Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một vài biện pháp dạy tốt phân số lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.1 KB, 12 trang )

I/VÀI BIỆN PHÁP DẠY TỐT CHƯƠNG PHÂN SỐ LỚP 4
II/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
1/ Tầm quan trọng của vấn đề được nghiên cứu:
Trong chương trình Giáo dục Tiểu học hiện nay, môn toán cùng với các
môn học khác trong nhà trường Tiểu học có vai trò góp phần quan trọng
trong việc đào tạo nên những con người phát triển toàn diện.
Toán học là môn khoa học tự nhiên có tính lôgíc và chính xác cao, nó là
chìa khoá mở ra sự phát triển của các bộ môn khoa học khác.
2/ Thực trạng liên quan đến vấn đề:
Tâm lý học hiện đại đã khẳng định trẻ em lứa tuổi tiểu học từ 6-11 tuổi, tư
duy còn mang tính cụ thể, hình tượng.
Đối với nhận thức của học sinh tiểu học nói chung, đa số các em giải toán
có lời văn còn yếu vì nhiều nguyên nhân, trong đó vẫn là: Do đặc điểm tâm
sinh lý lứa tuổi, các em thường vội vàng, hấp tấp, đơn giản hoá vấn đề, nên
đôi khi chưa hiểu kĩ đề bài đã vội vàng làm bài, dẫn đến kết quả nhiều khi bị
sai, thiếu hoặc đúng nhưng chưa đủ.
Quan sát quá trình giải toán của học sinh tiểu học, tôi nhận thấy học sinh có
thể sử dụng nhiều thủ thuật, từ các thủ thuật còn dấu vết của việc mô phỏng
hành động, những thủ thuật có tính chất kinh nghiệm sống đến các thủ thuật
dựa trên việc tái hiện các mẫu đã biết hoặc trên cơ sở vận dụng kiến thức đã
học. Tuy nhiên nhìn chung, do sự chú ý chưa bền vững, khả năng tập trung
tư tưởng vào đích cuối cùng của việc giải còn hạn chế .
3/ Lý do chọn đề tài:
-Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện
nay.
Xuất phát từ mục đích, yêu cầu của chương trình toán lớp 4.Từ những hạn
chế của tâm lý lứa tuổi.Từ tình hình thực tiễn trình độ nhận thức của học
sinh.
Bên cạnh đó cũng còn một nguyên nhân quan trọng nữa là tâm lý lứa tuổi
học sinh tiểu học. Các em không tin tưởng vào bài làm của chính mình.
Thậm chí có khi làm bài đúng rồi nhưng lại bỏ đi. Đây là do các em thiếu cơ


sở lý luận, không tin tưởng vào bản thân mình.
Là giáo viên đứng lớp, tôi luôn trăn trở, suy nghĩ tìm cách đổi mới phương
pháp dạy môn toán.Trong khuôn khổ bài viết có hạn nên tôi chỉ đề cập đến
một vài kinh nghiệm dạy tốt chương phân số lớp 4
Sở dĩ tôi chọn đề tài này vì qua thực tế giảng dạy, với chương trình lớp 4 thì
chương phân số thật khó với học sinh.


4/ Giới hạn nghiên cứu của đề tài:
* Đối tượng nghiên cứu: học sinh lớp 4A. Trường Tiểu học Trịnh Thị Liền
* Phạm vi nghiên cứu: chương phân số lớp 4
III/ Cơ sở lý luận:
Trong mọi nhà trường, đặc biệt là nhà trường tiểu học, việc nâng cao
chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh bao giờ cũng là mọi
quan tâm hàng đầu bao trùm và chi phối mọi hoạt động khác. Trong tất
cả các môn học ở trường tiểu học thì môn toán được coi là trọng tâm với
số lượng tiết tương đối lớn (5 tiết/ tuần). Qua việc học toán, học sinh
bước đầu nắm được kiến thức toán học cơ bản, có cơ sở để học tốt các
môn khác, giúp các em tự tin, luôn luôn vươn tới sự tìm tòi, sáng tạo.
Chương trình toán 4 mới là sự tiếp tục của toán 1.2.3 đã được thực hiện
ở các năm học trước (chương trình SGK mới). Chương trình toán mới đã
có những đổi mới về nội dung để tăng cường thực hành và ứng dụng kiến
thức mới nhằm giúp học sinh học tập tích cực, linh hoạt, sáng tạo theo
năng lực của học sinh.
Để đạt được mục tiêu mà chương trình đề ra, trước hết giáo viên phải
nắm chắc mục tiêu, nội dung, những khả năng có thể khai thác trong từng
bài. Điều quan trọng là giáo viên phải xây dựng những phương pháp dạy
và học giúp học sinh tích cực trong hoạt động học để nắm chắc và vận
dụng thành thạo các nội dung trong từng bài, góp phần phát triển năng
lực tư duy và năng lực thực hành của học sinh.

