Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Thu hút FDI và vấn đề phát triển bền vững ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.91 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: FDI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA FDI TỚI NỀN KINH TẾ..................2
1.1.

Khái niệm.........................................................................................................2

1.2.

Tác động của FDI tới nền kinh tế..................................................................2

1.2.1. Đối với nước đầu tư.......................................................................................2
1.2.2. Đối với nước tiếp nhận đầu tư.........................................................................3
1.3.

Tác động của FDI tới nền kinh tế Việt Nam.................................................5

CHƯƠNG 2: THU HÚT FDI VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở
VIỆT NAM..........................................................................................................7
2.1. Thực trạng thu hút FDI tại Việt Nam năm 2011..............................................8
2.2. FDI với vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam..............................................9
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GỢI Ý THU HÚT FDI CHO SỰ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG TẠI VIỆT NAM........................................................................................13
3.1. Định hướng phát triển bền vững trong giai đoạn tới của Việt Nam……………13
3.2. Chiến lược thu hút FDI với vấn đề phát triển bền vững tại Việt Nam giai đoạn
2011-2020………………………………………………………………………….14
3.3. Một số giải pháp thu hút FDI với vấn đề phát triển bền vững tại Việt Nam…15
3.3.1. Hoàn thiện cơ chế chính sách về quản lý FDI bền vững……………………15
3.3.2. Có cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư FDI bền vững………………….15
3.3.3. Nâng cao vai trò quản lý của nhà nước và sự tham gia của xã hội…………16
3.3.4. Thúc đẩy, khuyến khích sự tham gia của toàn xã hội trong bảo vệ môi trường
đầu tư………………………………………………………………………………..16


3.3.5. Thu phí hoặc thuế các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường: ……………16
3.3.6. Quy định giới hạn ô nhiễm………………………………..............................16
3.3.7. Giải pháp trong quy trình đầu tư FDI…………………………………………17
3.3.8. Giải pháp về xúc tiến đầu tư…………………………………………………18

1


ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
“THU HÚT FDI VÀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM”
CHƯƠNG 1: FDI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA FDI TỚI NỀN KINH TẾ.
1.1 Khái niệm.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment, viết tắt là FDI) theo
IMF định nghĩa là loại đầu tư phản ánh mục tiêu nhằm đạt được lợi ích lâu dài của
một tổ chức sở tại trong một nền kinh tế (doanh nghiệp nước ngoài hay công ty mẹ)
ở một doanh nghiệp đặt ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài).
Theo tổ chức thương mại thế giới (WTO) đưa ra khái niệm về FDI như sau:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu
tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản
lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính
khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở
nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp này, nhà đầu tư
thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay
"chi nhánh công ty”.
1.2. Tác động của FDI tới nền kinh tế.
1.2.1 Đối với nước đầu tư
Trước hết, FDI giúp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường bành
trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới.
Phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các nước về thực chất

hoạt động như là chi nhánh của các công ty mẹ ở chính quốc. Việc xây dựng các nhà
máy sản xuất, chế tạo hoặc lắp ráp ở nước sở tại sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm, phụ tùng của công ty mẹ ở nước ngoài, đồng thời còn là biện pháp thâm nhập
thị trường hữu hiệu tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước. Đặc biệt thị
trường tiêu thụ sản phẩm nội địa của những nước lớn như Trung Quốc, Ấn Độ,
Inđônexia... có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với nguồn vốn FDI.
Thứ hai, FDI giúp các Công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời
gian thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao.
Do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển sản xuất và mức sống,
thu nhập... giữa các nước nên đã tạo ra chênh lệch về điều kiện và giá cả các yếu tố
đầu vào của sản xuất. Do đó, đầu tư ra nước ngoài cho phép lợi dụng các chênh lệch
này để giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận... Trước hết đó là chi phí về lao động.
Tiền lương của người lao động ở Nhật gấp hơn 10 lần lương bình quân của lao động
trong khối ASEAN; lương bình quân trong các NICs Đông á cũng gấp 12 lần lương
2


của lao động Việt Nam. Do đó, trong thời gian qua, các nước tư bản phát triển và
những nước công nghiệp mới đã chuyển những ngành sử dụng nhiều lao động sang
các nước đang phát triển để giảm chi phí sản xuất. Việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm ở các nước sở tại cũng giúp các chủ đầu tư giảm chi phí vận chuyển hàng
hoá, tiết kiệm chi phí quảng cáo, tiếp thị...
Thứ ba, FDI giúp các chủ đầu tư tìm kiếm được các nguồn cung cấp nguyên,
nhiên liệu ổn định.
Mục tiêu của nhiều dự án đầu tư nước ngoài tìm kiếm nguồn nguyên liệu,
nhiên liệu phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh của các chủ đầu tư,
chẳng hạn thăm dò khai thác dầu khí, khoáng sản, tài nguyên biển, rừng, sản phẩm
cây công nghiệp... Nguồn tài nguyên của các nước đang phát triển có nhiều nhưng
không có điều kiện khai thác, chế biến do thiếu vốn, công nghệ. Do đó, đầu tư vào
các lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được

lợi nhuận cao.
Thứ tư, FDI giúp các chủ đầu tư nước ngoài đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng
công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đổi mới thường xuyên công nghệ là điều kiện sống còn trong cạnh tranh, do
đó các nhà đầu tư nước ngoài thường chuyển những máy móc, công nghệ đã lạc hậu
so với trình độ của họ để đầu tư sang các nước khác. Điều đó, một mặt giúp các chủ
đầu tư thực chất bán được máy móc cũ để thu hồi vốn nhằm đổi mới thiết bị công
nghệ, kéo dài được chu kỳ sống của sản phẩm của hãng ở các thị trường mới, di
chuyển máy móc cũ ra nước ngoài và trong nhiều trường hợp còn thu được đặc lợi
do chuyển giao công nghệ.
1.2.2 Đối với nước tiếp nhận đầu tư.
FDI có thể mang lại cho các nước sở tại những lợi ích khác nhau. Trong số đó
có những lợi ích trực tiếp và nhìn thấy được. Có những lợi ích gián tiếp và không dễ
nhận thấy. Các lợi ích chung của FDI bao gồm:
- FDI góp phần đóng góp vào ngân sách:
FDI sẽ mở rộng hơn diện đối tượng chịu thuế và đóng góp cho nguồn thu của
Chính phủ. Thậm chí nếu như các nhà đầu tư nước ngoài được miễn thuế thu nhập
doanh nghiệp hoàn toàn, Chính phủ vẫn có được thêm nguồn thu từ thuế thu nhập
cá nhân và các loại thuế trực thu khác. Hoạt động của các doanh nghiệp FDI có tác
động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế. Cùng với quá trình phát triển,
mức đóng góp của các doanh nghiệp FDI vào thu ngân sách ngày càng tăng, tạo khả
năng chủ động trong cân đối ngân sách, giảm bội chi, góp phần cải thiện cán cân
vãng lai, cán cân thanh toán của Việt Nam.
3


