua bán quyền sử dụng vốn mà
chỉ là dòng chuyển dịch đơn phương.

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 8


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

Các quan hệ trong dòng dịch chuyển vốn :
- Quan hệ điều tiết thông qua công cụ thuế và công cụ phân bổ ngân sách giữa các
nước với các tổ chức và cá nhân trong xã hội.

- Quan hệ tài chính vô vị lợi giữa các tổ chức và cá nhân trong xã hội với nhau, ví
dụ: Đóng góp cho các hoạt động từ thiện, tài trợ của các tổ chức từ thiện cho các tổ
chức và cá nhân trong xã hội.
- Các quan hệ sử dụng những công cụ của thị trường nhưng lại có tính chất phi thị
trường, chẳng hạn một công cụ khá phổ biến là tín dụng ưu đãi.
1.2.2.2 Phân hệ tài chính theo phương thức thị trường
Đặc trưng chủ yếu:
Dòng tiền được dịch chuyển theo phương thức mua bán dựa trên những nguyên
tắc thị trường.
Các quan hệ trong dòng dịch chuyển vốn :
- Nhóm các quan hệ tài chính gián tiếp. Về thực chất đây chính là dòng dịch chuyển
tài chính từ những người thừa vốn đến những người thiếu vốn qua trung gian của các
trung gian tài chính.
- Nhóm các quan hệ tài chính trực tiếp giữa những người thừa vốn và thiếu vốn
thông qua thị trường tài chính.Có thể hình dung phân hệ này qua sơ đồ sau:

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 9


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

Trung gian
tài chính

Những người


Những người

thừa vốn

thiếu vốn

1. Dân cư

1. Doanh nghiệp

2. Doanh nghiệp

2. Nhà nước

3. Nhà nước

3. Dân cư

4.Các nhân tố

4.Các nhân tố

nước ngoài

nước ngoài

Thị trường
tài chính

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1


Trang 10


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

:Tài chính gián tiếp

: Tài chính trực tiếp
Phần lớn các cách tiếp cận trong lý thuyết kinh tế thị trường đều đồng nhất phân hệ
thứ hai này với khái niệm hệ thống tài chính.
1.3 Vai trò của hệ thống tài chính:
Các bộ phận trong hệ thống tài chính hoạt động trên các lĩnh vực, tạo ra nguồn
lực tài chính, thu hút các nguồn tài chính và chu chuyển các nguồn tài chính. Với các
lĩnh vực hoạt động này, toàn bộ hệ thống tài chính thực hiện một vai trò đặc biệt quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân là đảm bảo nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã
hội.
1.4 Cơ sở xây dựng hệ tiêu chí đánh giá hệ thống tài chính:
Dựa trên các thành tố cấu thành hệ thống tài chính và vai trò của hệ thống tài
chính, Chúng tôi đã xây dựng hệ tiêu chí đánh giá hệ thống tài chính của của một quốc
gia trên phương diện vĩ mô bao gồm:
- Hiệu quả phân chia tổng giá trị của cải xã hội cho các chủ thể khác nhau: Hệ
thống tài chính tiến hành phân phối tổng giá trị của cải của xã hội (bao gồm giá trị tích
lũy trong quá khứ và giá trị hàng hóa sản xuất hiện tại) dưới hình thái tiền tệ, không
gắn với lưu thông hàng hóa, bao gồm việc phân chia quyền sở hữu lẫn việc phân bổ

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1


Trang 11


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

quyền sử dụng khối lượng tiền tệ đại diện giá trị của cải xã hội. Việc phân chia này
được thực hiện thông qua phân bổ và tái phân bổ thường xuyên các nguồn lực tài
chính.
- Hiệu quả phân bổ nguồn lực tài chính xã hội: Một hệ thống tài chính “khỏe
mạnh” thì phải làm tốt nhiệm vụ dịch chuyển vốn từ những người không có cơ hội đầu
tư sinh lợi tới những người có cơ hội đó và qua đó nâng cao hiệu quả chung của nền
kinh tế, chuyển vốn từ những người tiết kiệm tới những người muốn tiêu dùng trong
hiện tại, qua đó giúp cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn
thời điểm cho việc mua sắm phù hợp với họ.
- Khả năng điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội: Ngoài chức năng là phân bổ
nguồn lực tài chính thì một hệ thống tài chính của một quốc gia còn phải thực hiện
được vai trò điều tiết có định hướng các hoạt động kinh tế xã hội thông qua quản lý
của nhà nước như :
+ Công cụ pháp luật: Phải hoàn thiện khung pháp luật. Yêu cầu của khung pháp luật
phải: Đầy đủ, đồng bộ, tiến bộ, khả thi; thực thi nghiêm chỉnh; thưởng phạt có ý
nghĩa;
+ Công cụ kế hoạch: Là công cụ giúp nhà nước định hướng các chương trình, xác định
các mục tiêu cụ thể trong từng thời kỳ. Kế hoạch phải đạt yêu cầu: Mềm dẻo; có tính
hướng dẫn; tính hiện thực, khả thi.
+ Công cụ hành chính: Gồm những quy định, những thủ tục hành chính bắt buộc
+ Các công cụ tài chính: Đây là loại công cụ đóng vai trò trọng yếu như ngân sách nhà
nước, thuế, lãi suất tín dụng, quỹ dự trữ tài chính quốc gia, quỹ bảo hiểm... Các công
cụ này nhằm giúp cho nhà nước can thiệp, tác động gián tiếp vào các chủ thể kinh tế,

