Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tác động của chính sách tiền tệ đối vối sự ổn định nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.79 KB, 11 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ luôn là nhu cầu để ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định
tiền tệ , tạo lập nền tảng cho sự phát triển chnug. Mặt khác, nền kinh tế thị trường bản
chất là một nền kinh tế tiền tệ. do đó việc ổn định giad trị dông tiền cùng với việc thiết
lập nền Tài Chính Quốc Gia mạnh là cơ sở đầu tiên cho việc kiềm chế lạm phát và ổn
định nền kinh tế. chính vì vậy mà thông qua các thao tác của mình, Ngân hàng Trung
ương (NHTW) có thể làm thay đổi tiền tệ trên tất cả các mặt: lưu lượng, chi phí, giá trị…
Toàn bộ các thao tác có liên quan đến tiền của NHTW luôn nằm trong hệ thống những ý
đồ mang tính chiến lược mà người ta gọi là chính sách tiền tệ. Nếu chính sách tài chính
tập trung vào thành phần, kết cấu các mức chi phí, thuế khoá của Nhà nước, thì chính
sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào việc giải quyết khả năng thanh toán cho toàn bộ
nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông,
điều khiển hệ thống tiền tệ và tín dụng đáp ứng vốn cho hoạt động kinh tế, tạo điều kiện
thúc đẩy thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hoạt
động của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tín dụng khác, cùng
với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại,
hướng tới mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định
giá cả hàng hoá.
Nội dung quan trọng nhất của chính sách tiền tệ là việc cung ứng tiền cho nền kinh
tế. Việc cung ứng tiền có thể thông qua con đường tín dụng, cũng có thể thông qua hoạt
động của thị trường mở (mua bán giấy tờ có giá), thị trường hối đoái (mua bán ngoại tệ)
và để điều tiết mức tiền cung ứng, NHTW các nước sử dụng các công cụ khác nhau như
lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc…
Chính vì thế mà chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế là một điều hiển nhiên,
bởi nó được sinh ra là để điều tiết tiền tệ, mà sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế lại
như máu lưu thông trong cơ thể con người. Không khó khăn nếu muốn chứng minh về
vấn đề này, nhất là trong giai đoạn gần đây - chính phản ứng của thị trường đối với
những thay đổi của chính sách tiền tệ sẽ là biểu hiện rõ nhất về những tác động của chính
sách tiền tệ đối với nền kinh tế. Những thông tin hàng ngày, hàng giờ về sự suy giảm và
khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ “đại dịch” về cho vay bất động sản ở Mỹ là minh
chứng rõ nhất cho thấy những tác động từ chính sách tiền tệ không chỉ mang lại sự tăng


trưởng kinh tế mà còn có thể mang lại hiểm họa cho cả thế giới. Tình hình kinh tế Việt
Nam trong thời gian gần đây cũng đang có những dấu hiệu bất ổn, ngoài những nguyên
nhân khách quan, chủ quan; trong nước, ngoài nước thì trong đó, chính sách tiền tệ cũng
đóng một vai trò không kém phần quan trọng.


NỘI DUNG
1. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1 Khái niệm
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi
thảo và thực thi, thông qua các công cụ , biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu :ổn
định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trưởng kinh tế .
Chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng: chính sách tiền tệ mở rộng
(tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh ,giảm thất nghiệp nhưng
lạm phát tăng -chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt
(giảm cung tiền , tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm
lạm phát nhưng thất nghiệp tăng-chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền).
1.2Vị trí chính sách tiền tệ :
Trong hệ thống các công cụ đIều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một
trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông
tiền tệ .Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như
chính sách tài khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối ngoại. Đối với Ngân hàng
trung ương ,việc hoạch định và thực thi chính sách chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản
nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện
có hiệu quả hơn.
1.3 Mục tiêu của chính sách tiền tệ :
1.3.1Ổn định giá trị đồng tiền :
NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước
mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên hai mặt: Sức mua đối nội của đồng
tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước)và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng

tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền
không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được,để
có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
1.3.2 Tăng công ăn việc làm:
Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp có nahr hưởn trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực xã hội , quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thấp
nghiệp của nền kinh tế. để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhanjaj một tỷ lệ


lạm phát tăng.
1.3.3 Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính
sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn
định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với
Chính phủ.
2. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ THÔNG QUA

