Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Các hoạt động cơ bản của ngân hàng cổ phần thương mại vietcombank và các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng của ngân hàng vietcombank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.42 KB, 45 trang )

GIỚI THIỆU VỀ VIETCOMBANK
Trụ sở chính:
198 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Telex: 411504/411229 VCB –VT
Tel: 84-4- 9343137
Fax: 84-4-8269067
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trước đây, nay là Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) được thành lập và chính thức đi vào hoạt
động ngày 01/4/1963, với tổ chức tiền thân là Cục Ngoại hối (trực thuộc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam). Là ngân hàng thương mại nhà nước đầu tiên được
Chính phủ lựa chọn thực hiện thí điểm cổ phần hoá, Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam chính thức hoạt động với tư cách là một Ngân hàng TMCP vào ngày
02/6/2008 sau khi thực hiện thành công kế hoạch cổ phần hóa thông qua việc phát
hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Ngày 30/6/2009, cổ phiếu Vietcombank (mã
chứng khoán VCB) chính thức được niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán
TPHCM.
Trải qua 48 năm xây dựng và phát triển, Vietcombank đã có những đóng góp
quan trọng cho sự ổn định và phát triển của kinh tế đất nước, phát huy tốt vai trò
của một ngân hàng đối ngoại chủ lực, phục vụ hiệu quả cho phát triển kinh tế trong
nước, đồng thời tạo những ảnh hưởng quan trọng đối với cộng đồng tài chính khu
vực và toàn cầu. Vietcombank được xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc
biệt của Nhà nước. Vietcombank là một trong những thành viên đầu tiên của Hiệp
hội Ngân hàng Việt Nam và là thành viên của nhiều hiệp hội ngân hàng khác như
Hiệp hội Ngân hàng Châu Á, Hiệp hội Tư vấn Doanh nhân APEC, Câu lạc bộ
Ngân hàng Châu Á Thái Bình Dương…Vietcombank còn có sự hiện diện thương
mại tại nước ngoài thông qua các Văn phòng Đại diện tại Paris, Singapore cùng
với Công ty Tài chính Vinafico tại Hồng Kông và mạng lưới ngân hàng đại lý gồm
hơn 1.200 ngân hàng tại 85 nước và vùng lãnh thổ trên toàn cầu.


Từ một ngân hàng chuyên doanh phục vụ kinh tế đối ngoại, Vietcombank


ngày nay đã trở thành một ngân hàng đa năng hoạt động đa lĩnh vực, cung cấp cho
khách hàng đầy đủ các dịch vụ tài chính hàng đầu trong lĩnh vực thương mại quốc
tế; trong các hoạt động truyền thống như kinh doanh vốn, huy động vốn, tín dụng,
tài trợ dự án…cũng như mảng dịch vụ ngân hàng hiện đại: kinh doanh ngoại tệ và
các công vụ phái sinh, dịch vụ thẻ, ngân hàng điện tử…
Sở hữu hạ tầng kỹ thuật ngân hàng hiện đại, Vietcombank có lợi thế rõ nét
trong việc ứng dụng công nghệ tiên tiến vào xử lý tự động các dịch vụ ngân hàng,
phát triển các sản phẩm, dịch vụ điện tử dựa trên nền tảng công nghệ cao. Các dịch
vụ: VCB Internet Banking, VCB Money, SMS Banking, VCB Cyber Bill Payment,
…đã, đang và sẽ tiếp tục thu hút đông đảo khách hàng bằng sự tiện lợi, nhanh
chóng, an toàn, hiệu quả, dần tạo thói quen thanh toán không dùng tiền mặt (qua
ngân hàng) cho khách hàng.
Song song với việc phát triển, đa dạng hoá các dịch vụ và sản phẩm ngân
hàng, Vietcombank cũng đang tích cực mở rộng hệ thống mạng lưới nhằm đáp ứng
tốt hơn nữa nhu cầu của khách hàng. Sau gần nửa thế kỷ hoạt động trên thị trường,
Vietcombank hiện có khoảng 11.500 cán bộ nhân viên, với gần 400 Chi
nhánh/Phòng Giao dịch/Văn phòng đại diện/Đơn vị thành viên trong và ngoài
nước, gồm Hội sở chính tại Hà Nội, 1 Sở Giao dịch, 74 chi nhánh và gần 300
phòng giao dịch trên toàn quốc, 3 công ty con tại Việt Nam, 2 công ty con tại nước
ngoài, 1 văn phòng đại diện tại Singapore, 4 công ty liên doanh, 2 công ty liên kết.
Bên cạnh đó, Vietcombank còn phát triển một hệ thống Autobank với khoảng
16.300 máy ATM và điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS) trên toàn quốc. Hoạt
động ngân hàng còn được hỗ trợ bởi mạng lưới hơn 1.300 ngân hàng đại lý tại 100
quốc gia và vùng lãnh thổ.
Với bề dày hoạt động và đội ngũ cán bộ có chuyên môn vững vàng, nhạy
bén với môi trường kinh doanh hiện đại, mang tính hội nhập cao…Vietcombank
luôn là sự lựa chọn hàng đầu của các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn và của hơn
5,2 triệu khách hàng cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra, Vietcombank còn



tham gia góp vốn, liên doanh liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước trong
nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau như bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư…
Vietcombank đặt mục tiêu sẽ trở thành tập đoàn tài chính hàng đầu Việt Nam và là
ngân hàng tầm cỡ quốc tế ở khu vực trong thập kỷ tới, hoạt động đa năng, kết hợp
với điều kiện kinh tế thị trường, thực hiện tốt phương châm “Luôn mang đến cho
khách hàng sự thành đạt”.
Bằng trí tuệ và tâm huyết, các thế hệ cán bộ nhân viên Vietcombank đã,
đang và sẽ luôn nỗ lực để Vietcombank xứng đáng với vị thế là “Ngân hàng hàng
đầu vì Việt Nam thịnh vượng”.

Phần I: Cở sở lý thuyết
1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại là 1 tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và tín
dụng với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch
dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế quốc dân.
2. Các hoạt động cơ bản ngân hàng thương mại.
2.1. Hoạt động huy động vốn:
Đây là nghiệp vụ huy động, tạo nguồn vốn kinh doanh cho ngân hàng
thương mại. Hoạt động huy động vốn được phản ánh thông qua cơ cấu nguồn vốn
của ngân hàng thương mại, bao gồm:


- Vốn tiền gửi: (Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm) Đây là nguồn vốn quan trọng nhất trong số vốn thu hút từ bên ngoài của các
ngân hàng thương mại, bao gồm:
Thông qua các nghiệp vụ nhận tiền gửi thường xuyên, ngân hàng đã huy
động được một lượng vốn lớn từ khách hàng. Căn cứ vào thời gian gửi tiền và mục
đích của khách hàng, có thể chia nguồn vốn này thành các bộ phận sau:
+ Tiền gửi không kỳ hạn
Với loại này, người gửi có thể gửi tiền vào và rút ra bất cứ lúc nào có nhu