- FDI góp phần chuyển giao công nghệ, tác động tích cực đối với đầu tư trong
nước.
Các doanh nghiệp FDI đã đem đến cho nền kinh tế những trang thiết bị, máy
móc công nghệ dây chuyền sản xuất tiên tiến thông qua chuyển giao công nghệ, đào

tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề. Bằng cách này đã góp phần thúc đẩy
chuyển giao công nghệ tiên tiến, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất
nước như viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử,
tin học, ô tô, xe máy...
Dòng vốn FDI cũng sẽ thúc đẩy sự phát triển của đầu tư trong nước do các
công ty tiếp cận được các kênh phân phối, hoặc trở thành các nhà cung cấp hoặc
cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài. Thông qua sự tác động qua lại
với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty trong nước có thể cải
thiện được chất lượng và uy tín của mình và do vậy, sẽ có khả năng cạnh tranh trên
thị trường quốc tế.
- FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư.
Các doanh nghiệp FDI đã tạo ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới với công
nghệ hiện đại, chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, góp phần tăng đáng kể năng lực sản
xuất và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Thông qua đầu tư, các doanh
nghiệp FDI đã tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp đã có như dầu khí,
công nghệ thông tin, hoá chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và điện tử gia dụng, công
nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giầy, dệt may... Trong nông nghiệp, các
doanh nghiệp FDI đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm lượng kỹ thuật cao và các
cây, con giống mới.
Các doanh nghiệp FDI tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế
như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế.
Một phần quan trọng FDI được định hướng vào xuất khẩu. Với mức độ và sự
tham gia vào thị trường nước ngoài và thông qua các mạng lưới phân phối, các
doanh nghiệp nước ngoài có khả năng tham gia vào thị trường xuất khẩu dễ hơn các
doanh nghiệp trong nước. Nếu được quản lý một cách hợp lý, rất nhiều quốc gia có
thể sử dụng FDI như một cách để nâng cao mức xuất khẩu của mình và cải thiện
được doanh thu ngoại hối.
- FDI góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm, nâng cao thu nhập
cho người lao động
Các lợi ích chung nhất đi kèm với FDI là việc tạo thêm và bảo hộ việc làm.

Nhờ có hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần làm giảm tỷ lệ thất
nghiệp ở những nước tiếp nhận đầu tư. Cùng với tạo việc làm mới, dân bản xứ sẽ có
thêm thu nhập và sức mua. Các doanh nghiệp FDI thu hút một số lớn lao động, cả
4


lao động kỹ thuật và lao động giản đơn không chỉ của khu vực đô thị, mà cả lao
động từ nông thôn. Không chỉ có vậy, các doanh nghiệp FDI đã tạo thêm nhiều việc
làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng tác phong công nghiệp trong sản
xuất, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, ổn định trật tự an
ninh xã hội.
Lao động địa phương được biết đến các kỹ năng kỹ thuật và quản lý mới.
Điều đó sẽ kích thích sản xuất, năng lực kinh doanh và mở ra các cơ hội đào tạo.
Nhiều doanh nghiệp FDI đã tạo cho lao động Việt Nam có điều kiện được đào tạo
nâng cao tay nghê, tiếp cận với kỹ năng, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến
ngay tại doanh nghiệp hoặc gửi đi đào tạo tại nước ngoài đủ sức thay thế chuyên gia
nước ngoài.
- FDI mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực
và thế giới
Đầu tư nước ngoài đã góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo điều kiện để
Việt Nam chủ động hội nhập sâu rộng hơn nữa vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Các doanh nghiệp tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa
phương hoá và đa dạng hoá, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư.
1.3

Tác động của FDI tới nền kinh tế Việt Nam.

1.3.1. FDI bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế -xã hội, góp phần xóa đói
giảm nghèo.

Tính từ năm 1988 đến hết năm 2010, Việt Nam đã thu hút được 13.146 dự án
FDI với tổng vốn đăng kí 213,1 tỷ USD. Trong đó, vốn thực hiện đạt khoảng 79,6 tỷ
USD. Khu vực FDI đã đóng góp 22% tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 19962000, 16% giai đoạn 2001-2005 và duy trì ở mức 24,7% giai đoạn 2006-2010 trong
đó riêng năm 2010 chiếm 25,8%.
Tỷ lệ đóng góp FDI vào GDP từ chỗ chỉ chiếm 12,7% năm 2000đã tăng lên
14,6 % thời kì 2001-2005 và gần 18% thời kỳ 2006-2010.Các doanh nghiệp FDI
cũng đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, gia tăng từ 195 triệu USD năm năm
1995 lên 3,1 tỷ USD năm 2010 và đạt tổng cộng 12,7 tỷ USD từ năm 1988 đến nay
qua đó góp phần quan trọng để tăng chi cho phát triển hạ tầng kinh tế xã hội hỗ trợ
các địa phương khó khăn trong xóa đói giảm nghèo.
1.3.2. FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Những năm qua, FDI đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng của nền
kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng, với việc ra đời hàng loạt nhà
máy, xí nghiệp, có mặt ở 18/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân.
Trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất, với
5