CÔNG CỤ LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.
Ở Việt Nam, lãi suất được sử dụng như công cụ chính của chính sách tiền tệ, nó là
yếu tố đánh dấu sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường, nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các Ngân hàng sang cơ chế tự hạch toán
kinh doanh.
Trong năm 1997, với mục tiêu góp phần tăng trưởng kinh tế và phù hợp xu hướng
giảm lãi suất, việc quy định trần lãi suất cho vay giảm mạnh, T7/1997 lãi suất cho vay
ngắn hạn giảm từ 1,2% tháng xuống 1% tháng, lãi suất cho vay trung dài hạn giảm từ
1,35% tháng xuống 1,1% tháng ,chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân quy
định là 0,35% tháng(4,2% năm)
Tuy nhiên từ quý IV năm 1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ trong khu vực, đồng USD có xu hướng lên giá và lãi xuất tiền gửi bằng USD ở
mức cao trong khi lãi suất huy động của VND ở mức thấp nên đã có hiện tượng người

gửi tiền rút VND để chuyển sang USD. Nhiều tổ chức kinh tế và dân cư nắm giữ USD
gây khó khăn cho các NHTM và tăng sức ép đối với đồng nội tệ, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn
cho thị trường tiền tệ và việc huy động vốn của các NHTM, đặc biệt là một số NHTM cổ
phần.
Trước tình hình đó, ngày 20/1/1998, thống đốc NHNN ra QĐ số 39/1998 / QĐNHNN1 với nội dung chủ yếu là:
- Đưa ra mức trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng bằng VND:
lãi cho vay ngắn hạn từ 1%-1,2% tháng; lãi suất cho vay trung và dài hạn là 1,1- 1,25%
tháng ; đồng thời xoá bỏ sự chênh lệch về lãi suất giữa 2 khu vực thành thị và nông thôn.


Đó là cơ sở tăng lãi suất huy động vốn VND. Hạn chế rút tiền VND tích trữ USD ,tăng
vốn cho sản xuất kinh doanh.
- Quy định trần lãi suất cho vay bằng USD vẫn giữ nguyên 8,5% năm như trước đây
đồng thời NHNN còn quy định lãi suất tiền gửi tối đa của các pháp nhân tại TCTD nhằm
hạn chế việc quản lí ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi góp phần tăng cường cho việc quản lí
ngoại hối.
- Đến cuối năm, trần lãi suất cho vay bằng USD được điều chỉnh giảm từ 8,5 %
xuống 7,5% năm để phù hợp với cân bằng lãi suất LiBOR, SiBOR hiện hành; đồng thời
góp phần mở rộng cho vay ngoại tệ đối với nền kinh tế.
Nhìn chung việc điều chỉnh lãi suất trong năm 1998 là phù hợp với diễn biến kinh tế
vĩ mô và tỷ giá, nó đã có tác động tích cực đối với việc huy động vốn và cho vay trong
nền kinh tế. Tổng số vốn huy động ở hầu hết các tổ chức tín dụng đều tăng lên điều đó
cho thấy mối tương quan giữa lạm phát và lãi suất tiền gửi được coi là tương đối hợp lý.
Từ đó, quy mô tín dụng cung ứng cho nền kinh tế tăng lên đặc biệt tín dụng bằng VND
có tốc độ tăng cao hơn. Thị trường ngoại tệ ,tỉ giá VND/USD lại trở về trạng thái tương
đối ổn định.
Bước sang năm 1999, nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng chững lại, để phù hợp
với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ và thực hiện giải pháp
kích cầu về đầu tư của chính phủ , NHNN đã 5 lần điều chỉnh trần lãi suất cho vay bằng
VND theo xu hướng giảm: Từ 1,2% tháng (ngắn hạn) và (1,25%tháng -trung dài hạn)