cầu (nên còn được gọi là tiền gửi có thể rút ra theo yêu cầu – demand deposit).
Khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng trích tiền trên tài khoản để chuyển trả cho
người thụ hưởng, hoặc chuyển số tiền được hưởng vào tài khoản này.
Tiền gửi không kỳ hạn được để trong các tài khoản gọi là tài khoản vãng lai
(current account). Người gửi tiền có thể gửi thêm tiền vào hoặc rút tiền ra khỏi tài
khoản bất kỳ lúc nào. Do tính chất có thể rút ra bất cứ lúc nào nên dạng tiền gửi
này thường chỉ được hưởng lãi suất rất thấp hoặc không được ngân hàng trả lãi
(Các ngân hàng thương mại thậm chí còn yêu cầu duy trì một số dư tối thiểu trên
tài khoản. Trường hợp trong thời gian dài trên tài khoản không có tiền hoặc có số
dư thấp hơn mức tối thiểu quy định thì chủ tài khoản còn phải trả phí duy trì tài
khoản cho ngân hàng) nhưng đổi lại người gửi tiền được sử dụng các dịch vụ
thanh toán qua ngân hàng (phải trả phí dịch vụ thanh toán hay không phải trả phí
tùy thuộc vào quy định của ngân hàng đối với từng loại hình dịch vụ thanh toán).
Mục đích chính của người gửi tiền là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và
thực hiện các khoản thanh toán qua ngân hàng, do vậy, nó còn được gọi là tiền gửi
thanh toán.
Tiền gửi không kỳ hạn có chi phí thấp, bởi vì người gửi tiền sẵn lòng bỏ qua
một số tiền lãi để có một tài sản có tính lỏng cao sử dụng trong các hoạt động
thanh toán mua hàng. Những khoản chi phí của ngân hàng để duy trì loại tiền gửi
thanh toán bao gồm tiền thanh toán lãi và những chi phí trong việc phục vụ thanh
toán trên các tài khoản tiền gửi loại này như: xử lý lưu trữ chứng từ thanh toán,
phí tổn chuyển tiền và chứng từ, cung cấp thông tin…
Để tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn ngân hàng phải đa dạng hóa và thực
hiện tốt các dịch vụ trung gian, thu hút nhiều khách hàng là cá nhân, các doanh
nghiệp lớn. Với quy mô lớn, cơ cấu đa dạng, cơ chế hoán đổi thời gian đáo hạn
của các khoản tiền gửi được thực hiện tốt sẽ làm cho mức dư tiền gửi bình quân
tại ngân hàng luôn cao và ổn định, tạo điều kiện cho ngân hàn có thể sử dụng
lượng tiền này để cho vay mà không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của
ngân hàng.
+ Tiền gửi có kỳ hạn (time deposit)

Các khoản tiền gửi có kỳ hạn được đặc trưng bằng những chứng chỉ tiền gửi
ghi rõ thời gian đáo hạn và số lượng, khách hàng chỉ được rút ra sau một thời


gian nhất định theo kỳ hạn đã được thỏa thuận khi gửi tiền. Tuy nhiên, ngân hàng
có thể giải quyết cho khách hàng rút trước thời hạn khi có yêu cầu, nhưng phải bị
phạt tiền bằng việc chuyển từ mức lãi suất tiền gửi có kỳ hạn sang áp dụng mức lãi
suất không kỳ hạn thấp hơn. Đối với loại tiền gửi có kỳ hạn mục đích của người
gửi tiền là lợi tức, không quan tâm đến việc tận dụng những tiện ích thanh toán do
ngân hàng cung cấp. Vì vậy, để tăng tỷ lệ vốn huy động có kỳ hạn ngân hàng có
thể sử dụng công cụ lãi suất và các chính sách khuyến khích lợi ích vật chất khác
như xổ số hoặc bốc thăm trúng thưởng…. để tạo ra sự quan tâm thu hút khách
hàng, đặc biệt là nhóm khách hàng cá nhân. Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào
thời gian gửi tiền và sự thỏa thuận giữa hai bên về những điều kiện đảm bảo an
toàn trong quan hệ tín dụng, đồng thời được xác định theo nguyên tắc thời gian
càng dài lãi suất càng cao.
Với những đặc tính ổn định của tiền có kỳ hạn, ngân hàng có thể chủ động
kế hoạch hóa việc sử dụng nguồn vốn, tìm kiếm những khoản đầu tư có thời gian
hợp lý và thu lợi nhuận cao.
+ Tiền gửi tiết kiệm (savings deposit)
Là loại tiền gửi để dành của các tầng lớp dân cư, được gửi vào ngân hàng
để được hưởng lãi theo định kỳ. Các mức lãi suất tương uwngs với từng kỳ hạn gửi
được ngân hàng công bố sẵn. Các kỳ hạn thường là 1, 3, 6, 9, 12 tháng hoặc trên
một năm (18, 24 tháng). Hình thức phổ biến của loại tiền gửi này là tiết kiệm có
sổ. Về mặt kỹ thuật, dạng tiền gửi này người gửi tiền được ngân hàng cấp cho một
sổ dùng để gửi tiền vào và rút tiền ra, đồng thời nó còn xác nhận số tiền đã gửi.
Ngân hàng không cung cấp các dịch vụ trung gian thanh toán cho khách hàng gửi
tiền tiết kiệm.
Ở Việt Nam, hình thức gửi tiết kiệm phổ biến là:
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là loại tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền

có thể gửi nhiều lần và rút ra bất cứ lúc nào. Ngân hàng trả lãi cho loại tiền gửi
này nhưng rất thấp
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi tiết kiệm có thời hạn gửi cố
định trước. Loại tiền gửi này cũng tương tự như tiền gửi có kỳ hạn ở các điểm là
không được phép rút trước hạn, được hưởng lãi cao hơn các dạng tiền gửi không
kỳ hạn và không được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Với dạng
tiền gửi này, người gửi chỉ được gửi tiền vào một lần và rút ra một lần cả vốn lẫn
lãi khi đến hạn. Không cho phép bổ sung thêm vào số tiền đã gửi khi chưa hết hạn.
Mỗi lần gửi được coi là một khoản tiền gửi riêng biệt. Mức tối thiểu của mỗi lần
gửi tiền do từng ngân hàng quy định.
Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: thường là hình thức tiết kiệm trung và dài
hạn, người tham gia ngoài việc được ngân hàng trả lãi còn được ngân hàng cấp
tín dụng nhằm mục đích bổ sung thêm vốn để mua sắm các phương tiện phục vụ
nhu cầu tiêu dùng.


Như vậy, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao
dịch. Chúng có cùng tính chất là được hưởng lãi cao và chủ tài khoản không được
phát hành séc.
Lý do phải tách riêng tiền gửi tiết kiệm ra mà không xếp vào hai dạng tiền
gửi trên (tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn) mặc dù tính chất của chúng
rất giống nhau là vì đây là tiền tiết kiệm của các tầng lớp dân cư, là tài sản tích
lũy của quốc gia, được xem là nguồn vốn nội lực của đất nước, cho nên cần có
chính sách ưu tiên bảo vệ. (ví dụ: các NHTW thường buộc các ngân hàng thương
mại khi huy động dạng tiền gửi này thì phải mua bảo hiểm cho chúng, hoặc các
công ty tài chính không được huy động dạng tiền gửi này)
Vốn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nguồn
vốn của ngân hàng thương mại, là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng kinh
doanh. Nó phản ánh bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay. Chính vì vậy
người tao gọi ngân hàng thương mại là ngân hàng tiền gửi.