7.305 dự án, tổng vốn đăng ký 93,97 tỷ USD, chiếm 59,8% số dự án và 49% vốn
đăng ký kinh doanh tại Việt Nam. Khu vực FDI luôn chiếm tỷ trọng lớn trong lĩnh
vực công nghiệp của cả nước từ 26,5% năm 1996 lên 43,7 % năm 2005 và duy trì ở
mức này đến nay.
1.3.3. FDI đóng góp quan trọng vào kim nghạch xuất nhập khẩu.
FDI đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu, giá
trị xuất khẩu ngày càng gia tăng , giai đoạn 1996-2000 chỉ chiếm khoảng 22% tổng
giá trị xuất nhập khẩu của cả nước thì đến giai đoạn 2001-2005 chiếm 32% và giai
đoạn 2006-2010 chiếm 39%. Đồng thời, riêng khu vực FDI xuất siêu tới gần 25, 7 tỷ
USD, trong khi cả nước nhập siêu tới 61, 9 tỷ USD.
1.3.4. Thúc đẩy đổi mới và chuyển giao công nghệ.
Song hành với việc đầu tư vào lĩnh vực Công nghiệp, dịch vụ, FDI góp phần

thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát triển một số ngành
kinh tế quan trọng của đất nước như: viễn thông, thăm dò, khai thác dầu khí, hóa
chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe máy,… Nhờ có FDI, các doanh nghiệp
đã tạo ra nhiề sản phẩm có chất lượng, đáp ứng tốt nhu cầu trong nước và xuất khẩu,
góp phần hạn chế nhập khẩu. Ngoài ra FDI cũng thúc đẩy các doanh nghiệp trong
nước cố gắng đổi mới công nghệ, chấp nhận sức ép cạnh tranh tạo ra cuộc đua giữa
các thành phần kinh tế.
Việc nhiều tập đoàn lớn như Intel, Samsung, Canon, Toyota, Honda,… và gần
đây, một loạt tên tuổi như AES, Wintek, Ememerson, Nokia,… với những dự án
trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới có mặt tại Việt Nam sẽ mở ra cơ hội
nâng cao chất lượng cho dòng vốn FDI, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa- hiện đại
hóa và phát triển bền vững cho Việt Nam giai đoạn tới.
1.3.5. FDI góp phần tạo thêm việc làm, tăng năng suất lao động và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.
Nếu như năm 1995 mới có 210.000 người làm việc trực tiếp cho các doanh
nghiệp FDI thì đến năm 2010 con số này khoảng 1,9 triệu người tăng khoảng 9 lần,
chưa kể có hàng triệu lao động gián tiếp khác. Bên cạnh đó phần lớn lao động lao
động khi được tiếp nhận vào làm việc tại các doanh nghiệp FDI thường được đào tạo
lại, nâng cao tay nghề góp phần tăng năng suất lao động và chất lượng nguồn nhân
lực.
1.3.6. FDI góp phần đa dạng hóa hình thức và phương thức đầu tư.
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 chỉ chỉ cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu
tư theo ba hình thức :hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh và 100% vốn nước
ngoài. Năm 1990 hình thức liên doanh được mở rộng, theo đó cho phép cơ chế
“nhiều bên”. Đến năm 1992 lần đầu tiên các doanh nghiệp tư nhân được quyền hợp
6


tác với nước ngoài. Luật Đầu tư 1996 bổ xung các loại hình đầu tư như BT, BOT
bên cạnh loại hình BOT trước đây.Năm 2010, chính phủ đã ban hành Quy chế thí

điểm đầu tư theo hình thức đối tác công-tư (PPP)
1.3.7. Góp phần mở rộng mối quan hệ kinh tế chính trị hữu nghị với các quốc gia và
vùng lãnh thổ.
Trong quá trình mở cửa và hội nhập, đầu tư nước ngoài, cùng với nhưng kênh
khác, đã góp phần quan trọng trong việc tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc
tế theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa, thúc đầy Việt Nam chủ động hội nhập
kinh tế khu vực và KTTG. Đến nay, Việt Nam đã chinshh thức là thành viên của tổ
chức quốc tế như ASEAN, APEC, ASEM, WTO,… đồng thời tham gia ký kết 56
hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư.
Rõ ràng, cùng với sự lớn mạnh của khu vực FDI đồng thời thông qua tiếng nói
và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài , vị thế và ảnh hưởng của Việt Nam
không ngừng được cải thiện.
CHƯƠNG 2: THU HÚT FDI VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở
VIỆT NAM.
2.1. Thực trạng thu hút FDI tại Việt Nam năm 2011.
FDI có tác động tới nền kinh tế Việt Nam
Số vốn đăng ký cấp mới trong 6 tháng đầu 2011 đạt trên 4,3 tỷ USD bằng
50% cùng kỳ năm 2010, nếu kể cả số vốn tăng thêm từ các doanh nghiệp có vốn FDI
hiện có, 6 tháng qua đạt 51,9% cùng kỳ trước đó. Điều này cho thấy mức giảm đáng
kể của dòng vốn FDI mới khi chảy vào Việt Nam trong 6 tháng đầu năm.
Về cơ cấu thu hút vốn đầu tư mới (cấp mới và tăng thêm), theo kết quả thu hút
vào một số ngành chính (bảng 1) cho thấy lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo
vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong thu hút FDI mới, đầu tư vào kinh doanh bất động sản
đứng ở vị trí thứ tư với 5,3%, nếu cộng cả lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống gắn
chặt với kinh doanh bất động sản (6,2%) đạt 11,5% sẽ ở vị trí thứ hai. Trong khi đó
phân ngành lớn là nông lâm nghiệp, thủy sản vẫn ở vị trí thấp nhất (theo kết quả
thống kê nhiều năm qua so với ba phân ngành chính công nghiệp và xây dựng; dịch
vụ; nông lâm ngư nghiệp) chỉ chiếm 1,2%.
Bảng 1: Số vốn FDI đăng ký mới 6 tháng đầu năm 2011
(Đơn vị: Triệu USD)