xuống mức thấp nhất là 0,85% tháng (thành thị); 1% tháng (nông thôn); 1,15% tháng
(NHTMCP nông thôn- Quỹ TDND cơ sở ); 0,7% (NH phục vụ người nghèo). Trần lãi
suất cho vay bằng USD là 7,5% năm.
Sự điều chỉnh lãi suất trên là quyết định hết sức kịp thời và phù hợp với diễn biến
của nền kinh tế, kích thích tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh nguy cơ giảm phát đang là
chậm lại tốc độ tăng trưởng.
Năm 2000, lãi suất trong nước có những diễn biến khá phức tạp .Thực hiện chủ
trương kích cầu của chính phủ, lãi suất cho vay bằng VND vẫn tiếp tục được điều chỉnh
theo xu hướng giảm: lãi suất cho vay phổ biến gỉam từ 0,75% tháng xuống 0,70% tháng.
Trong khi đó lãi suất ngoại tệ lại chịu tác động của thị trường tài chính quốc tế, trong


năm 2000, lãi suất thị trường quốc tế liên tục tăng buộc lãi suất ngoại tệ trong nước cũng
phải tăng theo (từ 3,5% năm lên 4,5% năm ), nhiều khi lãi suất VND thấp hơn lãi suất
USD.
Ngày 2/8/2000, NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất: chuyển từ
cơ chế điều hành trần lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản đối với cho vay
bằng VND và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ: Đối
với cho vay VND, lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất cơ bản được công bố hàng
tháng. Hiện nay, lãi suất cơ bản là 0,75% tháng, biên độ cho vay ngắn hạn là 0,3% tháng,
biên độ cho vay trung và dài hạn là 0,5% tháng. Đối với lãi suất cho vay USD, lãi suất
cho vay không vượt quá lãi suất USD trên thị trường liên NH Singapore (SiBOR) kì hạn
3 tháng đôí với cho vay ngắn hạn, kì hạn 6 tháng đối với cho vay trung dài hạn tại thời
điểm cho vay cộng biên độ do thống đốc NHNN quy định (Hiện nay biên độ cho vay
ngắn hạn là 1% năm , biên độ cho vay trung dài hạn là 2,5% năm ). Còn đối với các ngoại
tệ khác do chiếm tỷ trọng nhỏ trong hoạt động tiền gửi TD nên cho phép các TCTD tự
xác định.
Trước ngày 1/6/2002 ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện cơ chế điều hành lãi
suất cơ bản Đồng VN, mức lãi suất cơ bản được công bố trong những tháng đầu năm
2002 là 0,6%/tháng. NHNN cũng đã mạnh dạn thực hiện chính sách tự do hoá lãi suất đối

với ngoại tệ từ tháng 6 năm 2001. Chính sách lãi suất như vậy là phù hợp với thực tiễn
của VN trong qua trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và bám sát với những diễn
biến của thị trường quốc tế.
- Từ ngày 1/6/2002 ngân hàng nhà nước quyết định chuyển sang cơ chế lãi suất ổn
định Đồng VN của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Đây là một sự “cởi trói” cho
các tổ chức tín dụng trong các hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho các tổ chức tín
dụng chủ động trong hoạt động huy động vốn và cho vay đối với khách hàng. Cơ chế mới
đã tạo ra sự sôi động trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các tổ chức tín dụng.
Nếu như với cơ chế lãi suất cơ bản, trong các đầu năm 2002 lãi suất huy động vốn dừng
lại ở mức 0,6%/tháng, lãi suất cho vay bình quân là 0,7%/tháng, thì từ khi áp dụng cơ chế
lãi suất thỏa thuận từ tháng 6 năm 2002 và nhất là trong các tháng 8và 9 năm 2002 lãi
suất huy động vốn cao nhất của các NHTM lên tới 0,7% thậm trí 0,72%/tháng. Mức lãi
suất cao nhất trong vòng gần hai năm qua, không dừng lại ở đó các tháng đầu năm 2003