4. Giớí hạn nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu : Học sinh lớp 4A. Trường tiểu học Trịnh Thị Liền
* Phạm vi nghiên cứu: Chương phân số ở lớp 4
III/ Cơ sở lí luận
Trong mọi nhà trường, đặc biệt là nhà trường tiểu học, việc nâng cao
chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh bao giờ cũng là mọi


quan tâm hàng đầu bao trùm và chi phối mọi hoạt động khác. Trong tất
cả các môn học ở trường tiểu học thì môn toán được coi là trọng tâm với
số lượng tiết tương đối lớn (5 tiết/ tuần). Qua việc học toán, học sinh
bước đầu nắm được kiến thức toán học cơ bản, có cơ sở để học tốt các
môn khác, giúp các em tự tin, luôn luôn vươn tới sự tìm tòi, sáng tạo.
Chương trình toán 4 mới là sự tiếp tục của toán 1.2.3 đã được thực hiện
ở các năm học trước (chương trình SGK mới). Chương trình toán mới đã
có những đổi mới về nội dung để tăng cường thực hành và ứng dụng kiến
thức mới nhằm giúp học sinh học tập tích cực, linh hoạt, sáng tạo theo
năng lực của học sinh.
IV/ Cơ sở thực tiễn:
Qua thực tế giảng dạy , với chương trình toán lớp 4 thì việc học tốt phần
phân số quả là khó khăn với học sinh. Khó khăn lớn nhất phải kể đến là
phương pháp học tập và làm việc khoa học, sáng tạo nên kết quả học tập do
khó khăn gây ra bị hạn chế .
V/ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1/ Phương pháp dạy học bài mới.
mới.
Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động học tập để giúp học
sinh: Khắc phục sự kém khái quát, sự cứng nhắc của tư duy. Dựa vào tính
trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh, giáo viên cần triển khai các hoạt
động mang tính chất thực tiễn, học sinh phải được thao tác trên đồ dùng trực

quan. Từ đó, các em sẽ tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học.
VD: Khi dạy bài “So sánh 2 phân số cùng mẫu số”
Nhiệm vụ của bài là học sinh phải xét xem 2 phân số đó có bằng nhau
hay không và nếu không bằng nhau thì phân số nào bé hơn, phân số nào lớn
hơn.
Khi dạy bài này, tôi cho học sinh cắt 2 hình tròn bằng nhau. Mỗi hình
tròn lại chia thành 8 phần bằng nhau bằng cách gấp hình tròn đó thành 4


phần khít nhau. Ở hình tròn một, lấy

2
3
hình tròn, ở hình tròn hai lấy hình
8
8

tròn. Học sinh sẽ gạch: Ở hình tròn một là phần; ở hình tròn hai là 3 phần.
Sau đó tôi cho các em so sánh các phần gạch chéo của 2 hình tròn. Qua phần
so sánh, các em sẽ thấy:

2 3
3 2
< ( hay > ). Từ đó rút ra cách so sánh cơ bản
8 8
8 8

(như quy tắc SGK).
a. Tự chiếm lĩnh kiến thức mới
VD: Trong bài “Phép nhân phân số” ( tiết 122)

Trước tiên tôi cho học sinh tìm hiểu ý nghĩa của phép nhân phân số thông
qua cách tính diện tích hình chữ nhật.
- Giáo viên nêu: Tính diện tích hình chữ nhật có chiều dài 5m, chiều rộng
3m. Và học sinh nêu được S = 5 x 3 = 15 m2.
- Tiếp theo giáo nêu: Tính diện tích hình chữ nhật có chiều dài
2
3

chiều rộng m . Giáo viên gợi ý để học sinh nêu được S =
4 2
5 3

4
m,
5

4 2
x
5 3

- Muốn thực hiện được phép nhân x , giáo viên cho học sinh quan sát
trên hình vẽ:
1m

1m
2
m
3



4
m
5

Thông qua hình vẽ, học sinh phải nêu được:
- Hình vuông có s = 1m2
- Hình vuông có 15 ô, mỗi ô có s =

1 2
m
15

- Hình chữ nhật (phần tô màu) chiếm 8 ô. Do đó diện tích hình chữ nhật
bằng
8 2
4 2 8
m . Từ đó học sinh nêu được x = (m2).
15
5 3 15