TT

Ngành

Số vốn

% so với tổng vốn

1 Công nghiệp chế biến, chế tạo

3,33

58,8

2 Xây dựng

0,47

8,3

7


3 Dịch vụ lưu trú và ăn uống

0,35

6,2

4 Kinh doanh bất động sản


0,30

5,3

5 Nông, lâm nghiệp, thủy sản

0,07

1,2

6 Dịch vụ khác

0,6

Tổng vốn

5,66

100

Nguồn: Cục ĐTNN – Bộ KH&ĐT
Như vậy đầu tư vào kinh doanh bất động sản cho thấy không còn “nóng” như
hai – ba năm trước. Tình hình này phản ánh một phần sự trầm lắng của thị trường
bất động sản trong thời gian gần đây.
Bảng 2: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2011 theo hình thức
(tính từ 01/01/2011 đến 22/06/2011)
Hình thức đầu tư

Vốn đăng ký cấp

Số dự án cấp mới mới và tăng thêm
(triệu USD)

1

100% vốn nước ngoài

361

4,555.47

2

Liên doanh

92

1,096.53

3

Cổ phần

2

14.67

Tổng số

455


5,666.67

TT

Nguồn: Cục ĐTNN – Bộ KH&ĐT
Về hình thức đầu tư (bảng 2), cũng phản ánh một thực tế hiện nay trong thu
hút FDI, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn lựa chọn chủ yếu hình thức đầu tư 100%
vốn của nhà đầu tư nước ngoài, tỷ lệ đầu tư thành lập công ty liên doanh – có sự hợp
tác, liên kết trực tiếp giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài
vẫn còn rất thấp, đó là chưa kể đến các hình thức, phương thức đầu tư khác tuy đã
được luật đầu tư 2005 cho phép thực hiện như thành lập công ty cổ phần, mua lại và
sát nhập (M&A), và gần đây khuyến khích phương thức đầu tư nhà nước và tư nhân
(PPP) cho các dự án cơ sở hạ tầng.
Số liệu cập nhật tính đến ngày 20/11/2011 theo thống kê của Bộ KH&ĐT,
Việt Nam đã thu hút gần 12,7 tỷ USD vốn FDI, bằng 83,8% cùng kỳ năm ngoái.
Trong đó, vốn đăng ký mới 9,9 tỷ USD của 919 dự án được cấp phép mới và vốn
đăng ký bổ sung gần 2,8 tỷ USD.
Trong các ngành kinh tế thu hút vốn FDI, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
có số vốn đăng ký lớn nhất với 6,2 tỷ USD, ngành sản xuất và phân phối điện, khí
đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí 2,5 tỷ USD, ngành xây dựng 1,1 tỷ
8


USD. Trong 11 tháng qua, có 48 tỉnh, thành phố có dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài được cấp phép
2.2. FDI với vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam.
Phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội
công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các
thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau

thực hiện nhằm mục đích dung hòa ba lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường.
Nguồn vốn FDI cũng cần thiết phải hướng đến sự tăng trưởng bền vững của
nền kinh tế, cụ thể là phải đáp ứng các yêu cầu:
- Lợi ích kinh tế: Nguồn vốn FDI một khi được tiến hành đầu tư thì phải đảm
bảo lợi ích cho cả nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Đối với nước đầu tư khi tiến
hành đầu tư phải nhận được các lợi ích kinh tế như nguồn lao động và nguyên vật liệu
rẻ hơn, tạo ra được lợi nhuận trong quá trình đầu tư. Đối với nước tiếp nhận đầu tư phải
đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và bền vững, phát triển sản xuất theo hướng
thân thiện môi trường, công nghiệp hóa, phát triển nông nghiệp - nông thôn bền vững,
phát triển công nghiệp sạch.
- Lợi ích xã hội: thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm các mục tiêu tiến bộ
và công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng
cao chất lượng giáo dục, nâng cao dân trí, trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức
khỏe…Bảo vệ môi trường, xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất
lượng môi trường, phòng chống cháy và chặt phá rừng, khai thác tài nguyên bừa bãi.
Hơn hai thập niên chuyển hướng theo kinh tế thị trường, phát triển bền vững
trở thành vấn đề có tầm quan trọng to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa đất
nước, là định hướng đối với đầu tư, trong đó có đầu tư nước ngoài.
* Tiếp cận mới về FDI trong phát triển bền vững
Nếu như thương mại chú trọng vào biến động thị trường hàng tháng, hàng
quý, thì đầu tư là hoạt động có tính dài hạn. Đầu tư vào lâm nghiệp, khai khoáng
phải mất 10 năm mới có lãi, xây dựng đường sắt cao tốc Bắc-Nam cần vài chục năm
và cũng thêm chừng ấy thời gian mới bắt đầu có lãi, đầu tư xây dựng một ngành
công nghiệp khoảng vài ba thập niên, những dự án công nghệ cao cũng cần 5-6 năm
mới hoạt động ổn định. Do vậy, các quốc gia cần có chính sách đầu tư dài hạn
hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
Những thành tựu kinh tế-xã hội của nước ta trong hai thập niên gần đây có
nhiều nguyên nhân, trong đó đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài là các yếu tố
quyết định.
Thời kỳ 2001- 2005, tỷ trọng FDI trong vốn đầu tư xã hội là 16%, năm 2006