- Vốn đi vay (Vay của ngân hàng trung ương, vay của các ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng khác, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu)
+ Phát hành các chứng từ có giá
Ngân hàng chủ động phát hành các loại kỳ phiếu ngân hàng để huy động
vốn nhằm thực hiện những dự án đầu tư đã định. Việc huy động vốn dưới hình
thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng được thực hiện theo hai phương thức: phát
hành theo mệnh giá (trả lãi sau, người mua trả tiền theo mệnh giá được ghi trên
bề mặt kỳ phiếu): phát hành bằng hình thức triết khấu (trả lãi trước, người mua sẽ
trả một số tiền bằng mệnh giá trừ đi khoản lãi mà họ được hưởng).
+ Vay của các ngân hàng và các trung gian tài chính khác
Qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng, ngân hàng có thể khai thác các khoản
vốn nhàn rỗi từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác. Hoạt động vay mượn này
nahwfm mục đích điều hòa nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu
chuyển thông suốt liên tục trong hệ thống ngân hàng.
+ Vay của ngân hàng trung ương
Bất kỳ ngân hàng thương mại nào khi được ngân hàng trung ương cấp phép
hoạt động đều được vay vốn tại ngân hàng trung ương trong trường hợp cần bổ
sung vốn khả dụng. Nghiệp vụ vay vốn này được ngân hàng trung ương thực hiện
dưới hình thức phổ biến là tái cấp vốn, bao gồm tái chiết khấu các loại giấy tờ có
giá và cho vay thế chấp. Khoản vay này liên quan đến lượng tiền cung ứng của
ngân hàng trung ương, đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Hiện nay NHNN Việt Nam áp dụng 3 hình thức cấp tín dụng sau:
 Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn
hạn khác
 Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác


Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng. Thường là các hồ sơ tín dụng hỗ trợ
theo yêu cầu của nền kinh tế, như thu mua lương thực, nông sản, dự

trữ vật tư, nguyên liệu, sản xuất hàng hóa xuất khẩu thuộc diện ưu
tiên...
- Vốn khác
 Vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn ủy thác, đầu tư để cho vay theo
các chương trình, dự án xây dựng...
 Vốn hình thành trong quá trình hoạt động của ngân hàng, ví dụ như
trong nghiệp vụ qua lại đồng nghiệp (tiền gửi của các ngân hàng khác để
nhờ thanh toán hộ), trong nghiệp vụ trung gian của ngân hàng (tiền gửi
của khách hàng để đảm bảo thanh toán trong phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ - LC)
 Với những ngân hàng thương mại có các quan hệ quốc tế rộng lớn, có
thể tranh thủ các khoản vốn tín dụng hoặc tiếp nhận từ các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc


2.2. Hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng thương mại,
thực chất đây là quá trình ngân hàng thương mại cho các tổ chức, cá nhân vay vốn.
Hoạt động cho vay rất đa dạng và phong phú. Có thể nêu một số loại hình chủ yếu
sau:
- Cho vay ứng trước: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng thương mại
cung cấp cho người đi vay một khoản tiền nhất định để sử dụng trước. Người đi
vay chỉ phải trả lãi vào lúc hoàn trả nợ gốc.
Cho vay ứng trước có 2 loại:
a/ Cho vay ứng trước có bảo đảm:
 Bảo đảm bằng các động sản: như hàng hóa, tài sản hay chứng từ (cho vay
cầm cố): là cho vay trên cơ sở cầm cố tại ngân hàng các tài sản, có thể là
hiện vật như vật tư hàng hóa, hoặc là giấy tờ như các giấy sở hữu hàng hóa
( B/L, giấy lưu kho, lưu bãi container), các chứng từ thanh toán (bộ chứng từ
liên quan đến người nhập khẩu gồm B/E, chứng từ gửi hàng), chứng từ có

giá (thương phiếu, chứng khoán,..), thậm chí cả vàng, bạc, đá quý, ngoại
tệ,... số tiền cho vay bằng một tỷ lệ phần trăm của giá trị tài sản cầm cố, tỷ lệ
này cao hay thấp là tùy vào quan hệ của ngân hàng và khách hàng, vào uy
tín của khách hàng. Ngân hàng sẽ quản lý tài sản cầm cố trong suốt thời hạn
vay và chỉ hoàn lại khi thu đủ nợ (gốc và lãi). Trong trường hợp người đi
vay không có khả năng trả nợ khi đến hạn, ngân hàng có quyền bán tài sản
cầm cố để thu nợ.
 Bảo đảm bằng bất động sản: như đất đai, nhà cửa (cho vay thế chấp): là cho
vay trên cơ sở nắm giữ các giấy tờ chứng thực quyền sở hữu hợp pháp về bất


động sản đem thế chấp. Số tiền vay được tính theo tỷ lệ phần trăm của giá trị
tài sản thế thấp (nhỏ hơn giá trị của tài sản thế chấp), tỷ lệ này cao hay thấp
phụ thuộc vào quan hệ của ngân hàng và khách hàng và uy tín của khách
hàng. Cho vay thế chấp khác với cho vay cầm cố ở chỗ trong thời hạn vay
người đi vay vẫn được phép sử dụng tài sản thế chấp, ngân hàng chỉ nắm giữ
hồ sơ gốc.
 Bảo đảm bằng sự bảo lãnh của bên thứ 3: (cho vay có bảo lãnh): bên bảo
lãnh lập hồ sơ bảo lãnh tại ngân hàng và cam kết hoàn trả nợ nếu bên đi vay
không có khả năng thanh toán. Ngân hàng cũng có thể đề nghị bên bảo lãnh
phải có tài sản cầm cố hoặc thế chấp tại ngân hàng.
b/ Cho vay ứng trước không có bảo đảm:
Cho vay ứng trước không có đảm bảo: là hình thức cho vay chỉ dựa vào uy
tín của khách hàng với ngân hàng mà không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
sự bảo lãnh. Do vậy, còn gọi là vay tín chấp. Hình thức này được áp dụng với các
khách hàng có uy tín, có quan hệ thường xuyên với ngân hàng hoặc những doanh
nghiệp lớn.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng
Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng và khách hàng thỏa thuận trước số
tiền tối đa (gọi là hạn mức tín dụng) mà khách hàng được vay từ ngân hàng trong

một khoảng thời gian nhất định. Sau khi đã thỏa thuận về hạn mức tín dụng, khách
hàng có thể vay làm nhiều lần trong thời gian thở thuận mà không phải làm đơn
xin vay với điều kiện tổng số tiền của các lần vay không vượt quá hạn mức tín
dụng. Hình thức cho vay này thường áp dụng với khách hàng có nhu cầu vay vốn
thường xuyên.
Trong hợp đồng tín dụng sẽ có một số nội dung cơ bản sau:
+ Hạn mức tín dụng
+ Số vòng quay vốn
+ Tổng doanh số trả nợ trong quý
Khách hàng có thể vay làm nhiều lần nhưng khi có tiền thu bán hàng, người
vay phải nộp toàn bộ số tiền đó vào tài khoản tiền vay để đảm bảo doanh số trả nợ
và vòng quay vốn tín dụng, phần còn lại chuyển về tài khoản tiền gửi để sử dụng.
Lãi vay thường được ngân hàng tính và thu vào ngày cuối của tháng
- Cho vay thấu chi
Cho vay thấu chi: Là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trong đó
ngân hàng cho phép khách hàng chi vượt quá số dư trên tài khoảng tiền gửi thanh
toán trong 1 hạn mức và thời gian nhất định trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng và khách hàng.
Khác với cho vay ứng trước mức tín dụng thỏa thuận cho vay thấu chi chưa
phải là khoản tiền mà ngân hàng cho vay mà chỉ khi nào khách hàng sử dụng (chi
vượt số dư) thì mới được coi là tín dụng cấp phát và đầu tính tiền lãi. Hình thức


này thường áp dụng cho những khách hàng có khả năng tài chính mạnh và có uy
tín.
- Cho vay chiết khấu chứng từ
Cho vay chiết khấu chứng từ: là cho vay dưới hình thức Ngân hàng thương
mại mua lại các thương phiếu chưa đến hạn trả tiền với giá thấp hơn số tiền ghi
trên thương phiếu. Khi đến hạn trả tiền, ngân hàng sẽ đòi toàn bộ số tiền ghi tren
thương phiếu từ người trả tiền thương phiếu. Phần lãi của ngân hàng chính là