do nhu cầu vốn vay trên thị trường vẫn cao các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng vẫn tiếp tục cuộc cạnh tranh huy động vốn thông qua các biện pháp nâng lãi suất
huy động. Thực hiện các hình thức khuyến mại rầm rộ và hấp dẫn. Đã xuất hiện diễn biến
bất thường trên thị trường tiền tệ Việt Nam là lãi suất nội tệ tăng lên quá cao, trong khi lãi
suất ngoại tệ giảm xuống quá thấp.
Với nội dụng điều hành lãi suất cơ bản như trên cho thấy lãi suất cơ bản được xác
định trên cơ sở lãi suất thị trường với mức độ rủi ro thấp, đảm bảo sự kiểm soát lãi suất
của NHNN, phù hợp thực tiễn Việt Nam, đây là một bước tiến mới, bước đi tiếp theo
trong tiến trình tự do hoá lãi suất.
Như vậy, chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp cùng với việc ổn định tỷ giá
VND/USD trong những năm qua không những góp phần quan trọng trong quá trình ổn
định kinh tế vĩ mô mà còn làm tăng tính hấp dẫn của đồng tiền Việt Nam và lòng tin của
dẫn chúng vào hệ thống ngân hàng, giảm dần tình trạng sử dụng hay cất trữ USD, từng
bước đẩy lùi tình trạng “đô la hoá” ở Việt Nam.
Điều đó chứng tỏ rằng: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển chưa cao,

việc sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam là
hoàn toàn cần thiết và đúng đắn.
Giai đoạn từ 1998 đến 2007, để đạt mục tiêu tăng trưởng - mục tiêu được xếp
hàng đầu trong nhiều năm liền, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng liên tục theo hướng:
lãi suất ổn định (từ 01/12/2005 - 01/02/2008, lãi suất cơ bản luôn giữ ở mức 8,25%/năm),
tỷ giá cũng ổn định nhưng tín dụng thì mở rộng. Trong thời gian 10 năm, từ năm 1998
đến hết năm 2007, bình quân tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng năm khoảng 25%, riêng
năm 2007, con số này đạt kỷ lục (cao nhất trong 10 năm) là 37,8%. Bên cạnh họat động
tín dụng, tiền còn được đưa vào lưu thông qua đường chi tiêu ngân sách, thu mua ngoại
tệ… Vì vậy, đã đẩy tổng phương tiện thanh toán mỗi năm tăng thêm hơn ¼ số tiền của
năm trước (từ 1996 đến hết năm 2007 tổng phương tiện thanh toán tăng thêm bình quân
năm là 26,2%, riêng năm 2007 con số này là 37%) trong khi bình quân mỗi năm GDP chỉ
tăng lên khoảng 7,2% (GDP từ 1997 đến hết năm 2007 tăng bình quân năm là: 7,2%).
Suốt khoảng thời gian dài, khoảng cách giữa tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và
tốc độ tăng GDP luôn ở mức trên dưới 20%, mà trong đó, tốc độ tăng tổng phương tiện
thanh toán luôn ở biên độ cao hơn so với GDP. Qua đó cho thấy, cũng trong suốt thời
gian ấy, rất nhiều tiền đã được đưa vào lưu thông nhưng đã không tạo ra một lượng GDP
tương ứng. Mà có lẽ thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán trong những năm


qua đã trở thành kênh dẫn cho lượng tiền đó và vì thế, cho đến khi hai thị trường này bị
thắt lại, lượng tiền thừa thực sự phát huy tác dụng - nếu không lạm phát mới là hiện
tượng lạ
Hai quý đầu của năm 2008, cùng với những bất ổn trên thị trường tài chính thế
giới, tình hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá cả tăng cao, cộng
với sự dồn tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hoá Việt Nam có
hiện tượng “bốc hoả” về giá.. So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tăng 17,18%, mức
cao nhất so với nhiều năm trở lại đây. Trong đó đáng quan tâm nhất là hai nhóm hàng
lương thực và thực phẩm: lương thực tăng 59,44%, thực phẩm tăng 21,83%, đã góp phần
đẩy chỉ số lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm lên mức 2,86%/tháng. Đến cuối tháng 6,