góp phần tạo ra môi trường kinh tế – xã hội ổn định có lợi cho sự phát triển và tăng
trưởng kinh tế.

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 12


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

Các công cụ tài chính này muốn phát huy tác dụng cần phải có một hệ thống các điều
kiện đảm bảo như: Cơ chế quản lý tài chính hợp lý; hệ thống tài chính nhà nước hoạt
động hữu hiệu; thực hiện quản lý tài chính bằng luật pháp; đội ngũ quản lý tài chính
có năng lực.

CHƯƠNG II: XÂY DỰNG HỆ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG
TÀI CHÍNH
Hệ thống tài chính là một phần của nền kinh tế hiện đại. Mọi nền kinh tế hiện đại
đều đòi hỏi một hệ thống tài chính tinh vi để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất vật chất.
Để xây dựng một hệ thống tài chính tinh vi thì cần phải xây dựng một hệ tiêu chí đánh
giá hệ thống tài chính của một quốc gia trên cả phương diện vi mô và vĩ mô. Mà quan
trọng hơn cả là trên phương diện vĩ mô.

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 13



Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

2.1.Hệ tiêu chí đánh giá hệ thống tài chính của một quốc gia về phương diện vĩ
mô: dựa trên 3 tiêu chí
2.1.1. Việc phân chia tổng giá trị của cải xã hội cho các chủ thể khác nhau
Chức năng phân phối là chức năng quan trọng nhất làm nên đặc trưng và tính
tất yếu khách quan của sự tồn tại của hệ thống tài chính. Đây là tiền đề để hệ thống tải
chính phát huy các vai trò tích cực: tập trung, tích tụ, điều hòa nguồn lực tài chính và
qua đó tối đa hóa hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính trong xã hội.
Đối tượng phân phối của tài chính không chỉ bao gồm giá trị hàng hóa và dịch
vụ được tạo ra trong một thời kỳ mà còn cả những giá trị tích lũy được trong quá khứ.
Vì vậy ở góc độ vĩ mô, vai trò của tài chính là phân chia tổng giá trị của cải xã hội cho
các chủ thể sở hữu (hoặc sử dụng/ chiếm giữ) khác nhau.
Các hoạt động tài chính trong xã hội: tín dụng; bảo hiểm; thị trường chứng
khoán; ...thuế, chi tiêu ngân sách;..đều thực hiện vai trò phân chia giá trị tổng của cải
xã hội xét ở góc độ vĩ mô.
Việc phân chia giá trị tổng sản phẩm xã hội phụ thuộc rất lớn vào cơ chế quản
lý nền kinh tế của Nhà nước. Ở góc độ vĩ mô, Nhà nước có thể phân chia giá trị tổng
sản phẩm xã hội qua việc đánh thuế( nguồn tài chính được huy động từ thuế,phí, lệ
phí...) hoặc trợ cấp cho các chủ thể khác trong xã hội.
2.1.2 Việc phân bổ nguồn lực tài chính của xã hội
Trong hệ thống tài chính có sự tham gia của Nhà nước vừa với tư cách chủ thể
tài chính, vừa với tư cách tác nhân điều tiết sẽ đem lại cả hiệu quả kinh tế lẫn hiệu quả
kinh tế xã hội. Sự can thiệp chủ động của Nhà nước và các nhân tố quản lý khác là
nhân tố thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính; tạo các điều kiện tiền đề để hệ
thống phát huy vai trò “tập trung” và “thiết lập” của hệ thống tài chính (tập trung các
nguồn tài chính phân tán có quy mô nhỏ thành những nguồn tài chính đủ lớn để tài trợ


SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 14


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

cho các nhu cầu đầu tư đa dạng; thiết lập các kênh dẫn vốn đến nơi có hiệu quả nhất).
Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước cũng có thể có khả năng làm lệch lạc các dòng
vận động vốn, làm cho hiệu quả phân bổ nguồn lực tài chính đạt thấp.
2.1.3 Việc điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội
Ở bình diện vĩ mô, tài chính Nhà nước với mục tiêu quản lý vĩ mô nền kinh tế,
với nguồn lực to lớn, với khả năng sử dụng các công cụ thuế, chi tiêu ngân sách sẽ có
tác động rất mạnh lên các hoạt động kinh tế- xã hội. Bằng cách vận dụng một chính
sách tài khóa thích hợp, Nhà nước có thể đạt được các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế
trong từng thời kỳ. Việc sử dụng các công cụ tài chính Nhà nước để điều tiết các hoạt
động kinh tế- xã hội rõ ràng phụ thuộc rất lớn vào năng lực quản lý của Nhà nước, bao
gồm cả năng lực hoạch định và thực thi chính sách, năng lực thích ứng chính sách với
những diễn biến của thực tiễn. Mặt khác, dù cơ chế điều tiết của thị trường tài chính là
tự phát nhưng vai trò quản lý của Nhà nước ở đây cũng rất quan trọng.
2.2. Áp dụng hệ tiêu chí để đánh giá hệ thống tài chính Việt Nam
2.2.1. So sánh theo thời gian
2.2.1.1 Giai đoạntrước năm 1986:(Trong giai đoạn này, tiêu biểu nhất là hai kế
hoạch năm năm 1976-1980 và 1981-1985)
2.2.1.1.1 phân bổ tổng giá trị của cải trong xã hội cho các chủ thể khác:
Giai đoạn này thì cơ chế chủ yếu của nền kinh tế Việt Nam là tập trung quan
liêu bao cấp. Tổng giá trị của cải xã hội đều tập trung vào Nhà nước. Nhà nước thực
hiện việc phân chia. Chẳng hạn như ruộng đất thì được tập hợp lại để tổ chức canh tác

tập thể, sản phẩm được phân chia theo mức đóng góp. Máy móc nông nghiệp của
nông dân bị trưng mua để thành lập các tập đoàn phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các
tập đoàn sản xuất có nghĩa vụ bán sản phẩm của mình cho Nhà nước theo giá kế

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 15


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

hoạch thấp hơn rất nhiều giá trị trường. Bù lại, Nhà nước cung cấp vật tư và hàng hóa
tiêu dùng cho các tập đoàn.
2.2.1.1.2 Phân bổ nguồn lực tài chính trong xã hội:
Tập trung chủ yếu ở khâu Tài chính Nhà nước. Dựa trên cơ sở kế hoạch, Nhà
nước phân bổ nguồn lực tài chính cho các chủ thể khác trong xã hội. Cơ chế quản lý
vốn nặng về tập trung quan liêu bao cấp.
2.2.1.1.3 Điều tiết kinh tế vĩ mô:
Với đại thắng mùa xuân 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân
dân đã kết thúc thắng lợi. Tuy nhiên công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa là một
nhiệm vụ hết sức khó khăn.Kinh tế hai miền Nam, Bắc vẫn có nhiều sự khác biệt.
Kinh tế miền Bắc chủ yếu là sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, theo cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp, cơ chế quản lý kinh tế bộc lộ rõ những bất cập của nó. Đối với
miền Nam, do chính sách thực dân kiểu mới, yếu tố tư bản chủ nghĩa đã xâm nhập vào
mạnh vào công nghiệp, thương nghiệp, tài chính ngân hàng..và bước đầu trong nông
nghiệp. Tuy vậy, kinh tế miền Nam chủ yếu là sản xuất nhỏ, cơ cấu mất cân đối và lệ
thuộc vào viện trợ bên ngoài nên khi Mỹ rút quân, nền kinh tế miền Nam rơi vào
khủng hoảng.

Chính sự bất ổn về kinh tế, trên cơ sở xác định đường lối chung, đường lối xây
dựng kinh tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã quyết định phương
hướng xây dựng lại nền kinh tế thông qua hai kế hoạch năm năm( 1976- 1980) và
(1981-1985).
Với kế hoạch 1976-1980, cơ sở vật chất kỹ thuật tăng cường nhưng tốc độ tăng
trưởng kinh tế không tương xứng với mức đầu tư xây dựng cơ bản. Vì vậy trong
những năm đầu, nền kinh tế còn dạt được tốc độ tăng trưởng nhưng từ năm 1979, tổng
sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân đều giảm. Tình hình sản xuất như vậy cộng với
những sai lầm trong lưu thông phân phối, thị trường tài chính, tiền tệ không ổn định
SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 16