và 2007 là 25%, năm 2008 là 30% và năm 2009 là 25,9%. Các doanh nghiệp FDI
9


đóng góp vào GDP thời kỳ 2001-2005 là 14,5%, tăng lên 16,98% năm 2006, 17,96%
năm 2007, 18,43% năm 2008 và 18,33% năm 2009.
FDI tạo thêm hàng triệu việc làm với thu nhập ngày càng tăng của người lao
động, du nhập công nghệ mới, ngành nghề mới, dịch vụ chất lượng cao, phương
thức kinh doanh, quản lý tiên tiến. Tuy vậy, đã xảy ra các vụ tranh chấp giữa chủ và
thợ về tiền công không tăng tương ứng với cường độ lao động và chỉ số tăng giá,
điều kiện lao động không tốt, an toàn lao động không bảo đảm, tăng giờ làm vượt
quá quy định của luật pháp, cá biệt là cách ứng xử của một số chủ doanh nghiệp FDI
thiếu tôn trọng người lao động. Cũng đã xảy ra những vụ vi phạm nghiêm trọng
pháp luật về bảo vệ môi trường.
Chuyển sang giai đoạn mới, cần có cách tiếp cận thích hợp đối với FDI. Việt
Nam tiếp tục khuyến khích FDI với việc bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư
bằng luật pháp phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng đã đến lúc cần thực hiện có
hiệu năng quyền điều tiết của Nhà nước, đại diện cho lợi ích quốc gia.
Quan trọng nhất là Nhà nước phải có chiến lược thu hút FDI theo hướng phát
triển bền vững, vừa coi trọng lượng vốn FDI tăng lên hàng năm, vừa coi trọng chất
lượng dự án FDI bảo đảm phù hợp với định hướng phát triển đất nước trong từng
giai đoạn.
Tháng 7/2010, Hội nghị thương mại và phát triển của Liên hiệp quốc
(UNCTAD) công bố “Báo cáo đầu tư nước ngoài năm 2010” với thông điệp “Đầu tư
để có nền kinh tế ít các bon”, bởi vì nhân loại đang đứng trước thảm họa khó lường
về tình trạng trái đất nóng dần lên làm biến đổi khí hậu, gây ra hạn hán, bão tố, lũ lụt
đe dọa tăng trưởng kinh tế và tính mạng của hàng trăm triệu người trên hành tinh của
chúng ta. Thông điệp đó phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của nước ta trong
thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, đã được thể hiện tại các văn bản của Chính phủ:
“Định hướng phát triển bền vững” và “Chiến lược phát triển sạch hơn trong công

nghiệp đến năm 2020”.
* Bốn định hướng chính cho dòng FDI
Chiến lược mới về FDI cần hình thành theo bốn định hướng lớn:
1) Chất lượng và hiệu quả cao ;
2) Phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế ít các bon;
3) Có sự cam kết về chuyển giao công nghệ thích hợp với từng ngành, từng dự
án;
4) Lao động có kỹ năng cao.
Chất lượng và hiệu quả của các dự án FDI cần được xem xét dưới giác độ phù
hợp với mục tiêu của Chiến lược kinh tế-xã hội của cả nước, của từng ngành, vùng
10


lãnh thổ và địa phương, phải được các cơ quan có thẩm quyền cấp phép coi là tiêu
chí hàng đầu khi thẩm định dự án đầu tư.
Những vấn đề liên quan đến chất lượng và hiệu quả luôn phải được đặt ra khi
thẩm định:
1) Dự án FDI có phù hợp với quy hoạch ngành, định hướng phát triển của
vùng lãnh thổ và của địa phương?
2) Đưa lại lợi ích gì cho địa phương như thu ngân sách, chuyển giao công
nghệ, hình thành đội ngũ lao động có kỹ năng cao?
3) Có làm tổn hại đến môi trường sinh thái, ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống
của cộng đồng dân cư?
4) Có nên dành cho doanh nghiệp trong nước để hình thành đội ngũ doanh
nghiệp dân tộc hùng mạnh(?).
Về nguyên tắc, FDI không phải là bắt buộc đối với một quốc gia. Chính phủ
các nước có quyền lựa chọn dự án và đối tác đầu tư một cách chủ động, từ chối cấp
phép những dự án FDI không bảo đảm tiêu chuẩn lao động, tiền lương, không phù
hợp với lợi ích cộng đồng, không bảo đảm an toàn toàn lao động, gây ô nhiễm môi
trường, khai thác tài nguyên để xuất khẩu chứ không phải để chế biến làm gia tăng

giá trị sản phẩm, dự án trồng rừng có liên quan đến an ninh quốc gia ở các vùng biên
giới.
Nhà nước đề ra định hướng thu hút FDI đối với ngành, lĩnh vực theo hướng
phát triển bền vững, khuyến khích với các ưu đãi cao nhất đối với những dự án thân
thiện môi trường, như năng lượng tái tạo, năng lượng mặt trời, điện gió, xây dựng
tòa cao ốc xanh và tiết kiệm năng lượng, công nghiệp hiện đại ít gây ô nhiễm môi
trường, dịch vụ có chất lượng cao, tạo ra phương thức sản xuất và kinh doanh mới.
Phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế ít các bon đòi hỏi khắt khe hơn đối
với FDI, bởi vì đã có hiện tượng một số nước lớn có ý đồ và trên thực tế đang tiến
hành nhiều dự án khai thác tài nguyên, di dời sang Việt Nam các ngành công nghiệp
không thân thiện với môi trường và phát thải nhiều khí các bon; nếu không cảnh giác
thì “lợi bất cập hại”, khó lường trước hậu quả tiêu cực.
Vấn đề đó có liên quan đến việc chủ động lựa chọn dự án FDI của các cơ quan
nhà nước địa phương, không thể dễ dãi, tùy tiện, cả tin vào “những bánh vẽ” của một
số nhà đầu tư, mà phải trên căn bản lợi ích lâu dài của đất nước. Bởi vì, nếu các nhà
đầu tư quốc tế có quyền lựa chọn địa điểm và nước để thực hiện dự án, thì nước chủ
nhà có quyền cho phép hoặc từ chối những dự án không có lợi cho cộng đồng dân
cư. Việc thực hiện cam kết mở cữa thị trường, thực hiện nguyên tắc “Đối xử quốc
gia” trong các hiệp định quốc tế không làm mất đi chủ quyền của nước ta; hơn nữa
từ khi hội nhập với thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã chịu khá nhiều
11


thua thiệt trong đầu tư và buôn bán quốc tế, khi các nước dùng luật pháp để bảo vệ
lợi ích doanh nghiệp của họ.
Do đó, khi thẩm định dự án công nghiệp cần đòi hỏi nhà đầu tư phải bảo đảm
các tiêu chuẩn môi trường, có đủ kinh phí đầu tư hệ thống xử lý chất thải, có công
nghệ để phát thải ít khí các bon nhất theo mức tiên tiến của thế giới. Những số liệu
sau đây cho thấy tầm quan trọng của công nghệ: Nếu ứng dụng công nghệ mới thì
sản xuất thép có thể tiết kiệm được 40% năng lượng và giảm phát thải 50% khí các