chỉ số lạm phát tuy có tăng chậm lại nhưng vẫn ở mức cao nhất so với tháng 6 của nhiều
năm trước (2,14%).
Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, ba công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị
trường mở được sử dụng đồng thời cùng với những quy định siết chặt thị trường chứng
khoán, thị trường bất động sản… đã tác động mạnh đến thị trường. Và phản ứng của thị
trường cũng thật mạnh mẽ: các hoạt động cho vay gần như co cụm lại, lãi suất tăng vọt,
luồng tiền gửi trở lên bất ổn, thị trường bất động sản đang ở trong cơn sốt bỗng đóng
băng và trở lên lạnh giá, thị trường vàng như con ngựa bất kham, giá cả hàng hoá thì tăng
vọt… Chính sách tiền tệ bộc lộ thật rõ sức mạnh của nó.
Những dấu mốc đáng ghi nhớ trong việc sử dụng các công cụ để điều hành chính
sách tiền tệ vào những tháng đầu năm 2008:
- Ngày 16/01/2008, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1%. (Quyết định 187/QĐNHNN).
- Ngày 30/01/2008, điều chỉnh tăng các loại lãi suất: Lãi suất cơ bản tăng 0,5%, tái
cấp vốn tăng 1,0%, lãi suất chiết khấu tăng 1,5% (Quyết định 305/QĐ-NHNN).
- Ngày 13/2/2008, thông báo về việc phát hành tín phiếu bắt buộc, thực hiện vào
ngày 17/3, với tổng giá trị tín phiếu phát hành là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi
suất là 7,8%/năm (Quyết định 346/QĐ-NHNN).
Cả ba giải pháp trên đều hướng tới mục tiêu rút bớt tiền trong lưu thông về. Các
giải pháp sau đó cũng không kém phần quyết liệt. Theo Quyết định 305/QĐ-NHNN ngày
30/01/2008, lãi suất cơ bản sau 25 tháng giữ ổn định ở mức 8,25%/năm tăng lên
0,5%/năm, chuyển sang mức 8,75%/năm. Sau hơn 3 tháng thực hiện, đến 19/5/2008, lãi


suất cơ bản vọt lên 12%/năm và chưa đầy 1 tháng sau, ngày 11/6/2008, Quyết định
1317/QĐ-NHNN của NHNN đã nâng thêm 2% đưa lãi suất cơ bản lên mức 14%/năm..
Bảng 1: Những dấu mốc thay đổi lãi suất cơ bản từ tháng 12/2005 - đến tháng
6/2008

Lãi suất


Quyết định

Ngày thực hiện

14%/năm

1317/QĐ-NHNN ngày
10/6/2008

11/06/2008

12%/năm

1099/QĐ-NHNN ngày
16/5/2008

19/05/2008

8.75%/năm

305/QĐ-NHNN ngày
30/1/2008

01/02/2008

8,25%/năm

1746/QĐ-NHNN ngày
1/12/2005


01/12/2005

Trong điều kiện tiền quá nhiều trong lưu thông thì việc sử dụng các công cụ chính
sách tiền tệ để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn đúng xét cả về lý thuyết lẫn thực tiễn.
Sự can thiệp quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy được chính kiến cũng
như sự quyết tâm của toàn hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên,
phải thừa nhận rằng thực sự các NHTM đã phải trải qua những tháng ngày (đặc biệt là
trong tháng 2, tháng 3) cực kỳ khó khăn về thanh khoản và luôn nằm trong tình trạng
“nguy cơ”. Chiến dịch lãi suất của các ngân hàng giai đoạn này đã tạo nên một dấu ấn
khá sâu đậm. Có lẽ mãi sau này người ta cũng không thể quên được cảnh tượng “tháo
chạy” của khách hàng khỏi ngân hàng có lãi suất thấp và dòng người xếp hàng bất chấp
thời gian trước những ngân hàng có lãi suất cao để gửi tiền vào. Chỉ trong khoảng thời
gian vài ngày, có ngân hàng đẩy lãi suất tiền gửi từ 15%/năm lên 19%/năm, lãi suất cho
vay được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm ở hầu hết các ngân hàng. Cũng giai
đoạn này, đã nảy sinh nhiều vấn đề trong việc tìm cách giữ chân người gửi tiền và qua đó
mới thấy khách hàng gửi tiền quan trọng cỡ nào. Lãi suất không chỉ là vấn đề trên thị
trường giữa ngân hàng và khách hàng (thị trường I) mà nó còn diễn ra không kém phần
quyết liệt chính giữa các ngân hàng với nhau (thị trường II).
Sự bình ổn trở lại được bắt đầu vào quý III năm 2008. Những ngày đầu quý III,
nền kinh tế trong nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế giảm dần, thị