khoản chênh lệch giữa giá mua và số tiền ghi trên thương phiếu.
Các chứng từ có giá bao gồm: Các loại tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu do kho
bạc nhà nước, ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại và các tổ chức tài
chính phát hành: các loại sổ tiết kiệm có kỳ hạn, các chứng chỉ tiền gửi, bộ chứng
từ thanh toán.
Các chứng từ trên được chấp nhận chiết khấu nếu thỏa mãn điều kiện: được
phát hành hợp pháp, được bảo toàn mệnh giá, có khả năng chuyển nhượng, không
bị tẩy xóa, còn trong thời hạn thanh toán
Phương thức chiết khâu:
+ Chiết khấu toàn bộ thời gian còn lại của chứng từ có giá là phương thức
mua bán chứng từ có giá theo giá chiết khấu và khách hàng chuyển giao ngay
quyền sở chứng từ có giá đó cho ngân hàng. Khi đến hạn thanh toán, ngân hàng có
quyền thanh toán với người phát hành.
+ Chiết khấu có thời hạn: Là phương thức mua các chứng từ có giá theo thời
hạn và giá chiết khấu đồng thời kèm theo cam kết của khách hàng về mua lại
chứng từ có giá đó vào ngày hết hạn chứng khoán. Nếu hết hạn chiết khấu mà
khách hàng không thực hiện cam kết mua lại chứng từ có giá thì ngân hàng là chủ
sở hữu hợp hợp pháp và hưởng toàn bộ quyền lợi phát sinh từ các chứng từ có giá
đó.
2.3. Hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại
Hoạt động đầu tư là hoạt động NHTM dùng vốn của mình để mua chứng
khoán (các chứng khoán chính phủ và một số chứng khoán công ty) hoặc đầu tư
theo dự án. Ở Việt Nam luật các tổ chức tín dụng còn cho phép các ngân hàng
được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp
hay của các tổ chức tín dụng khác
2.4 Hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng được phát triển mạnh trong điều kiện kinh tế thị trường và đưa
lại nguồn thu đáng kể cho các ngân hàng thương mại. Hoạt động dịch vụ được thực
hiện dưới các hình thức sau:



- Kinh doanh ngoại tệ và vàng: Ngân hàng mua bán ngoại tệ và vàng ở thị
trường trong nước và quốc tế. Lợi nhuận mang lại cho ngân hàng là chênh lệch
giữa giá bán và giá mua.
- Dịch vụ trung gian thanh toán: Dịch vụ này bao gồm thanh toán không
dùng tiền mặt, hoặc thu chi tiền mặt, qua ngân hàng. Đây là một nghiệp vụ truyền
thống, đồng thời được phát triển mạnh trong nền kinh tế thị trường. Thông qua
hoạt động thanh toán, ngân hàng thu được lệ phí, tập trung được nhiều nguồn vốn
và thông qua đó kiểm soát được chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân.
Các hình thức thanh toán:
+ Thanh toán bằng séc
+ Ủy nhiệm thu
+ Ủy nhiệm chi
+ Thanh toán bằng thư tín dụng
+ Thanh toán bằng thẻ
- Dịch vụ bảo lãnh: Bảo lãnh là nghiệp vụ trong đó ngân hàng thương mại
chịu trách nhiệm trả tiền thay cho bên được bảo lãnh, nếu họ không thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ đối với yêu cầu của một đối tác nào đó. Bảo lãnh được thực hiện dưới
nhiều hình thức, như bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh chất lượng và
khối lượng hàng hóa.
- Cung cấp các dịch vụ thông tin, tư vấn:
Ngân hàng thương mại là trung tâm tiền tệ, tín dụng và thanh toán. Hơn nữa,
ngân hàng là tổ chức khá đầy đủ và cập nhật các thông tin về thị trường, giá cả do
vậy nó có thể cung cấp các thông tin theo yêu cầu của khách hàng trong giới hạn
cho phép.
Do có trình độ nghiệp vụ có thông tin, kinh nghiệm nên ngân hàng thương
mại có thể tư vấn cho khách hàng về xây dựng dự án đầu tư, phương án huy động
vốn, phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp…
- Hoạt động ủy thác (ủy thác và nhận ủy thác): Ngân hàng thương mại
được ủy thác, nhận ủy thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động

ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước theo hợp đồng ủy thác đại lý.
3. Chức năng và vai trò của Ngân hàng thương mại
3.1. Chức năng của ngân hàng thương mại
* Chức năng trung gian tín dụng
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng này khi nó đóng vai trò là
cầu nối giữa người có vốn với người cần vốn.
Ngân hàng thương mại đóng vai trò là cầu nối giữa những người có vốn dư
thừa và những người có nhu cầu về vốn thông qua việc huy động khai thác các
khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, ngân hàng hình thành nên


quỹ cho vay cấp tín dụng cho nền kinh tế. Với chức năng này, ngân hàng vừa đóng
vai trò là chủ thể đi vay, vừa đóng vai trò là chủ thể cho vay.
Xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã hội,
ngân hàng thương mại với vai trò là một tổ chức chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín
dụng, nắm bắt tình hình cung cầu về vốn tín dụng sẽ thực hiện tiếp nhận và chuyển
giao vốn một cách có hiệu quả. Thông qua việc thu hút tiền gửi với khối lượng lớn,
ngân hàng có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu vốn tín dụng về khối
lượng và cả thời gian tín dụng.
Chức năng trung gian tín dụng của ngân hàng được mô tả qua sơ đồ sau:
- Tổ chức kinh tế
- Doanh nghiệp
- Tổ chức xã hội
- Hộ gia đình, dân cư…
- Tổ chức kinh tế
- Doanh nghiệp
- Tổ chức xã hội
- Hộ gia đình, dân cư…


NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Huy
Động
Nguồn vốn

Cấp
Tín dụng
Đầu tư vốn

-

-

Với chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể sau:
Huy động các nguồn vốn từ các chủ thể tiết kiệm, có vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế
+ Nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, các tổ
chức xã hội, cá nhân dưới hình thái tiền tệ (nội tệ hoặc ngoại tệ)
+ Nhận tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức và cá nhân
+ Phát hành kỳ phiếu ngân hàng để huy động vốn trong xã hội.
Cấp tín dụng đầu tư đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể trong nền kinh
tế xã hội.
+ Cho vay ngắn hạn , trung và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế cá nhân.
+ Chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá


+ Cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp và các hình thức cấp tín dụng khác.
* Chức năng trung gian thanh toán:
Ngân hàng làm chức năng trung gian thanh toán khi nó thực hiện theo

yêu cầu của khách hàng như trích một khoản tiền trên tài khoản tiền gửi để
thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào một khoản tiền gửi của khách
hàng từ bán hàng hóa hoặc các khoản thu khác.
Ngân hàng thực hiện chức năng trung gian thanh toán làm cho nó trở thành
thủ quỹ cho khách hàn. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản thu, chi trên tài
khoản tiền gửi của khách làm cho ngân hàng thực hiện được vai trò trung gian
thanh toán. Trên thực tế, khi việc than toán trực tiếp giữa các chru thể kinh tế
bằng tiền mặt gặp nhiều hạn chế và rủi ro cao, do phải tập hợp, kiểm tra, vận
chuyển làm cho chi phí thanh toán cao mà lại thiếu chính xác và an toàn, đặc biệt
là khi hai đơn vị này cách xa nhau, điều này tạo nên nhu cầu và gia tăng khối
lượng thanh toán qua ngân hàng.
Chức năng trung gian thanh toán được thể hiện qua biểu đồ sau:
- Người trả tiền
- Người mua hàng
- Tổ chức xã hội
- Cá nhân chuyển tiền
- Người thụ hưởng
- Người bán hàng
- Tổ chức xã hội
- Cá nhân

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Lệnh
trả tiền
Qua tài khoản

Giấy báo có

Trong chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể sau:

- Mở tài khoản tiền gửi giao dịch cho khách hàng: các tổ chức kinh tế, đoàn
thể xã hội, cá nhân có nhu cầu đều có quyền mở tài khoản giao dịch tại bất kỳ một
ngân hàng thương mại nào mà họ cảm thấy thuận tiện. Các ngân hàng thương mại
có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu mở tài khoản giao dịch cho khách hàng khi họ đáp