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

nên lạm phát diễn ra nghiêm trọng. Vì vậy Đảng và Nhà nước đã cố gắng tìm tòi
hướng đi mới là kế hoạch năm năm (1981-1985) đã tiến hành một bước điều chỉnh cơ
cấu đầu tư và nhịp độ phát triển đi đôi với một số thay đổi cục bộ trong quản lý kinh
tế. Nền kinh tế có bước tăng trưởng khá hơn. Tổng sản phẩm xã hội bình quân tăng
7,3%/năm, thu nhập quốc dân tăng 6,4%. Mặc dù vậy, cơ chế kinh tế vẫn vận hành
theo cơ chế cũ. Do đó chưa tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Sau hai kế hoạch năm năm xây dựng và phát triển kinh tế theo mô hình cũ, nền
kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng. Lạm phát diễn ra ở mức nghiêm trọng. Chính
phủ đã có nhiều biện pháp kiềm chế tốc độ lạm phát nhưng không có hiệu quả.
2.2.1.2 Giai đoạn 1986-1999
2.2.1.2.1 phân bổ tổng giá trị của cải trong xã hội cho các chủ thể khác:
Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 đã quyết định thực hiện đường lối đối mới

toàn diện đất nước, nhất là đổi mới về mặt tư duy kinh tế đã tác động tích cự đến sự
phát triển của các ngành sản xuất và dịch vụ. Trong công nghiệp, quyết định 217
HĐBT tháng 11/1987 trao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp
Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế, lấy thu bù chi, xóa dần bao cấp, giảm bớt các
chỉ tiêu pháp lệnh, khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mở rộng
sản xuất để thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp.
Thành tựu quan trọng trong giai đoạn này là bước đầu hình thành nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước.
2.2.1.2.2 Phân bổ nguồn lực tài chính trong xã hội:
Kể từ khi thống nhất đất nước, Việt Nam bắt đầu tiến trình tự do hóa tài chính kể
từ khi công cuộc đổi mới được khởi xướng từ năm 1986. Ban đầu hệ thống tài chính
trong nước dường như được tự do hóa hoàn toàn, kể từ khi hội nghị lần thứ hai Ban

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 17


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI năm 1987 cho phép “ thực hiện mạnh mẽ chính
sách huy động vốn trong dân, trong các tổ chức kinh tế bằng nhiều hình thức, nhiều
kênh bảo đảm lợi ích của người gửi.”.
Ở thời điểm này, các tổ chức kinh tế được huy động vốn hoàn toàn tự do mà
không có bất kỳ một quy định nào về đảm bảo an toàn. Hậu quả tất yếu là cả hệ thống
sụp đổ do nó hoạt động theo kiểu tiền của người gửi sau được sử dụng để trả lãi cho
người gửi tiền trước( mô hình tháp ponzi).

Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sụp đổ của hệ thống hợp tác xã tín
dụng là do thông tin bất cân xứng mà nó gây ra tâm lý ỷ lại và lựa chọn bất lợi. Hiểu
một cách đơn giản là vốn huy động được tập trung vào những hoạt động rủi ro rất cao.
Những quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các ngân hàng đầu
tiên được thể hiện trong các Pháp lệnh về ngân hàng năm 1990. Một số quy định cơ
bản đã có nhưng còn khá thô sơ như “ Tổ chức tín dụng không được huy động vốn
quá 20 lần tổng số vốn tự có và quỹ dự trữ” thay vì sử dụng hệ số đủ vốn theo quy
định Basel I được ban hành năm 1988.
Do những quy định về đảm bảo an toàn theo các Pháp lệnh ngân hàng phần vì
còn thô sơ, phần không được chế tài một cách nghiêm minh cộng với những yếu tố
khác làm cho Việt Nam gặp rắc rối với hệ thống ngân hàng lần thứ hai cùng thời điểm
với cuộc khủng hoàng kinh tế tài chính năm 1997-1998 trong khu vực.
Do quy định về sở hữu không rõ ràng nên một số ngân hàng bị biến thành đơn
vị trực thuộc hay “sân sau” của các doanh nghiệp. Kết quả vốn huy động được cho
chính chủ sở hữu ngân hàng vay đầu tư và các hoạt động kinh doanh rủi ro. Một số
ngân hàng mất khả năng chi trả nên Chính phủ phải giao các ngân hàng thương mại
Nhà nước đứng ra xử lý. Rất may là quy mô các ngân hàng gặp vấn đề còn tương đối
nhỏ và cách xử lý được đưa ra kịp thời nên không gây ra hiệu ứng lây lan dẫn đến sụp
đổ cả hệ thống như đã xảy ra ở nhiều nước trên thế giới

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 18


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

2.2.1.2.3 Điều tiết kinh tế vĩ mô:

Trong giai đoạn này, vấn đề vĩ mô hàng đầu của Việt Nam là xóa đói giảm
nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiếp cận với dòng chảy của khu vực
và quốc tế. Các biến động kinh tế tại Việt Nam thời kỳ 1997-1998 chịu ảnh hưởng lan
truyền từ khủng hoảng tài chính tiền tệ của khu vực Đông Á, với tư cách là một thành
viên của kinh tế khu vực. Tiêu biểu là trong hai năm 1997-1998, mức tăng lên hàng
năm của chỉ số giá tiêu dùng không vượt quá một con số. Chênh lệch giá tiêu dùng
giữa các tháng trong năm không nhiều, có tháng lên tháng xuống. Trong giai đoạn
1992-1997, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao- bình quân gần 9% mỗi năm. Động lực
tăng trưởng trước tiên gắn liền với mức đầu tư và tăng trưởng công nghiệp cao, được
hỗ trợ mạnh mẽ từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lên tới 2 tỉ USD mỗi năm,
đã đóng góp từ 5-10%GDP hàng năm.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng từ 2 tỉ USD năm 1991 lên gấp hơn
4 lần sau 6 năm. Tuy vậy, cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ châu Á cũng làm tốc độ
tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại. Tốc độ tăng trưởng GDP trên đầu người 6%7% trong những năm 1990-1997 đã không thể tiếp tục duy trì và giảm xuống 4% vào
giai đoạn 1998-1999. Khó khăn tài chính của khu vực làm giảm lượng vốn FDI từ các
nhà đầu tư láng giềng và khiến nhiều dự án lâm vào trạng thái dở dang. Trị giá xuất
khẩu năm 1998 đạt 9,3 tỉ USD( năm 1997 là gần 9,2 tỉ USD), tăng không đáng kể so
với năm trước.
.2.2.1.3 Giai đoạn 2000-2008
2.2.1.3.1 phân bổ tổng giá trị của cải trong xã hội cho các chủ thể khác:
Giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Tổng giá trị của
cải xã hội cũng vẫn tập trung vào Nhà nước. Nhà nước thực hiện việc phân chia, phân
phối giá trị của cải xã hội thông qua chính sách thu, chi công. Giá trị của cải xã hội

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 19



Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

một phần đảm bảo nhu cầu của Nhà nước và xã hội, một phần được phân chia cho các
chủ thể khác trong xã hội thông qua các công cụ điều tiết của Nhà nước.
Thông qua các khoản chi đầu tư xây dựng và các công trình thuộc hệ thống kết
cấu hạ tầng kinh tế, chi hỗ trợ, trợ cấp, cứu tế cho đối tượng nghèo, chi phúc lợi xã hội
về y tế, giáo dục, chi tiêu công khác...Nhà nước đã tạo điều kiện và hướng nguồn đầu
tư của các doanh nghiệp vào các lĩnh vực, các vùng cần thiết để hình thành cơ cấu
kinh tế mới, cũng như tạo ra môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh; làm giảm
bớt sự chênh lệch về thu nhập, về tiền lương giữa các ngành nghề,các khu vực đô thị,
nông thôn, miền núi; chuyển một bộ phận thu nhập từ tầng lớp giàu có sang tầng lớp
những người nghèo..Như vậy, các doanh nghiệp khi đầu tư vào lĩnh vực, các vùng
Nhà nước khuyến khích đầu tư, các tầng lớp dân cư nghèo, khó khăn, gia đình chính
sách...đã tiếp nhận được một phần giá trị của cải trong xã hội thông qua “Nhà phân
phối” là Nhà nước.
Tương tự như vậy, khi sử dụng chính sách thuế, Nhà nước cũng thực hiện việc
phân chia của cải xã hội cho các chủ thể. Với chính sách miễn, giảm thuế, các doanh
nghiệp đầu tư vào vùng, lĩnh vực, ngành Nhà nước khuyến khích đầu tư cũng gián tiếp
nhận được một phần giá trị của cải trong xã hội, đưa phần này vào hoạt động sản xuất,
kinh doanh góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu đã được Nhà nước
hoạch định. Chính sách miễn, giảm thuế thu nhập cho người nghèo, gia đình chính
sách, cho các đối tượng được nhà nước ưu tiên cũng là một “kênh” hữu hiệu để phân
phối tổng của cải của xã hội theo yêu cầu hợp lý và công bằng.
2.2.1.3.2 Phân bổ nguồn lực tài chính trong xã hội
Trong giai đoạn này, TTCK Việt Nam bắt đầu hình thành từ ngày 20/07/2000,
cùng với quá trình cải cách kinh tế, TTCK Việt Nam ra đời hình thành một kênh huy
động nguồn lực mới trong nền kinh tế. Những biến động trên TTCK không chỉ tác
động giới hạn trong phạm vi các giao dịch tài chính mà lan tỏa nhanh chóng, mạnh mẽ


SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 20


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

sang các thị trường bất động sản và tín dụng. Từng làn sóng đầu tư mới dồn về TTCK,
nhưng ở giai đoạn sau nguy cơ rủi ro cao hơn do tỷ trọng giao dịch cổ phần trên thị
trường phi tập trung (còn gọi là OTC) tăng lên. Đây là điểm rất khác với hoàn cảnh
kinh tế trong giai đoạn trước..
TTCK đã thực hiện nhiệm vụ dịch chuyển vốn từ những người không có cơ hội
đầu tư sinh lợi tới những người có khả năng tạo ra cơ hội đầu tư và chuyển vốn từ
những người tiết kiệm tới những người muốn tiêu dùng trong hiện tại qua đó nâng cao
hiệu quả chung của nền kinh tế, qua đó giúp cải thiện mức sống của người dân.
Đến đầu năm 2008, trước vận động bất lợi của TTCK và lạm phát tăng cao,
Ngân hàng nhà nước thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, sử dụng đồng thời các công
cụ lãi suất và hoạt động thị trường mở. Từ giữa tháng 1-2008, dự trữ bắt buộc đã tăng
thêm 1% với tiền gửi nội tệ và ngoại tệ từ không kỳ hạn tới dưới 12 tháng. Tới giữa
năm 2008, NHNN tiếp tục điều chỉnh lãi suất cơ bản lên 14%/năm. Đặc điểm đáng
chú ý của thời gian này là lãi suất huy động ngắn hạn bằng, thậm chí cao hơn lãi suất
huy động dài hạn. Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện theo cả hai hướng mở rộng
và thắt chặt tiền tệ và không tạo nhiều tác động tới lãi suất. Vì vậy việc điều chỉnh
tăng dần các công cụ lãi suất là giải pháp hợp lý và sớm mang lại kết quả bình ổn thị
trường tiền tệ. So với giai đoạn trước đó thì chính sách tiền tệ trong năm 2008 sử dụng
nhiều công cụ với cường độ điều chỉnh mạnh hơn. Mức lãi suất thực dương cho thấy
các liệu pháp tiền tệ đã phát huy tác dụng ổn định kinh tế. Chi phí lãi vay cao kết hợp

với tăng giá đầu vào tạo ra áp lực lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Về tỷ giá hối đoái: Trong hai năm 2006-2007 tỷ giá VND/USD có xu hướng tăng
đều đặn. Trong vòng 24 tháng, tỷ giá biến động và làm giảm giá đồng Việt Nam. Tuy
nhiên về bản chất, mục tiêu thì việc giảm giá đồng Việt Nan trong giai đoạn khủng
hoảng tài chính tiền tệ Châu Á hướng tới việc tăng cường năng lực cạnh tranh cho
hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trước các đối thủ cạnh tranh trong khu vực.

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 21


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

- Về dòng vốn nước ngoài: Nỗ lực mở cửa nền kinh tế đã mang lại những kết quả
đáng khích lệ trong hoạt động ngoại thương với kim ngạch xuất, nhập khẩu liên tục
tăng cao. Năm 2006 đã có 9 mặt hàng đạt doanh thu xuất khẩu trên 1 tỉ USD. Tuy vậy
nhập khẩu luôn cao hơn xuất khẩu và xu hướng gia tăng nhập siêu chưa có dấu hiệu
điều chỉnh. Nguồn hình thành dự trữ ngoại hối chủ đạo là các dòng vốn đầu tư trực
tiếp và gián tiếp tăng mạnh trong vài ba năm trở lại. Đóng góp từ nguồn kiều hối vào
dự trữ ngoại tệ quốc gia cũng đang tăng lên với trung bình 4 tỉ USD/ năm.
Trong giai đoạn này thì tính phức tạp của biến động kinh tế năm 2007-2008
càng tăng lên khi quy mô hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã tăng từ cấp khu
vực lên toàn cầu. Khủng hoảng nợ dưới chuẩn bất động sản tại Hoa Kỳ chỉ mới gửi
một tín hiệu từ xa tới Việt Nam, nhưng các cam kết tự do hóa hoạt động thương mại,
dịch vụ, đầu tư thì rất cụ thể và trực tiếp. Tính phức tạp cao cũng là một thách thức
cho những nỗ lực đưa nền kinh tế trở lại chu kỳ ổn định và phát triển
2.2.1.3.3 Điều tiết kinh tế vĩ mô:

Kể từ năm 2000, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ổn định ở mức 7%-8%/năm,
nhưng từ năm đó lạm phát cũng liên tục tăng lên. Cuối năm 2007, lạm phát hai con số
(12,6%) đã trở lại. Đến đầu năm 2008: cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008
đã làm ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển đặc thù của nền kinh tế Việt Nam: nửa
đầu năm lạm phát cao và nửa cuối năm rơi vào tình trạng giảm phát. Sự đảo chiều từ
lạm phát sang giảm phát phản ánh tính bất ổn của nền kinh tế vĩ mô và theo đó các
công ty, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn
trong việc khôi phục sản xuất sau nhiều tháng chững lại. Điều đó khiến các lựa chọn
chính sách trở nên khó khăn hơn trong điều kiện ràng buộc giữa ổn định tốc độ tăng
trưởng kinh tế với nhiều thay đổi căn bản của hệ thống kinh tế vĩ mô.
Những thành quả phát triển và những khó khăn của nền kinh tế hiện nay đang
đặt nhiệm vụ điều hành vĩ mô Việt Nam trong một tình thế phức tạp hơn rất nhiều so

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 22


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

với kinh nghiệm giải quyết lạm phát trong quá khứ. Khó khăn chủ yếu của cách tiếp
cận này nằm ở việc tập hợp đầy đủ các số liệu thống kê tin cậy ở mức cần thiết.
2.2.1.4 Giai đoạn 2009 - đến nay
2.2.1.4.1 Phân bổ tổng giá trị của cải trong xã hội cho các chủ thể khác:
Giai đoạn này cũng giống như giai đoạn 2000-2008. Nhà nước vẫn thực hiện
việc phân chia, phân phối giá trị của cải xã hội thông qua chính sách thu, chi công, các
công cụ điều tiết.
2.2.1.4.2 Phân bổ nguồn lực tài chính trong xã hội:

Đầu những năm 2009, 2010 nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đối diện với thực tế
lãi suất tăng cao, chi phí đầu vào đắt đỏ, và với năng lực điều hành, quy hoạch và sử
dụng nguồn lực còn hạn chế, chúng ta buộc phải chấp nhận sự “biến mất” những đơn
vị kinh doanh kém hiệu quả.
2.2.1.4.3 Điều tiết kinh tế vĩ mô:
Việt Nam bước vào năm 2011 với nhiều bất ổn kinh tế vĩ mô, bao gồm lạm phát
tăng nhanh ở mức cao, tỷ giá biến động mạnh, dự trữ ngoại hối sụt giảm, mức rủi ro
tín dụng quốc gia gia tăng sau sự đổ vỡ của một trong những doanh nghiệp Nhà nước
hàng đầu, thâm hụt ngân sách và nhập siêu ở mức cao cũng như bất cập trong khu vực
doanh nghiệp cũng như tài chính ngân hàng. Trong mười hai tháng vừa qua các diễn
biến bất lợi trên đã dần được cải thiện, giúp Việt Nam bước đầu có được một môi
trường kinh tế vĩ mô ổn định hơn. Mặc dù vẫn còn đó những rủi ro bất trắc trong
tương lai, song điều chắc chắn là Nghị Quyết 11- với những biện pháp bình ổn kinh tế
và bảo đảm an sinh, ổn định xã hội đã giúp ngăn chặn nguy cơ bất ổn định kinh tế và
khôi phục lại niềm tin vào khả năng điều hành vĩ mô của chính phủ.
Nếu như môi trường kinh tế vĩ mô trong giai đoạn 2010-2011 xấu đi rất nhanh
thì tốc độ cải thiện tình hình trong 12 tháng vừa qua cũng không kém phần nhanh

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 23


Môn tài chính tiền tệ

GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

chóng. Lạm phát( so với cùng kỳ) đã giảm trong chin tháng liên tiếp- từ đỉnh điểm
23% hồi tháng 8/2011 xuống còn 8,3% vào thág 5/2012. Thâm hụt cán cân vãng lai
ước tính đã giảm xuống còn 5% GDP trong năm 2011, từ mức 4,1% năm 2010 và đặc