bon; những con số tương ứng với xi măng là 35% và 25%, với giấy in và bột giấy là
80% và 60%.
Năng lượng là tác nhân chính của hiệu ứng nhà kính, nước ta có tốc độ tăng
tiêu thụ điện năng hàng năm khá cao 14-15%; Chương trình năng lượng của Chính
phủ đề ra mục tiêu tiết kiệm 3-5% tổng mức tiêu thụ năng lượng trong giai đoạn
2006-2010 và 5-8% thời kỳ 2011-2015. Do vậy, khi cấp phép các dự án FDI cần đòi
hỏi khắt khe công nghệ giảm thiểu phát thải khí các bon, đối với các nhà máy đang
hoạt động cần yêu cầu họ có lịch trình cam kết ứng dụng công nghệ mới giảm thiểu
phát thải khí các bon. Các tòa nhà do nhà đầu tư nước ngoài xây dựng phải áp dụng
công nghệ mới sử dụng ít năng lượng, tòa nhà xanh, thân thiện với môi trường.
Cũng cần có chính sách khuyến khích mạnh mẽ hơn đối với các dự án năng
lượng tái tạo, thay thế từ các nguồn rác thải, điện mặt trời, điện gió, bởi vì suất đầu
tư vào những dự án này khá cao, giá thành vượt nhiều lần giá điện thương phẩm hiện
nay, do vậy theo kinh nghiệm quốc tế, chỉ khi nào có sự hỗ trợ ban đầu của nhà nước
và bằng cơ chế cạnh tranh, thông qua đấu thầu minh bạch thì mới có thể phát triển
nhanh các nguồn năng lượng mới.
Thực tế của việc chuyển giao công nghệ trong FDI cho thấy rằng, đã có những
ngành kinh tế nước ta nhờ biết học hỏi, đào tạo đội ngũ cán bộ nên đã tiếp thu và
chuyển hóa công nghệ thích ứng với tình hình phát triển đất nước, vươn lên trình độ
tiên tiến trong khu vực, tiếp cận được trình độ quốc tế. Điển hình là ngành viễn
thông, từ khi còn cấm vận quốc tế đối với nước ta đã biết khai thác tốt việc hợp tác
với Teltra (Australia), có cơ chế cạnh tranh với sự ra đời của nhiều doanh nghiệp
như Viettel và các nhà cung cấp khác nên đã tiến bộ vượt bậc về công nghệ và thị
trường. Trong tình hình mới, các cam kết về chuyển giao công nghệ cần được coi
trọng hơn trong khi thẩm định dự án FDI, bởi vì mặc dù vốn đầu tư vẫn là một mục
tiêu quan trọng thu hút FDI, nhưng để có chuyển biến về chất trong quá trình công
nghiệp hóa thì công nghệ phải được ưu tiên.
Việc chuyển nhanh từ lợi thế về lao động phổ thông sang lao động có kỹ năng
để thích ứng với giai đoạn mới của sự phát triển vừa đạt được đồng thời hai mục
tiêu: một là, những ngành nghề sử dụng nhiều lao động phổ thông dành ưu tiên cho

các doanh nghiệp trong nước, nhất là dịch vụ là lĩnh vực đòi hỏi ít vốn đầu tư nhưng
12


giải quyết được nhiều lao động; hai là, những ngành cần lao động có kỹ năng như
công nghệ và dịch vụ cao thì thu hút FDI với cam kết về đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực, để hình thành đội ngũ các nhà quản lý, kỹ sư, công nhân kỹ thuật ngang
tầm khu vực và tiếp cận tầm quốc tế, như cách mà Thái Lan đã làm, nên đã có những
người Thái đảm nhiệm các chức vụ cao trong một số tổ chức quốc tế như Tổng giám
đốc WTO.
Đầu tư trong lĩnh vực giáo dục khác với trong công nghiệp và dịch vụ, đòi hỏi
phải có chính sách ưu đãi thích ứng với đặc thù của đào tạo nguồn nhân lực, các hình
thức hợp tác cũng cần được lựa chọn tùy thuộc vào đối tác bên ngoài và cơ sở đào
tạo trong nước. Việc đẩy nhanh hợp tác quốc tế để nâng cao trình độ của các trường
đại học, cao đẳng, dạy nghề ở nước ta đòi hỏi phải khảo sát cả mô hình thành công
và thất bại, tổng kết thực tiễn nghiêm túc mới có thể tìm ra phương thức, cơ chế hợp
tác và giải pháp thích hợp.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GỢI Ý THU HÚT FDI CHO SỰ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG TẠI VIỆT NAM.
3.1. Định hướng phát triển bền vững trong giai đoạn tới của Việt Nam
Về kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế:
chuyển đổi mô hình từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển hài hòa giữa chiều
rộng và chiều sâu. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để bảo đảm đạt
tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Hơn thế, sẽ định hướng phát triển kinh tế xanh;
nghiên cứu thực hiện mô hình tăng trưởng cacbon thấp. Khuyến khích sản xuất và
tiêu dùng bền vững, kết hợp các công cụ và biện pháp kinh tế, tài chính, tuyên
truyền, tư vấn, hướng dẫn để hình thành lối sống thân thiện với môi trường, tiêu
dùng bền vững, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Một nhiệm vụ quan trọng khác là cải tiến cơ cấu ngành nghề theo hướng hiện
đại, công nghệ cao, sạch, tiêu tốn ít năng lượng. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa

học, đổi mới công nghệ trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp.
Về xã hội, gắn giảm nghèo với đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển, coi chính
sách giảm nghèo không chỉ nhằm thực hiện mục tiêu ổn định, mà còn là động lực
của sự phát triển và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội. Bảo đảm cung cấp dịch y tế
công bằng, hiệu quả và có chất lượng. Thực hiện tốt các chính sách dân số, kế hoạch
hóa gia đình.
Nhiệm vụ quan trọng khác là tạo môi trường thân thiện, an toàn, lành mạnh,
để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và tinh thần. Tổ chức hệ thống
dịch vụ hỗ trợ, bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
13