ứng các yêu cầu theo quy định về việc mở và sử dụng tài khoản giao dịch tại ngân
hàng. Chức năng thanh toán của ngân hàng chỉ được thực hiện thuận lợi khi các
khách hàng tham gia có tài khoản giao dịch tại ngân hàng, do vậy, thủ tục mở tài
khoản phải chặt chẽ nhưng đơn giảm, đảm bảo bí mật, an toàn cho khách hàng.
- Quản lý và cung cấp các phương tiện thanh toán cho khách hàng: thanh
toán qua ngân hàng là phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, nó được thực
hiện qua việc phản ánh trên sở sách ngân hàng. Do đó, các chứng từ dùng làm
căn cứ hạch toán vào sổ sách phải chuẩn xác do ngân hàng cung cấp và kiểm
soát, có như vậy mới đảm bảo cho quá trình thanh toán được nhanh chóng, an
toàn và chính xác. Vì vậy, ngân hàng sẽ thiết kế và cung cấp cho khách hàng các
phương tiện thanh toán khác nhau như: giấy chuyển tiền, ủy nhiệm chi, séc, thư tín
dụng... Những phương tiện này vừa đáp ứng yêu cầu quản lý và kiểm soát chặt
chẽ, đồng thời đáp ứng yêu cầu linh hoạt, tiện lợi và dễ sử dụng.
- Tổ chức và kiểm soát quy trình thanh toán giữa các khách hàng: để đảm
bảo yêu cầu thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn và tiện lợi, ngân hàng
phải tổ chức và kiểm soát quy trình thanh toán giữa các khách hàng. Tùy theo
từng phương thức thanh toán sẽ có những quy trình khác nhau, khách hàng cảm
nhận được những tiện ích và ưu điểm của từng phương thức để lựa chọn cho từng
giao dịch thanh toán thích hợp.
.
* Chức năng tạo tiền
Khi thực hiện hai chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh
toán, ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền ghi sổ (bút tệ) thể hiện trên
tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại

Những hoạt động mà NHTM thực hiện đã tạo nên một cơ chế tạo tiền trong
toàn hệ thống ngân hàng. Trên cơ sở số tiền gửi của khách hàng, ngân hàng dùng
nó để cho vay. Tuy nhiên, số tiền cho vay không dừng lại ở số tiền mặt gửi ban đầu
mà khoản tín dụng do ngân hàng thực hiện đã tạo ra tiền dưới dạng bút tệ. Khi hết
hạn vay, người vay trả nợ ngân hàng, tiền vay rút khỏi lưu thông quay trở lại ngân
hàng. Như vậy, do hoạt động của ngân hàng mà hàng ngày thường xuyên có tiền
bơm vào lưu thông (ngân hàng cho vay) và tiền rút khỏi lưu thông (trả nợ vay ngân
hàng).
Với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thang toán, gnaan hàng
thương mại có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài
khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng thương mại. Đây chính là
một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch.
Từ khoản dự trữ tăng lên ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển
khoản, hệ thống ngân hàng có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp
nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số
mở rộng tiền gửi. Hệ số này, đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố tỷ lệ dự trữ


bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của
công chúng. Phân tích quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại chúng
ta sẽ thấy rõ sự tác động của các yếu tố này.
Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện
thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ
ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHTW phát
hành ra mà còn bao gồm một bộ phần quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân
hàng thương mại tạo ra.
Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu
thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm
tăng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung
ứng.

Các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung,
hỗ trợ cho nhau, tỏng đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất,
tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời, khi ngân hàng thực
hiện tốt chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền lại góp phần làm
tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng hoạt động tín dụng.
3.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
* NHTM góp phần đáp ứng nhu cầu vốn của DN cho hoạt động đầu tư, mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh:
Trong nền kinh tế thị trường, để mở rộng được qui mô sản xuất đòi hỏi
doanh nghiệp phải có một lượng vốn lớn để đổi mới thiết bị và công nghệ lạc hậu,
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại. Trong điều kiện đó, ngân hàng thương
mại một mặt đáp ứng đầy đủ và nhu cầu vốn thiếu hụt, cung cấp dịch vụ thanh toán
và các dịch vụ ngân hàng khác nhau nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện tốt kế
hoạch sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, thông qua cung ứng vốn tín dụng và các dịch vụ ngân hàng nhanh
chóng, thuận tiện đã thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hóa, luân chuyển
vốn, tiết kiệm chi phí và từ đó nâng cao hiệu quả sản suất kinh doanh cho từng
doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
* Ngân hàng thương mại góp phần phân bổ hợp lý các nguồn lực tài chính giữa
các ngành, vùng trong nền kinh tế quốc dân và tạo điều kiện cân đối nền kinh
tế:
Thông qua các nghiệp vụ của mình, NHTM một mặt góp phần hình thành,
duy trì và phát triển nền kinh tế theo một cơ cấu ngành và khu vực nhất định. Mặt
khác, các NHTM góp phần điều chỉnh ngành, khu vực khi xuất hiện sự phát triển
mất cân đối hoặc khi cần có sự thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường.


Khi muốn phát triển hay hạn chế phát triển một ngành hay một lĩnh vực nhất
định nào đó, có thể thông qua hoạt động cho vay của ngân hàng để điều tiết.
* Ngân hàng thương mại tạo ra môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền

tệ của NHTW :
Để thực thi chính sách tiền tệ, Ngân hàng truong ương phải sử dụng các
công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, thị trường mở,... Chính các ngân hàng
thương mại là “môi trường” để ngân hàng trung ương sử dụng các công cụ này.
Nói cụ thể hơn, ngân hàng thương mại còn là tổ chức phải chấp hành những
quy định trong nội dung cả các công cụ chính sách tiền tệ và đóng vai trò cầu nối
trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.
Thông qua các ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương phát hành
thêm hoặc thu hồi bớt tiền từ lưu thông về. cũng thông qua ngân hàng thương mại,
sự biến động lãi suất, tỷ giá hối đoái… của nền kinh tế được phản hồi về ngân
hàng trung ương để ngân hàng trung ương có giải pháp điều tiết thích hợp theo yêu
cầu của chính sách tiền tệ.


Phần II: Các hoạt động cơ bản của ngân hàng cổ phần thương mại
Vietcombank
2.1.Hoạt động tạo lập vốn.
Ban lãnh đạo của VCB đã quán triệt trong toàn hệ thống coi công tác huy
động là một trong những nhiệm vụ tọng tâm hàng dầu và xuyên suốt trong năm.
Kết quả huy động vốn năm 2009: Tổng huy động vốn từ 2 thị trường I và II năm
2009 tăng 17,5 %. Huy động từ nền kinh tế ( thị trường I) đạt 169,457 tỷ quy đồng,
tăng 5,9 % so với 2008. Huy động VND từ KH tăng 18,8 % so với năm tước, huy
động tiền gửi từ dân cư tăng trưởng khá tốt (+34,5 %). Bảng số liệu:
Chỉ tiêu
Tổng tài sản có
Trong đó:
Tiền mặt và tiền gửi tại

Năm 2009
255.496


Năm 2008
222.090

%
15

29.660

34.044

-12.9

NHNN
-

Tiền gửi và cho vay TCTD

47.463

30.377

56.2

-

Chứng khoán kinh doanh
Chứng khoán đầu tư
Cho vay khách hàng
Góp vôn đầu tư dài hạn


6

404

-98.5

33.061

41.905

-21.1

141.621

121.793

25.6

3.741

3152

18.7

khác

Ngân hàng Ngoại thương Việt thương cho biết, tổng nguồn vốn huy động từ
nền kinh tế trong năm 2011 tăng trưởng 17% so với năm 2010, đạt gần 242.300 tỷ
đồng. Trong đó huy động vốn từ dân cư của Vietcombank tăng mạnh ở mức trên