trường chứng khoán, thị trường bất động sản vẫn đang trong tình trạng “ngủ đông”, thị
trường tiền tệ thì diễn biến phức tạp, sản xuất kinh doanh thì chật vật bởi lãi suất cao, chi
phí nguyên liệu cũng cao… Tuy nhiên, chỉ số lạm phát tháng 7 được công bố ở mức
1,13% - mức thấp nhất so với các tháng trước - đã làm cho tình hình dịu đi. Và hy vọng
về sự sáng sủa của bức tranh kinh tế đã bắt đầu le lói khi chỉ số lạm phát ngày càng có xu
hướng giảm dần, tháng 8 là 1,56%; đến tháng 9 chỉ còn 0,18%; tháng 10 giá cả bắt đầu có
xu hướng giảm (âm 0,19%); sang tháng 11, chỉ số giá cả giảm với mức độ sâu hơn (âm
0,76%) và tháng 12/2008 - tháng cuối cùng năm 2008, chỉ số giá cả vẫn tiếp tục giảm...

Cuộc chạy đua lãi suất cũng bắt đầu có dấu hiệu chững lại sau một loạt các quyết định
của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
-

Lãi suất cơ bản giảm xuống từ 14%/năm còn 8,5%/năm.

Bảng 2:

-

Lãi suất CB

Quyết định

Ngày thực hiện

8,5%

3161/QĐ-NHNN ngày
19/12/2008

22/12/2008

10%

2948/QĐ-NHNN ngày
03/12/2008

05/12/2008


11%/năm

2808/QĐ--NHNN ngày
20/11/2008

21/11/2008

12%/năm

2559/QĐ-NHNN ngày
3/11/2008

05/11/2008

13.0%/năm

2316/QĐ-NHNN ngày
20/10/2008

21/10/2008

14%/năm

1317/QĐ-NHNN ngày
10/6/2008

11/06/2008

Lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thì lần lượt tăng lên: 3,5%/năm; 5%/năm;
10%/năm, sau đó giảm nhưng với tốc độ giảm chậm.



Bảng 3:

Lãi suất
DTBB

Quyết định

Ngày thực hiện

8,5%/năm

3162/QĐ-NHNN ngày
19/12/2008

22/12/2008

9%/năm

2950/QĐ-NHNN ngày
3/12/2008

5/12/2008

10%/năm

2321/QĐ-NHNN ngày
20/10/2008


21/10/2008

5,0%/năm

2133/QĐ-NHNN ngày
25/9/2008

01/10/2008

3,5%/năm

1907/QĐ-NHNN ngày
29/8/2008

01/9/2008

- Tín phiếu bắt buộc được thanh toán trước hạn (Quyết định 2317 ngày
20/10/2008); biên độ tỷ giá được nới lỏng từ +/- 1% lên +/-2% (Quyết định 1436 ngày
26/6/2008), từ +/- 2% lên +/- 3% (Quyết định 2635 ngày 6/11/2008); giảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc từ 10%/năm xuống còn 8%/năm (Quyết định 2811 ngày 20/11/2008), 8% xuống
còn 6% (Quyết định 2951 ngày 03/12/2008), đến 19/12/2008 còn 5% (Quyết định 3158)
và các loại lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ xuống… Bên cạnh đó, tín
hiệu cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay bất động sản cũng được phát ra…
Tất cả những quyết định trên đều hướng đến việc tăng thêm khả năng cho các
NHTM trong việc mở rộng “hầu bao” cho vay đối với nền kinh tế. Ngay sau đó, mặt bằng
lãi suất mới được thiết lập, các NHTM đồng loạt giảm lãi suất. Ngày 01/12, Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển thiết lập mặt bằng lãi suất mới với mức thấp nhất là 11,4%/năm;
ngày 05/12, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng công bố lãi suất thấp
nhất của mình là 11%/năm; ngày 10/12, NHTM Xuất nhập khẩu Việt Nam giảm lãi suất
cho vay với doanh nghiệp, ngắn hạn còn 13,2%/năm, giảm 1,2%/năm so với cuối tháng

11… Tháng 12/2008, lãi suất cho vay phổ biến ở mức 13-14%/năm. Động thái giảm lãi
suất của các ngân hàng là một giải pháp tích cực cho doanh nghiệp, nhất là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, giúp các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn để duy trì và mở
rộng sản xuất.


Cho đến cuối tháng 12/2008, tình hình kinh tế có dấu hiệu khả quan hơn, hoạt
động ngân hàng đang khởi sắc trở lại, huy động vốn và cho vay đang bắt đầu trở về với
nhịp độ bình thường, lãi suất không còn đóng vai trò gần như tuyệt đối trong việc hướng
dẫn khách hàng có nguồn tiền gửi… Tuy nhiên, hoạt động của các thị trường vẫn trong
tình trạng chưa có dấu hiệu cải thiện, luồng di chuyển tiền tệ trong nền kinh tế đang có
hiện tượng chậm lại, tiến độ cho vay của các ngân hàng cũng như khả năng tiếp cận vốn
vay từ phía các doanh nghiệp tuy đã phần nào được giải tỏa song vẫn là vấn đề nan giải.
Hoạt động tín dụng vẫn còn ở trạng thái cầm chừng, trong 10 tháng đầu năm 2008, tăng
trưởng tín dụng chỉ đạt 19,6%, nếu so với 30% - giới hạn tăng trưởng tín dụng NHNN đặt
ra cho năm 2008 thì hoạt động tín dụng mới chỉ “đi được” 2/3 “quãng đường”. Như vậy,
tỷ lệ 19,6% tăng lên của hoạt động tín dụng trong 10 tháng đầu năm 2008 là một con số
chưa được thỏa mãn. Rõ ràng là dư âm và hậu quả của cuộc chạy đua lãi suất trong
những tháng đầu năm 2008 vẫn còn đó mà khởi động cho nó chính là tác động của các
công cụ chính sách tiền tệ đã được sử dụng.
KẾT LUẬN
Như vậy, chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ của nó có vài trò rất quan trọng
trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Việc sử dụng
các công cụ đó như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của nền kinh tế ở
từng thời điểm cụ thể. Ở Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường thì việc áp dụng các công cụ của CSTT luôn đòi hỏi phải có sự phù hợp, hiệu quả.
Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới việc áp dụng các công cụ điều tiết trực tiếp có
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát và thúc đẩy trưởng kinh tế. Tuy
vậy thời gian gần đây chúng đã bộc lộ rõ những hạn chế khi nền kinh tế bước sang một
giai đoạn phát triển mới. Trong khi đó các công cụ điều chỉnh gián tiếp mới được đưa vào

sử dụng và chưa thực sự phát huy hết, hoặc chưa thể hiện rõ vai trò của nó do nhiều
nguyên nhân gắn với thực lực của nền kinh tế. Từ đó đòi hỏi chúng ta phải có những định
hướng và giải pháp đúng trong việc hoàn thiện các công cụ đó. Để có được điều này, bên
cạnh sự định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cần phải có sự phát triển đồng bộ
về năng lực NHNN, hệ thống NHTM… và nhiều sự phối hợp đồng bộ khác.



×