1
Mục lục
A.
LỜI MỞ ĐẦU
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam giai
đoạn hiện nay là “ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến
quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển sớm đưa nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển. Kải thiện rõ rệt đời sống vật chất văn hóa, tinh thần
cho nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức
tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam
trong khu vực và trên trường quốc tế.”
Muốn đứng vững trên con đường phát triển thì cần phải hiểu về phát triển bền
vững. Vì vậy trong khuôn khổ bài viết chúng em xin trình bày về “Phát triển bền
vững ở Việt nam - Cơ hội và thách thức” từ đó đưa ra những thành tựu hạn chế và
biện pháp khắc phục.
1
2
B. NỘI DUNG.
I.Tạo lập môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế thị trường:
Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng diễn ra trong môi trường vĩ mô nhất định. Môi
trường vĩ mô càng thuận lợi, các hoạt động kinh tế càng hiệu quả và càng được mở rộng.
Bởi vậy, để phát triển bền vững, Việt Nam cần phải tạo lập môi trường vĩ mô thuận lợi cho
các hoạt động kinh tế. Điều đó có nghĩa là phải tạo lập môi trường pháp lí, bảo vệ được lợi
ích chính đáng của các chủ thể kinh tế; giữ vững ổn định chính trị, xã hội; tạo môi trường
kinh tế cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả; xây dựng môi trường văn hóa – giáo dục phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; củng cố mở rộng hợp tác hữu nghị với các
nước…
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) là một bước ngoặt lớn mang đến nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam nhưng
đồng thời cũng chỉ rõ những lỗ hổng mà một nước đang phát triển cần phải sửa chữa để có
thể hòa mình vào xu thế phát triển nhanh chóng của thế giới.
1.
Hoàn thiện môi trường pháp luật theo hướng hội nhập.
a, Thứ nhất, Việt Nam cần đảm bảo sự minh bạch về sở hữu, nhất là quyền sở hữu của
cá nhân, nhà nước, quyền sở hữu đất đai. Đây cũng là đòi hỏi của WTO nhằm thực hiện
minh bạch pháp luật về thương mại.Và thực tiễn cho thấy, nước ta còn gặp rất nhiều “khúc
mắc” ở phương diện này.
- Ví dụ điển hình là việc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ:
+ Vi phạm quyền sở hữu trí tuệ không chỉ là tình trạng phổ biến ở nước ta, mà các
quốc gia khác trên thế giới cũng như vậy, kể cả các nước phát triển như Mỹ, Đức, Pháp…
Tuy nhiên, điểm yếu của Việt Nam là không chỉ riêng người dân chưa nhận thức về sở hữu
trí tuệ, mà ngay cơ quan quản lý và cộng đồng doanh nghiệp cũng chưa coi trọng vấn đề
này.
+ Trong môi trường kinh tế thị trường hiện nay, đăng ký nhãn hiệu, kiểu dáng sáng chế
là cách bảo hộ quyền lợi thiết thực trong kinh doanh của doanh nghiệp. Trong số 95.000
nhãn hiệu đăng ký bảo hộ tại Cục Sở hữu Công nghiệp Việt Nam, chỉ 20% là của doanh
2
3
nghiệp Việt Nam. Đa số nhãn hiệu đăng ký lại là của các doanh nghiệp tư nhân, rất ít
doanh nghiệp nhà nước tham gia.
+ Cần phải nhìn nhận một thực tế là, quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta bị xâm phạm ngày
càng phức tạp. Hàng giả, hàng nhái, hàng sao chép, hàng lậu… đang được bày bán công
khai ở mọi nơi. Nguy cơ này sẽ ngày càng tăng khi mà chúng ta mở cửa rộng rãi hơn. Ý
thức của người tiêu dùng cũng là vấn đề đáng lo ngại. Nguyên nhân của hiện tượng này do
giá bán hàng giả chỉ bằng 1/3 đến 1/10 giá của hàng thật nên người tiêu dùng biết là hàng
giả nhưng vẫn dùng vì “giá rẻ”.
=>Qua ví dụ trên có thể thấy quyền sở hữu trí tuệ có vai trò không thể thiếu trong
quá trình hình thành một nền kinh tế toàn diện và phát triển bền vững. Chứng chỉ về quyền
sở hữu trí tuệ là vật chứng bảo đảm cho thành công của mỗi doanh nhân tiến vào thị trường
thế giới. Nếu Việt Nam chú trọng và khai thác một cách tối ưu, tài sản “vô hình” này sẽ
giúp các doanh nghiệp tăng cường sức mạnh, nâng cao vị thế, uy tín và khả năng cạnh
tranh để nâng cao doanh thu và lợi nhuận.