Từ nhận xét trên, giáo viên hướng dẫn học sinh dựa vào ví dụ để rút ra
quy tắc nhân 2 phân số. Giáo viên lưu ý với học sinh: Kết quả phép
tính phải là phân số tối giản.
Sau khi học sinh đã biết cách nhân 2 phân số thì giáo viên khích lệ
học sinh thi đua học tập bằng cách tự cho ví dụ về cách nhân 2 phân
số và tự tìm lấy kết quả. Ngoài ra giáo viên cho học sinh vận dụng
cách tính để tìm chu vi, diện tích các hình đã học như: hình bình hành,
hình vuông, hình chữ nhật.
Quá trình dạy học toán như đã nêu ở trên sẽ giúp học sinh nắm chắc
kiến thức, kỹ năng cơ bản nhất, thông dụng nhất, hình thành phương

pháp học tập (đặc biệt là phương pháo tự học), biết cách giải quyết
vấn đề gần gũi với đời sống.
b. Thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới với kiến thức đã học.
* VD: trong bài “phép cộng phân số” tiết 114.
Ở bài này, thông qua ví dụ ở SGK, tôi và học sinh sẽ cùng thực hành trên
băng giấy.
- Chia băng giấy bằng 8 phần bằng nhau bằng cách gập đôi 3 lần theo
chiều ngang.


- Lần 1: Tô màu vào

3
băng giấy.
8

- Lần 2: Tô mầu vào

2
băng giấy
8

- Lúc này, học sinh dễ dàng thấy phải thực hiện phép tính

3 2
+
8 8

- Nhìn vào băng giấy của mình, học sinh sẽ nêu được cả 2 lần đã tô
màu được


5
băng giấy.
8

- Từ đó học sinh sẽ nêu ra được cách tính:

3 2 3+2 5
+ =
=
8 8
8
8

Qua ví dụ trên, học sinh sẽ rút ra cách cộng 2 phân số cùng mẫu số
bằng cách lấy tử số cộng với nhau và giữ nguyên mẫu số.
* Ở bài phép cộng tiếp theo ( tiết 115) là phép cộng 2 phân số khác
mẫu số.
Lúc này từ ví dụ ở SGK, học sinh sẽ dễ dàng nêu được: Muốn biết cả 2 bạn
đã lấy bao nhiêu phần của băng giấy màu thì phải thực hiện phép tính cộng:
1 1
+
2 3

Sau đó, tôi sẽ dẫn dắt các em bằng các câu hỏi gợi ý:
- Nhận xét mẫu số của 2 phân số ( 2 phân số có mẫu số khác nhau)
- Muốn thực hiện được phép cộng 2 phân số này ta phải làm gì? ( Quy
đồng mẫu số)
Sau đó học sinh tự quy đồng mẫu số và lại đưa về phép cộng 2 phân số
cùng mẫu số như tiết trước.

Như vậy với phương pháp dạy học bài mới như trên, học sinh có điều
kiện ôn tập củng cố kiến thức đã học và vận dụng những kiến thức đó để
chiếm lĩnh tìm ra kiến thức mới, tìm ra nội dung tiềm ẩn trong bài học.


Phương pháp này còn góp phần rèn luyện tư duy cho học sinh; tìm tòi sự
liên quan giữa kiến thức cũ và mới.
2/ Phương pháp dạy các nội dung thực hành luyện tập:
Nhiệm vụ chủ yếu của các tiết dạy thực hành luyện tập là củng cố kiến
thức cơ bản và rèn luyện các năng lực thực hành, giúp học sinh nhận ra rằng
học không chỉ để biết mà còn để làm, để vận dụng các kiến thức vào cuộc
sống hằng ngày.
Khi dạy thực hành luyện tập cần lưu ý người giáo viên cần giúp mọi học
đều tham gia vào hoạt động thực hành; luyện tập theo khả năng của mình
bằng cách:
- Tổ chức cho học sinh làm các bài tập theo thứ tự sắp xếp trong SGK,
không qua hoặc bỏ qua bài tập nào kể cả các bài tập học sinh cho là
dễ.
- Không nên bắt học sinh chờ đợi nhau trong quá trình làm bài. Sau mỗi
bài, học sinh nên tự kiểm tra sau đó nên chuyển sang làm bài tập tiếp
theo.
- Trong 1 số tiêt dạy, có thể học sinh này làm nhiều bài tập hơn học
sinh khác. Giáo viên cần giúp học sinh khai thác các nội dung tiềm ẩn
trong mỗi bài tập.
VD: Bài 4 phần b, tiết 121
Tính bằng cách thuận tiện
2 7 13 2  7 13  2 20 2 5 21
+ +
= +
+