23% so với năm trước, đạt gần 122.000 tỷ đồng.
2.1.1. Vốn chủ sở hữu (vốn điều lệ, vốn bổ sung trong qua trình hoạt
động, các quỹ của các ngân hàng thương mại)
* Về vốn điều lệ và vốn bổ sung trong quá trình hoạt động:
1/4/1963, Ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) được thành lập
với vốn điều lệ hơn 3.955 tỷ đồng. Trải qua thời gian dài hoạt động được cổ phần
hóa từ 2/6/2008 thì vốn điều lệ của VCB đã không ngừng tăng lên. Cụ thể:


Theo báo cáo đã được kiểm toán theo tiêu chuẩn của Việt Nam (VAS), tại
thời điểm 31/12/2006, vốn chủ sở hữu của Vietcombank đạt 11.127 tỷ đồng, trong
đó vốn điều lệ đạt 4.356 tỷ đồng và vốn Nhà nước tại ngân hàng này được xác định
10.978 tỷ đồng. Đến cuối 2006, tổng tài sản của Vietcombank đạt 171.862 tỷ đồng.
Cũng trong năm này, về cơ cấu huy động vốn, hiện Vietcombank có tổng tiền gửi
đạt 102.000 tỷ đồng, tiền vay đạt 5.520 tỷ đồng và phát hành giấy tờ có tổng giá trị
2.139 tỷ đồng. Ngân hàng này đang chiếm 18,2% thị phần huy động vốn toàn
ngành.
Ngày 26/9/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1289/QĐ-TTg phê duyệt phương án cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam (Vietcombank). Cũng theo Quyết định này, cơ quan đại diện chủ sở hữu phần
vốn nhà nước tại NHTMCPNT Việt Nam là Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh
vốn nhà nước. Vốn điều lệ của Ngân hàng là 15 nghìn tỷ đồng Việt Nam.
Theo Giấy phép số 138/GP-NHNN do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
quyết định cấp ngày 23/5/2008 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VietcomBank)
chính thức chuyển sang hoạt động theo cơ chế và mô hình của một ngân hàng
thương mại cổ phần. với vốn điều lệ là 12.100.860.260.000 đồng. Tổng tài sản của
VCB tính đến ngày 31-12-2008 là 221.950 tỷ đồng
Ngày 23/11/2010, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có công văn số
9096/NHNN-TTGSNH thông báo ý kiến của Ngân hàng Nhà nước về việc thay
đổi mức vốn điều lệ Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam

(Vietcombank). Theo đó, Ngân hàng Nhà nước chấp thuận việc Vietcombank tăng
vốn điều lệ từ 13.223.714.520.000 đồng lên 17.587.540.310.000 đồng theo phương
án tăng vốn điều lệ đã được Đại hội đồng cổ đông Vietcombank thông qua ngày
9/11/2010.
Tính đến hết 31/12/2011, tổng tài sản của Vietcombank đạt hơn 369.200 tỷ
đồng, tăng 20,3% và vốn chủ sở hữu đạt gần 29.200 tỷ đồng.
Ngày 22/3/2012, Ngân hàng Nhà nước đã có quyết định về việc sửa đổi giấy
phép thành lập và hoạt động của Vietcombank.Theo đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà


nước đã ký quyết định chấp thuận việc sửa đổi mức vốn điều lệ của Ngân hàng
TMCP Ngoại thương (Vietcombank). lên 23.174.170.760.000 đồng (trên 1 tỷ USD).
Mặt khác để tăng cường sức cạnh tranh và có được nhiều vốn, thì
Vietcombank và Ngân hàng Nhật – Mizuho đã ký thỏa thuận hợp tác chiến lược và
mua - bán cổ phần. Theo đó, Mizuho sẽ đăng ký mua 347,6 triệu cổ phiếu phổ
thông, do Vietcombank phát hành mới với tổng giá trị tương đương 567,3 triệu
USD. Số tiền sẽ được thanh toán trong quý I/2012 và giúp nhà băng này có thêm
khoảng 11.800 tỷ đồng để tăng vốn. Vốn điều lệ hiện tại của Vietcombank là
24.623 tỷ đồng. Sau khi mua cổ phiếu và thực hiện pha loãng, Mizuho sẽ có số cổ
phần tương đương 15% vốn điều lệ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Nhà
băng này cũng sẽ là đối tác chiến lược duy nhất của Vietcombank và được cử một
đại diện tham gia vào hội đồng quản trị. Một chi tiết đáng chú ý trong thương vụ
này là mức giá 34.000 đồng một cổ phần mà 2 bên thỏa thuận cao hơn khá nhiều
so với giá đóng cửa phiên 30/9 của cổ phiếu VCB tại Sở Giao dịch chứng khoán
TP HCM (27.300 đồng một cổ phiếu). Tuy nhiên, lượng mua (15% vốn điều lệ) lại
thấp hơn so với con số tối đa 20% mà Đại hội cổ đông Vietcombank phê duyệt hồi
tháng 4 năm nay.
* Về các quỹ của Ngân hàng thương mại:
Từ 12/1/2006, Vietcombank đã chính thức khai trương Công ty Liên doanh
quản lý Quỹ đầu tư chứng hoán Vietcombank (VBCF) và Quỹ thành viên

Vietcombank 1 (VPF1). Vietcombank cho biết, ngay sau khi được cấp phép thành
lập công ty quản lý quỹ (ngày 2/12/05), VCBF cho ra mắt Quỹ thành viên VPF1.
Đây là một Quỹ thành viên dạng đóng có quy mô 200 tỷ đồng, tương đương với
12.5 triệu USD. Sau VPF1, VCBF dự kiến sẽ tiếp tục huy động vốn từ các nhà đầu
tư nhằm lập các quỹ khác tại Việt Nam, cũng như tại nước ngoài dưới dạng quỹ
thành viên cũng như quỹ công chúng (mutual fund). Trong đó, Quỹ VPF1 vì là quỹ
thành viên nên sẽ không niêm yết trên Thị trường Chứng khoán. Các quỹ tiếp theo
có thể là quỹ công chúng, quỹ nước ngoài, và có thể được niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam và thị trường chứng khoán nước ngoài. VCBF dự định sẽ
đầu tư vào các công ty có lịch sử kinh doanh tốt, có tiềm năng phát triển, được cổ


phần hoá hoặc có kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn hoặc có kế
hoạch niêm yết trên thị trường trong nước và ngoài nước. VCBF dự kiến những
ngành nghề lĩnh vực đầu tư trọng điểm của các Quỹ là Dầu khí, Ngân hàng và Bảo
hiểm, Công nghệ thông tin và Viễn thông …
2.1.2. Vốn tiền gửi
Dưới đây là bảng lãi suất tiền gửi của NH Vietcombank hiện nay:
Kỳ hạn
Tiết kiệm
Không kỳ hạn
7 ngày
14 ngày
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng

36 tháng
48 tháng
60 tháng
Tiền gửi có kỳ hạn
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
36 tháng
48 tháng
60 tháng