biệt so với mức cao điểm là 11,9% GDP vào năm 2008. Tỉ giá hối đoái không chính
thức dao động trong biên độ +- 1% so với tỉ giá chính thức trong gần hết cả năm.
Nguồn đô la Mỹ dồi dào trên thị trường giúp cho Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
tăng cường dự trữ ngoại hối trong những tháng đầu năm 2012, hiện ước tính vào
khoảng 9 tuần nhập khẩu. Tốc độ tăng trưởng tín dụng đã giảm mạnh từ 32,4% vào
cuối năm 2010 xuống còn 14,3% vào cuối năm 2011. Thâm hụt ngân sách( theo tiêu
chí GFS) ước tính đã giảm xuống còn 2,7% GDP trong năm 2011 từ mức cao điểm
7,2% GDP năm 2009.
Việc ổn định môi trường kinh tế vĩ mô có giá của nó nhưng không ổn định kinh
tế có thể sẽ dẫn tới tổn thất cao hơn. Tăng trưởng GDP đã giảm từ 6,8% trong năm
2010 xuống còn 5,9% trong năm 2011, và tiếp tục giảm xuống mức 4% trong quý một
2012- khi tình trạng giá cả tăng cao đã làm giảm cầu trong nước, ảnh hưởng đến nhiều
ngành như xây dựng, sản xuất và công ích. Sản xuất công nghiệp chậm lại, lượng tồn
kho các mặt hàng chế biến chủ chốt tăng lên. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đã phải
đóng cửa, giải thể hoạc tạm thời ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh. Các nỗ lực
bình ổn kinh tế có thể gây sụt giảm kinh tế theo chu kỳ nhưng xu hướng suy giảm
kinh tế trong vòng 5-6 năm trở lại đây chủ yếu là kết quả của quá trình cải cách cơ cấu
chậm trễ. Hiệu quả yếu kém của khu vực doanh nghiệp Nhà nước, ngân hàng và đầu
tư công đang là nguyên nhân tác động tiêu cực đến tiềm năng tăng trưởng dài hạn của
Việt Nam.
2.2.2. So sánh theo chiều ngang (áp dụng các tiêu chí đánh giá hệ thống tài chính
Việt Nam trong từng khâu)

SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1

Trang 24


Môn tài chính tiền tệ


GVHD: PGS.TS.Lâm Chí Dũng

Xét ở góc độ vĩ mô, các hoạt động tài chính trong xã hội như tín dụng, bảo
hiểm, TTCK, thuế, chi tiêu ngân sách đều thực hiện vai trò phân chia tổng của cải xã
hội. Mục tiêu quản lý vĩ mô trong hệ thống tài chính là: làm sao tối đa hóa hiệu quả
tổng thể của vốn, tối thiểu hóa chi phí giao dịch vốn trong nền kinh tế và hoạt động
của hệ thống tài chính phải an toàn và ổn định. Trong hệ thống tài chính Việt Nam,
Nhà nước với tư cách là chủ thể tài chính đồng thời là tác nhân điều tiết đóng vai trò
quan trọng. Tuy nhiên thực tế tại Việt Nam do hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh,
chưa đồng bộ và chặt chẽ nên hoạt động của hệ thống tài chính tiềm ẩn nhiều nguy cơ
mất an toàn, không ổn định. Hệ thống tài chính Việt Nam chưa thiết lập được các
kênh dẫn vốn hiệu quả. Vốn nhiều nơi, nhiều chỗ còn thừa trong khi nơi cần thì lại
không có. Chẳng hạn trong 6 tháng đầu năm vừa qua đã tồn tại một thực tế: nhiều
ngân hàng thừa vốn trong khi các doanh nghiệp đang thực sự gặp khó khăn thì không
thể tiếp cận vốn để có thêm nguồn lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Xét một
khía cạnh nào đó, một trong những nguyên nhân là các khâu tài chính không thể giao
dịch được với nhau, các doanh nghiệp thiếu vốn không tiếp cận được nguồn vốn ở nơi
thừa do chi phí giao dịch vốn trong nền kinh tế còn quá cao.
Ở góc độ khác thì nguồn vốn phân tán trong dân cư còn tồn tại nhiều. Người
Đông Nam Á nói chung, người Việt Nam nói riêng là người rất tiết kiệm. Nhưng theo
truyền thống tiền tiết kiệm thường để dành mua vàng bạc hay nữ trang để cất giữ.
Hình thức tiết kiệm này có giá trị về mặt cá nhân nhưng không có ích cho xã hội. Hệ
thống tài chính hiện đại cần đóng góp cho xã hội bằng cách huy động nguồn tiết kiệm
dự phòng của khâu tài chính dân cư vào những mục đích sử dụng làm tăng năng suất
theo cách mà vàng bạc hay nữ trang không làm được. Để làm được điều đó thì nền
kinh tế phải vận hành tốt để có được một niềm tin lớn đối với công chúng nhằm huy
động tiết kiệm tư nhân cho hàng hóa công. Thực tế cho thấy Việt Nam chúng ta chưa
làm tốt điều này. Có thể nói một lượng lớn nguồn vốn còn nằm trong khâu tài chính
dân cư. Nguồn vốn đó có thể coi là “ nguồn vốn chết” vì nó không có cơ hội được đầu
SVTH: nhóm 1- lớp K24-TCN1


Trang 25


×