= +
= + =
.
5 12 12 5 12 12  5 12 5 3 15

Ở bài này có thể một số học sinh vẫn thực hiện theo thứ tự thực hiện các
phép tính trong biểu thức và vẫn ra kết quả như trên nhưng tính như vậy
là chưa hợp lý, chưa nhanh. Lúc này, giáo viên nên hướng học sinh áp


dụng các tính chất đã học của phép cộng để học sinh có thể tự tìm ra cách
tính và vận dụng kiến thức đó để giải các bài tập khác tương tự.
Hay ở tiết 124, bài tập số 4.
Tính rồi rút gọn:

5 4
x
3 5

Ở bài này, học sinh thường làm như sau:
5 4 5 x 4 20 4
x =
=
=
3 5 3 x5 15 3

lúc này, giáo viên nên rút gọn trước ( dựa vào tính chất bằng nhau của
phân số) để tìm kết quả nhanh.
5 4 5x4 4
x =

=
3 5 3 x5 3

Hoặc trong bài luyện tập của phép nhân phân số ( tiết 124) thì giáo viên
phải dẫn dắt học sinh nhớ lại kiến thức của học kỳ 1 đó là:
- Tính chất giao hoán của phép nhân
- Tính chất kết hợp của phép nhân
- Tính chất nhân một số với một tổng (hoặc một tổng với một số)
- Tính chất nhân một số với một hiệu (hoặc một hiệu với một số)
Để giúp học sinh có thể làm nhanh chóng bài tập loại này, học sinh phải
vận dụng tính chất của phép nhân để tìm nhanh kết quả biểu thức.
VD:

3 17 17 2
x + x
5 21 21 5
17  3

2

= x +  (áp dụng tính chất một số nhân với một tổng)
21  5 5 
=

17
x1
21

=


17
21

VI/ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ.


Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các phương pháp trên, tôi nhận
thấy học sinh lớp tôi hứng thú học tập. Các em mạnh dạn phát biểu ý kiến
xây dựng bài, tính toán nhanh, chính xác. Học sinh ham học, tự tin, chất
lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Trong quá trình học toán, học
sinh dần dần biết cách phát hiện, chiếm lĩnh kiến thức mới và cách giải
quyết các vấn đề gần gũi với đời sống. Sự tiến bộ của các em biểu hiện cụ
thể qua điểm số. Cha mẹ học sinh yên tâm, tin tưởng vào nhà trường, tích
cực ủng hộ việc dạy học của nhà trường.
VII/ KẾT LUẬN.
Trên đây là suy nghĩ của tôi về cách dạy một số bài trong chương phân số
của chương trình toán 4 mới, tôi đã áp dụng những cách dạy đó nhằm nâng
cao chất lượng học toán cho lớp mà tôi phụ trách. Bước đầu các em đã thực
sự phấn khởi, tự tin khi học toán. Đối với tôi, cách dạy trên đã góp phần
không nhỏ vào việc dạy học và giáo dục các em - những mầm non tương lai
của đất nước.
VIII/ Đề nghị:
Tôi nghĩ với đề tài này thì tất cả các đồng chí giáo viên đứng lớp có thể áp
dụng vào giảng dạy môn toán cho lớp mình.Tuy vậy, do còn thiếu kinh
nghiệm và năng lực bản thân có hạn nên ở bài viết này chắc chắn còn nhiều
thiếu sót.Tôi tha thiết mong sự góp ý của cấp lãnh đạo và của bạn đồng
nghiệp để giúp tôi hoàn thành tốt hơn nữa trọng trách của người giáo viên
trong “Sự nghiệp trồng người”.
Đại QUANG, ngày 18 tháng 12 năm 2010
Người viết


Nguyễn Thị Hải


VIII/ Tài liệu tham khảo:
1- Phương pháp dạy học toán- Giáo trình dùng trong các trường sư phạm
đào tạo giáo viên tiểu học. Bộ GD-ĐT.


2- Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.(Ban hành chương trình giáo dục phổ thông)
3- Sách toán 4 – Nhà xuất bản giáo dục.
4- Sách giáo viên 4- Nhà xuất bản giáo dục.
5- Sách toán bồi dưỡng học sinh giỏi 4.
6- Tạp chí Giáo dục số 203 kì 1-12/2008.

MỤC LỤC
I/ Tên đề tài
II. Đặt vấn đề
1. Tầm quan trọng của vấn đề được nghiên cứu


2. Thực trạng liên quan đến vấn đề
3. Lí do chọn đề tài
4. Giới hạn nghiên cứu
III/ Cơ sở lí luận
IV/ Cơ sở thực tiễn
V/ Biện pháp thực hiện
1. Biện pháp dạy bài mới
2. Phương pháp dạy các nội dung luyện tập

VI/ Đánh giá kết quả
VII/ Kết luận
VIII/ Tài liệu tham khảo



×