VND

EUR

USD

2.40 %
4.00 %
4.00 %
12.00 %
12.00 %
12.00 %
12.00 %
12.00 %
12.00 %

12.00 %
12.00 %
12.00 %
12.00 %

0.05 %

0.10 %

0.30 %
0.40 %
0.50 %
0.50 %
0.50 %
0.50 %
0.50 %
0.50 %
0.50 %
0.50 %

2.00 %
2.00 %
2.00 %
2.00 %
2.00 %
2.00 %
2.00 %
2.00 %
2.00 %
2.00 %


12.00 %
12.00 %
12.00 %
12.00 %
12.00 %
12.00 %
12.00 %
12.00 %
12.00 %
12.00 %

0.30 %
0.40 %
0.50 %
0.50 %
0.50 %
0.50 %
0.50 %
0.50 %
0.50 %
0.50 %

2.00 %
2.00 %
2.00 %
2.00 %
2.00 %
2.00 %
2.00 %

2.00 %
2.00 %
2.00 %

Với mức lãi suất trên Vietcombank luôn mong muốn quý khách hàng khi có
nguồn tiền nhàn rỗi thì hãy gửi tiết kiệm tại Vietcombank để phát huy khả năng
sinh lợi cao nhất cho đồng vốn của mình mà hoàn toàn không có rủi ro. Theo đó,
VCB cam kết tiền gửi tiết kiệm của khách hàng sẽ được đảm bảo an toàn, bí mật,
thủ tục gửi và rút tiền nhanh chóng, tiện lợi, gửi một nơi rút tiền nhiều nơi tại tất
cả các điểm giao dịch của Vietcombank trên toàn quốc. Với số dư nhất định trên sổ
tiết kiệm, khách hàng có thể yêu cầu phát hành thẻ tín dụng quốc tế Vietcombank –
Visa, Vietcombank – MasterCard và Vietcombank – American Express để mua sắm
hàng hoá, dịch vụ tại Việt Nam và nước ngoài với thời hạn trả tiền sau không tính


lãi từ 15 đến 45 ngày. Khách hàng cũng có thể sử dụng sổ tiết kiệm để xác nhận số
dư nhằm mục đích chứng minh khả năng tài chính khi đi du lịch, du học, chữa
bệnh… ở nước ngoài. Số tiền tối thiểu cho mỗi lần gửi tiền là: đối với VNĐ là 100
000 VNĐ, còn đối với ngoại tệ là 10 USD hoặc ngoại tệ khác có giá trị tương
đương.
Để có thể huy động nhiều vốn hơn từ các khách hàng thì Vietcombank đã
không ngừng triển khai các chương trình khuyến mại như là: Chương trình khuyến
mãi chào mừng ngày 30/4 và 1/5/2011; Tiền gửi trực tuyến (từ 5/4/2012); Chương
trình khuyến mại “Quà tặng kim cương” thời gian triển khai từ 26/3/201223/6/2012, với nhiều hình thức tiết kiệm có nhiều ưu đãi cộng giải thưởng hấp dẫn,
đảm bảo thu hút được lượng lớn nguồn vốn từ những người gửi tiết kiệm….
2.1.3. Vốn đi vay
2.1.3.1 Phát hành cổ phiếu
Khi VCB cổ phần hóa thì hình thức cổ phần hóa của Vietcombank giữ
nguyên vốn nhà nước hiện có, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn theo nguyên
tắc Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại

thương Việt Nam (NHTMCPNT) qua nhiều giai đoạn với tỷ lệ vốn Nhà nước giảm
dần nhưng không thấp hơn 51/% vốn điều lệ. Cơ cấu cổ phần phát hành của
NHTMCPNT chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn 1, tổng khối lượng cổ phần phát
hành là 30% vốn điều lệ, trong đó cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược nước
ngoài tối đa không quá 20%. Giai đoạn 2, phát hành và niêm yết quốc tế không
vượt quá 15% vốn điều lệ. Với tôn chỉ Bảo vệ lợi ích và tối đa hóa lựa chọn cho
Khách hàng, Vietcombank và công ty chứng khoán của mình VCBS với đội ngũ
cán bộ nhiều kinh nghiệm trong các ngành hàng, sẵn sàng cung cấp các dịch vụ
trong quá trình phát hành trái phiếu doanh nghiệp:
- Tư vấn phát hành: Tư vấn cho Doanh nghiệp Sản phẩm phát hành phù hợp
(số lượng, mức lãi suất trái phiếu, kỳ hạn trái phiếu, thời điểm phát hành…)
và tư vấn xây dựng phương án phát hành.


- Bảo lãnh phát hành: Là việc cam kết bao tiêu một phần hay toàn bộ lượng
trái phiếu do Doanh nghiệp phát hành trong trường hợp lượng trái phiếu
không bán được hết ra thị trường.
- Bảo lãnh thanh toán: Để tăng tính hấp dẫn của trái phiếu đối với thị trường,
Vietcombank xem xét bảo lãnh cho khả năng hoàn trả nợ trái phiếu của
Khách hàng.
Đồng thời việc thành lập Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương VN theo Quyết định số 27/QĐ-HĐQT ngày 07/01/2002 của Hội
đồng Quản trị Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCBS) , có thể giúp VCB huy
động được lượng vốn lớn thông qua phát hành trái phiếu. VCBS tự hào là một
trong những công ty đầu tiên tham gia trên thị trường chứng khoán Việt Nam và đã
tạo dựng được thương hiệu và uy tín là một trong những công ty dẫn đầu trên thị
trường trong nhiều năm. VCBS được phép thực hiện tất cả các nghiệp vụ chứng
khoán và kinh doanh chứng khoán, bao gồm:
- Môi giới Chứng khoán
- Tư vấn đầu tư Chứng khoán

- Tự doanh
- Lưu ký Chứng khoán
- Bảo lãnh Phát hành
- Tư vấn Tài chính Doanh nghiệp
2.1.3.2 Phát hành trái phiếu
Bên cạnh phương thức huy động vốn từ ngân hàng thương mại và phát hành
cổ phiếu, việc phát hành trái phiếu để huy động vốn được xem là một trong những
công cụ tài chính hữu ích đối với các Doanh nghiệp hiện nay.
Trong tháng 3/2012, VCB vừa công bố tờ trình Đại hội cổ đông về việc phát
hành trái phiếu quốc tế. Việc gia tăng nguồn vốn ngoại tệ trung và dài hạn thông
qua phát hành trái phiếu quốc tế giúp cân đối nguồn vốn cho các khoản tín dụng
ngoại tệ trung và dài hạn đã cho vay cũng như các cam kết giải ngân tín dụng trung
dài hạn ngoại tệ mà VCB đã ký kết với khách hàng. Phát hành trái phiếu quốc tế


cũng góp phần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn ngoại tệ dài hạn bên cạnh
việc vay vốn từ các tổ chức, ngân hàng quốc tế, phát hành trái phiếu ngoại tệ trong
nước. Qua đó, nâng cao uy tín, năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của
VCB. Cùng với đó phát hành TP Quốc tế cũng góp phần đa dạng các hình thức huy
động vốn ngoại tệ dài hạn bên cạnh việc vay vốn từ các tổ chức, ngân hàng quốc
tế. HĐQT đề nghị phát hành trái phiếu quốc tế, cụ thể:
- Khối lượng phát hành tối đa là 1 tỷ USD.
- Kỳ hạn: tối đa 10 năm.
- Ngày phát hành dự kiến trong năm 2012 hoặc thời điểm phù hợp.
- Lãi suất: phù hợp với điều kiện thị trường tại thời điểm phát hành.
2.1.3.3 Vay vốn thông qua một số tổ chức tài chính khác
* Công ty bảo hiểm:
Ngày 30/01/2007, tại Hà Nội, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
(Vietcombank) và Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (Sea Bank) đã cùng ký hợp
đồng với đối tác Cardif (thuộc tập đoàn tài chính quốc tế BNP Paribas) thành lập

Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ Vietcombank – Cardif (Tên tiếng Anh: VCB
Cardif Life Insurance Limited Company). Vốn điều lệ của công ty là 140 tỷ đồng
Việt Nam với sự đóng góp theo tỷ lệ của 3 cổ đông sáng lập bao gồm:
Vietcombank (45%); Cardif (43%) và SeaBank (12%). Công ty TNHH Bảo hiểm
Nhân thọ VCB Cardif hoạt động trên các lĩnh vực: Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ;
Kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn bổ trợ cho bảo hiểm
nhân thọ; Đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất, Giám định tổn thất; Quản lý quỹ và
đầu tư vốn; Lĩnh vực khác liên quan đến bảo hiểm nhân thọ được pháp luật cho
phép.
* Công ty Tài chính:
Năm 1978, VCB thành lập Công ty Tài chính ở Hồng Kông – Vinafico Hong
Kong
2.1.4. Vốn khác


Ngoài các hoạt động huy động vốn trên Vietcombank thì VCB còn thành lập các
công ty góp vốn: góp vốn dài hạn và góp vốn liên kết, phải huy động vốn từ liên
ngân hàng
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) kết
quả

quả

thực

hiện

6

tháng


mới



mức

thấp.