Bên cạnh đó, phải đảm bảo bình đằng giới trên mọi phương diện của đời sống
xã hội, thu dần khoảng cách giới và xóa dần định kiến về giới; tiếp tục xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của công dân theo quy định của pháp luật.
Một khía cạnh là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện
giáo dục, đào tạo.
Về tài nguyên môi trường, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý
tài nguyên và bảo vệ môi trường. Cải thiện môi trường, phục hồi suy thoái và nâng
cao chất lượng môi trường. Chủ động phòng tránh và hạn chế tác động xấu của thiên
tai, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu. Phải thanh tra, kiểm tra và xử lý
nghiêm các vụ việc vi phạm về khai thác tài nguyên đất, nước, không khí, khoảng
sản, biển và hải đảo và bảo vệ môi trường,… Quản lý, sử dụng và khai thác hợp lý
có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tăng cường công tác bảo vệ và phát
triển rừng.
3.2. Chiến lược thu hút FDI với vấn đề phát triển bền vững tại Việt Nam giai
đoạn 2011-2020:
Trong hơn hai mươi năm qua, Việt Nam đã đưa ra những chính sách đầu tư
khá thoáng, rộng trên mọi lĩnh vực, Tuy nhiên, mỗi chính sách chỉ đúng trong những

thời điểm nhất định của quá trình phát triển đến một lúc nào đó, cũng cần phải thay
dổi cho phù hợp với bối cảnh mới. Chính sách thu hút FDI cũng vậy, đây là lúc cần
thay đổi để phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Trước đây, Việt Nam có những lợi
thế về nguồn lao động dồi dào, mức lương thấp, vị trí địa lý thuận lợi, đất dành cho
phát triển công nghiệp dồi dào. Nhưng nguồn nhân lực và quỹ đất, cả hai yếu tố đó
đều không phải là vô hạn và nếu chúng ta cứ tiếp tục chính sách cũ, tức là nhắm vào
các dự án FDI sử dụng lao động rẻ và chiếm nhiều diện tích đất thì không ổn.
Do đó, định hướng thu hút FDi trong thời gian tới là bắt đầu thu hút có chọn
lọc: chọn lọc về công nghệ, chọn lọc những dự án có đóng góp giá trị gia tăng cao và
những dự án thân thiện với môi trường. Những dự án sử dụng ít nhiên liệu, không sử
dụng nhiều lao động rẻ cũng sẽ được ưu tiên. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu
về tính bền vững trong đầu tư phát triển. Bên cạnh đó, khuyến khích các nhà đầu đi
thành những cụm công nghiệp và dịch vụ phụ trợ đi liền. Khi các doanh nghiệp cùng
lĩnh vực tập trung thành cụm, thì mới nâng cao giá trị gia tăng , đẩy mạnh phát triển
công nghiệp phụ trợ và giảm được thâm hụt cán cân thương mại do phải nhập khẩu
quá nhiều nhiên vật liệu phụ trợ phục vụ sản xuất trong nước. Đồng thời chi phí cho
vận tải hàng hóa cũng rẻ đi, góp phần nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa sản
xuất tại Việt Nam trong bối cảnh chúng ta đang trở thành một mắt xích trong chuỗi
cung ứng toàn cầu. Trong đó, ba điểm cần phải có trong chính sách thu hút FDI
mười năm tới là:
14


- Thứ nhất: tập trung vào nghành công nghiệp của tương lai mà nhiều nước
coi trọng mà Việt Nam có điều kiện phát triển như công nghệ vũ trụ, công nghệ hải
dương, bên cạnh công nghệ thông tin.
-Thứ hai: phải tính lại cơ cấu vùng và các chính sách ưu tiên phù hợp để
không tiếp tục tình trạng duy trì ưu đãi cao nhưng nhà đầu tư không tới do thiếu cơ
sở hạ tầng
-Thứ 3: xác định các lĩnh vực ưu tiên với chuỗi giá trị toàn cầu của các tập

đoàn đa quốc gia
Trong năm 2011, theo Bộ kế hoạch và Đầu tư, công tác thu hút FDI sẽ tập
trung vào chất lượng FDI theo hướng chọn lọc hơn với trọng tâm là thu hút các dự
án cơ sở hạ tầng, dự án sử dụng công nghệ cao, công nghệ sạch và có khả năng tạo
ra các sản phẩm có sức cạnh tranh. Công tác xúc tiến đầu tư cũng được chuyển
hướng theo nguyên tắc bố trí nguồn lực để xúc tiến đầu tư theo chuyên đề, theo
nghành, lĩnh vự, vùng miền; không xúc tiến đầu tư theo địa giới hành chính để đảm
bảo tính liên kết vùng miền, tận dụng tối đa tiềm năng thế mạnh của vùng miền,
giảm thiểu đầu tư theo phong trào, đầu tư theo thành tích.
3.3. Một số giải pháp thu hút FDI với vấn đề phát triển bền vững tại Việt Nam
3.3.1. Hoàn thiện cơ chế chính sách về quản lý FDI bền vững:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường. Cần phải có một hệ
thống quản lý theo ngành dọc thống nhất để có thể quản lý chặt chẽ hơn công tác
bảo vệ môi trường ở từng cơ sở, trong và ngoài khu công nghiệp. Ngoài việc cụ thể
hóa những qui định pháp luật và xem xét tính hợp lý của một số chỉ tiêu về môi
trường, cần nâng cao hiệu lực của Luật Bảo vệ môi trường. Các cơ quan quản lý cần
cung cấp đầy đủ thông tin pháp luật cho các doanh nghiệp FDI, và tư vấn cho doanh
nghiệp về thực thi pháp luật môi trường.
3.3.2. Có cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư FDI bền vững:
Dựa trên một số tiêu chí cơ bản để đánh giá một doanh nghiệp thực hiện giải
pháp môi trường tốt nhất như:
- Vận hành với các chuẩn môi trường cao mang tính toàn cầu.
- Tích cực gắn kết với các đối tác địa phương.
- Chuyển giao kỹ năng và công nghệ thân môi trường tới đối tác tại nước chủ
nhà.
- Đảm bảo để nước chủ nhà nhận được những lợi ích hợp lý trong FDI, đặc
biệt trong các lĩnh vực tài nguyên thiên nhiên.