Ông Nguyễn Hòa Bình, Chủ tịch Vietcombank, cho biết, đến đầu tháng
6/2011, tổng tài sản của Vietcombank ước chỉ tăng khoảng 6% so với cuối năm
2010. Năm 2011, Vietcombank đặt chỉ tiêu tăng trưởng huy động là 20%.
Đáng chú ý là huy động vốn tăng trưởng thấp, chỉ khoảng 5%. Từ đầu năm đến
nay, lượng vốn huy động từ dân cư tại ngân hàng này bị giảm sút, cả vốn VND lẫn
ngoại tệ. Do vậy, ông Bình cho biết tăng trưởng huy động của Vietcombank thời
gian qua chủ yếu có từ thị trường liên ngân hàng. Thậm chí, tăng trưởng huy động
của ngân hàng này còn dựa chủ yếu vào thị trường liên ngân hàng.
Đây là một thực tế bất ngờ bởi trước đây, đặc biệt là các năm 2008, 2009 và
cả trong năm 2010 vừa qua, Vietcombank thường hỗ trợ vốn cho các thành viên tại
những kỳ khó khăn thanh khoản trên thị trường liên ngân hàng.
Một số ngân hàng cho biết do năm 2010 quy mô vốn còn nhỏ nên tăng trưởng tín
dụng hạn chế. Năm nay, với chỉ tiêu tăng trưởng 20% thì con số tuyệt đối tăng lên
không

lớn,



sau


nửa

đầu

năm

2011

room

này

đã

gần

đây.

2.3. Hoạt động ngân hàng đầu tư Vietcombank
Ngân hàng thực hiện hoạt động ngân hàng đầu tư dưới hình thức trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua các Công ty có liên quan của Ngân hàng theo qui định của
Pháp luật.
Hoạt động ngân hàng đầu tư bao gồm và không hạn chế ở các loại hình sau:
- Tư vấn tài chính doanh nghiệp và đầu tư chứng khoán;
- Bảo lãnh phát hành chứng khoán;
- Môi giới và tự doanh chứng khoán;
- Quản lý và/hoặc phân phối chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán;


Gần đây, nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, năm 2011 Vietcombank đã chủ

động rà soát và tái cơ cấu cơ cấu lại danh mục đầu tư thông qua việc tập trung
thoái vốn tại 2 đơn vị là Shinhanvina và Ngân hàng Gia Định. Bên cạnh đó,
Vietcombank cũng tăng đầu tư vào một số công ty con và các khoản đầu tư khác.
Theo báo cáo thường niên VCB năm 2011 tính đến 31/12/2011, tổng vốn đầu tư
hợp nhất của Vietcombank (chưa trừ dự phòng) là 2.826 tỷ đồng, chiếm 13,9% vốn
điều lệ và Quỹ dự trữ BSVĐL, bảo đảm tuân thủ các quy định của Pháp luật hiện
hành. Tổng thu nhập từ hoạt động đầu tư năm 2011 đạt 1.003 tỷ đồng, tăng 104,0%
so với năm 2010, vượt 144,0% kế hoạch. Cơ cấu đầu tư đa dạng: lĩnh vực tài chính
ngân hàng và dịch vụ hỗ trợ chiếm tỷ trọng 67,5%, bảo hiểm
12,88%, cho thuê văn phòng bất động sản 12,11%, đầu tư khác 7,51%.
Về hoạt động đầu tư nói chung, Tổng giám đốc Vietcombank cho biết ngân
hàng này hiện đầu tư ra ngoài khoảng 4.600 tỷ đồng, chủ yếu là trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng. Ông Thanh cho biết Vietcombank hiện đầu tư cho một số ngân
hàng cổ phần như Eximbank, SaigonBank, Ngân hàng Quân đội…
Tuy nhiên, để thực hiện yêu cầu của Luật Các tổ chức tín dụng 2010 và các
quy định sắp được áp dụng về việc hạn chế các ngân hàng đầu tư chéo, nhà băng
này đang thực hiện thoái vốn và bán dần cổ phần tại một số nơi kể từ năm 2010.
“Vietcombank sẽ thực hiện việc thoái vốn với tư tưởng là giữ lại các khoản đầu tư
tốt và giảm bớt các khoản đầu tư không tốt bằng. Tuy nhiên, việc này sẽ được
chúng tôi thực hiện từ từ, có lộ trình để không làm ảnh hưởng tới thị trường”, Chủ
tịch Hội đồng quản trị Nguyễn Hòa Bình khẳng định.
Tại Đại hội cổ đông năm 2011, Vietcombank cũng đã thông qua phương án
tăng vốn điều lệ từ mức gần 17.600 tỷ đồng hiện nay lên hơn 24.600 tỷ đồng
(tương đương hơn một tỷ USD) thông qua việc phát hành thêm 211 triệu cổ phiếu.
Ngoài ra, ngân hàng này cũng có thể phát hành riêng lẻ cho các cổ đông chiến lược
nước ngoài (nếu có) tối đa 492,45 triệu cổ phiếu (tương đương tỷ lệ sở hữu khoảng


20%). Năm 2010, Vietcombank đạt lợi nhuận sau thuế 5.650 tỷ đồng, tăng trưởng
3,1%.

2.4. Hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng vietcombank.
2.4.1. Dịch vụ ngân hàng điện tử của Vietcombank
2.4.1.1. Dịch vụ ngân hàng trực tuyến VCB-iB@king
Dịch vụ ngân hàng qua internet VCB-iB@nking được xây dựng nhằm thực
hiện cam kết đem Vietcombank đến với khách hàng mọi lúc mọi nơi
Khách hàng là bất cứ cá nhân nào cĩ tài khoản gửi tiền thanh tốn tại
Vietcombank, và đã đăng ký sử dụng dịch vụ VCB-iB@nking
Đặc điểm của dịch vụ VCB-iB@nking đĩ là chỉ cần một chiếc máy tính cĩ
kết nối internet và mã truy cập do ngân hàng cung cấp,bạn cĩ thể thực hiện các yêu
cầu của mình mọi lúc mọi nơi với tính an tồn và bảo mật cao gồm:
+ Xem biểu phí, lãi suất
+Tra cứu số dư tài khoản và thơng tin chi tiết các dao dich liên quan
+Truy vấn thơng tin các loại thẻ tín dụng , thẻ ghi nợ
+ In các sao kê tài khoản theo thời gian
+ Thanh tốn chuyển khoản bằng VND trong hệ thống của VCB với hạn
mức tối đa là 100.000.000 triệu/ngày, không tính số lần giao dịch
+Chuyển tiền cho các đơn vị hợp tác với VCB như các cơng ty tài
chính, bảo hiểm , chứng khốn với hạn mức thanh tốn lên tới 500.000.000
triệu/ngày
+ Đăng ký và thay đổi yêu cầu sử dụng dịch vụ E-Banking và nhiều
tiện ích gia tăng của ngân hàng
2.4.1.2. Dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động VCB-SMS B@nking
Đây là dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động giúp khách hàng truy vấn
thơng tin ngân hàng bất kỳ lúc nào bằng cách dùng điện thoại di động của mình


×