15



Các cơ quan quản lý FDI cũng như quản lý môi trường cần tham khảo danh
sách hướng dẫn do Tổ chức Quỹ động vật hoang dã thế giới (WWF) xây dựng, nhằm
xác định hành vi thực hiện giải pháp môi trường tốt nhất của doanh nghiệp FDI.
3.3.3. Nâng cao vai trò quản lý của nhà nước và sự tham gia của xã hội:
Trong lĩnh vực FDI bền vững môi trường, vai trò của Chính phủ thường thể
hiện ở hai khía cạnh là tạo lập chính sách và trọng tài trong các xung đột môi trường
giữa hoạt động công nghiệp và người dân nhằm kiểm soát chống ô nhiễm môi trường
và bảo vệ điều kiện sống của con người.
3.3.4. Thúc đẩy, khuyến khích sự tham gia của toàn xã hội trong bảo vệ môi
trường đầu tư:
Kinh nghiệm cho thấy vai trò của cộng đồng và các tổ chức xã hội dân sự có
tầm quan trọng trong việc hài hòa lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường. Theo xu
hướng trên thế giới hiện nay, người tiêu dùng có thể tạo áp lực buộc các doanh
nghiệp FDI phải quan tâm nhiều hơn đến kết quả môi trường của mình. Cộng đồng
dân cư nơi có doanh nghiệp FDI hoạt động có thể tạo sức ép với doanh nghiệp để họ
nâng cao chất lượng môi trường của mình.
3.3.5. Thu phí hoặc thuế các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường: Để xây
dựng một cơ chế phát triển bền vững, nhiều nghiên cứu đã đề nghị phải lồng ghép
chi phí môi trường vào hệ thống tài khoản quốc gia , nghĩa là phải đánh giá bằng tiền
tệ đối với sự suy thoái môi trường như gây ô nhiễm và làm cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên. Khi đối mặt với vấn đề ô nhiễm không khí, nước hoặc đất đai, chính phủ có
một số lựa chọn để cân nhắc nhằm cân bằng giữa nhu cầu có một môi trường sạch
hơn với các chi phí kinh tế của việc làm sạch môi trường.
3.3.6. Quy định giới hạn ô nhiễm:
Trong thời gian tới Việt Nam cần phải thực hiện giải pháp kiểm soát ô nhiễm
dựa trên thị trường bằng cách ban hành hạn ngạch ô nhiễm, quy định lượng khí thải
được thải ra môi trường đối với các doanh nghiệp. Để thực hiện được điều này đòi
hỏi Việt Nam cần có một đội ngũ chuyên gia về môi trường để có thể xác định được
lượng khí thải nào và khối lượng bao nhiêu được phép thải ra môi trường. Bên cạnh

đó là một tổ chức thực sự minh bạch để không xảy ra những tiêu cực trong vấn đề
mua bán, cấp phép hạn ngạch.
3.3.7. Giải pháp trong quy trình đầu tư FDI:
Trong lựa chọn đối tác đầu tư. Cần ưu tiên chọn những đối tác doanh nghiệp
FDI từ những nước phát triển có các chuẩn môi trường cao, nơi có qui định chặt chẽ
về công tác môi trường. Những doanh nghiệp này, ngoài khả năng sử dụng các công
nghệ sạch, thường áp dụng các biện pháp quản lý môi trường tốt hơn, còn có thể gắn
kết chặt chẽ giữa hoạt động FDI và nền kinh tế nước chủ nhà, đặc biệt là thông qua
16


quá trình chuyển giao tri thức và công nghệ sạch cho các nhà thầu phụ địa phương.
Cần thể chế hoá các công cụ kinh tế để khuyến khích doanh nghiệp FDI có thái độ
thân thiện hơn với môi trường, nếu không doanh nghiệp chỉ thực hiện không vi
phạm những qui định về tiêu chuẩn môi trường, mà không cố gắng tìm cách giảm
tổng lượng chất thải và áp dụng các giải pháp phòng ngừa hiệu quả. Trong khâu cấp
phép đầu tư, cần chú ý chỉ cấp phép cho các dự án khai thác tài nguyên thiên nhiên
nào có công nghệ cao, trình độ quản lý tốt và có uy tín, hạn chế tối đa việc cấp phép
cho những dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đầu tư vào Việt
Nam như dự án sản xuất giấy, thép... , những dự án không phù hợp với quy hoạch
phát triển của Việt Nam, tạo dư thừa công suất quá lớn mà khó có triển vọng khai
thác sử dụng. Trong khâu quy hoạch đầu tư, cần phải quy hoạch theo tính toán tăng
trưởng của thu nhập trong nước, sự phát triển FDI để tính ra dung lượng thị trường
cho sản phẩm từ đó đưa ra một số lượng dự án hợp lý.
3.3.8. Giải pháp về xúc tiến đầu tư:
Cần tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm
cung cấp thông tin về môi trường đầu tư, đồng thời tạo cơ hội để trao đổi trực tiếp với
các nhà đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam về môi trường đầu tư của VN.
Để FDI bền vững, chúng ta cần thiết phải có cái nhìn khách quan hơn ở nhiều
góc độ khác nhau đối với hiệu quả của dòng vốn này mang lai cho nền kinh tế đất

nước để từ đó có cách ứng xử phù hợp hơn nhằm đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng
bền vững nền kinh tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
I- Tài liệu:
17


1. Trần Du Lịch, Kinh tế Việt Nam hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, tập san
phát triển bền vững Việt Nam.
2. Phùng Xuân Nhạ (2001), Đầu tư quốc tế, NXB ĐHQG HN.
3. Nguyễn Anh Tuấn, Quan hệ giữa FDI và thương mại quốc tế: Thực tiễn ở một số
nước đang phát triển và Việt Nam, Nghiên cứu kinh tế, số 336, tháng 5/2006, Viện
Kinh tế Việt Nam, tr. 1-11, www.vies. org.vn
4. John Hendra, Duy trì bền vững thành tựu, tập san Phát triển bền vững Việt Nam,
báo đầu tư số T05/2011.
5. Tập san Phát triển bền vững Việt Nam, Báo đầu tư số T05/2011.
II- Website:
/>
/> />
18


19



×