- Để tạo điều kiện, môi trường phát triển thuận lợi, Việt Nam cần phải xây dựng chi
tiết và hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về quyền sở hữu; đảm bảo các quyền
dân sự của công nhân, nhất là quyền kinh doanh và sở hữu tài sản theo ba cơ chế: cơ chế
xác lập quyền, cơ chế thực hiện quyền và cơ chế bảo vệ quyền.
b, Thứ hai, pháp luật bảo vệ môi trường ở Việt Nam cần được xây dựng theo chuẩn
mực quốc tế. Trong khi các nước phát triển đã thực hiện những tiêu chuẩn môi trường cao
từ rất nhiều năm về trước, song ở Việt Nam, do vấn đề phát triển bền vững mới xuất hiện
tầm hai mươi năm trở lại nên những tiêu chuẩn môi trường chưa được chú trọng cao.
- Trong thời gian đầu của quá trình phát triển, Việt Nam vẫn theo con đường phát triển
thuần tuý, thiên về tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, mà chưa quan tâm đúng mức đến
vấn đề khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên. Các chính sách về kinh tế không
kết hợp chặt chẽ với bảo vệ môi trường. Các chính sách về môi trường được đưa ra lại chỉ
chú trọng việc giải quyết các sự cố môi trường, phục hồi suy thoái mà chưa có những biện
pháp cụ thể về bảo vệ, đa dạng hoá môi trường hay những định hướng trong tương lai để
đáp ứng nhu cầu của các thế hệ sau.
- Tổn thương môi trường sẽ còn gia tăng cùng quá trình phát triển nếu nước ta không
có những tiêu chuẩn môi trường cao, chi tiết các chỉ tiêu phát triển bền vững về môi
trường, chế tài xử phạt.... Nhận thấy những thiếu sót này và để khắc phục cũng như thực
hiện Công ước quốc tế về phát triển bền vững (Rio de Janero 6/1992), trong các Văn kiện
chính trị, đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản toàn quốc lần thứ IX đã
3
4
nêu rõ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010: “Phát triển nhanh, hiệu
quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo
vệ môi trường”; “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường,
bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng
sinh học”.
c, Thứ ba, Việt Nam là một nước đi lên từ nền nông nghiệp, khoảng 90% người
dân xuất thân từ nông dân, vậy để phát triển bền vững, nước ta cần chú trọng tới lợi ích và
đời sống của nông dân.
- Nông dân là những người bị ảnh hưởng đầu tiên do các cơ chế bảo hộ đối với nông
nghiệp buộc phải rỡ bỏ dần khi chuyển sang nền kinh tế công nghiệp. Người nông dân bị
mất đất để xây nhà máy, các khu công nghiệp… trình độ tay nghề chưa cao dẫn đến thất
nghiệp, đời sống khó khăn. Vậy nên, ngoài đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, nước ta
cần tạo ra cơ chế pháp lý đồng bộ để bảo vệ nền nông nghiệp, lợi ích của người nông dân.
- Những năm qua, Đảng và nhà nước có nhiều chính sách và các cuộc vận động nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội nông thôn, trong đó điển hình là một số chương trình, dự
án tác động nhiều đến nông thôn như:
+ Chương trình Mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm; Chương
trình 135, Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn,
Dự án 5 triệu ha rừng… và một số chương trình, dự án lớn khác như: Phong trào Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá; Thực hiện quy chế dân chủ và cải cách hành chính ở
cơ sở ; Phong trào xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn; Đề án thí điểm xây dựng mô hình
nông thôn mới cấp thôn, bản; Chương trình vay vốn tín dụng ưu đãi để thực hiện kiên cố
hoá kênh mương, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản và làng nghề nông thôn; chương trình
134, 120, 193…
+ Mỗi chương trình đó đã tác động đến một hoặc một số mặt của kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, những chương trình có mục tiêu phát triển đồng bộ nông thôn thì rất ít, từ năm 2001
đến nay, chỉ có 2 chương trình thí điểm của Ban Kinh tế trung ương và Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn hướng tới mục tiêu này, đó là Đề án thí điểm phát triển nông thôn mới
cấp xã và Đề án thí điểm xây dựng mô hình “ nông thôn mới” cấp thôn, bản.
d, Thứ tư, môi trường luật pháp ở Việt Nam cũng cần phải có sự sửa đổi để phù hợp
với quá trình phát triển bền vững của đất nước, với thông lệ và luật pháp quốc tế.
- Để thực hiện điều đó, trước tiên cần thay đổi tư duy về lập pháp, hạn chế tối đa sự
lạm dụng quyền lực của chính quyền và phải bảo quyền của người dân, xây dựng Nhà nước
của dân do dân vì dân. Bởi một số bộ luật quy định còn lỏng lẻo, chưa chặt chẽ dễ bị các
4
5
đối tượng lợi dụng để lách luật, đặc biệt là luật thuế (thuế doanh nghiệp, thuế thu nhập… )
gây nên những thất thoát cho ngân sách Chính phủ.
- Bên cạnh đó, các cơ quan thực thi pháp luật, cơ quan nhà nước phải gương mẫu đi
đầu trong việc trong việc chấp hành pháp luật. Ngoài ra khi Việt Nam đã gia nhập WTO,
những xung khắc và tranh chấp là không thể tránh khỏi, nước ta cần xây dựng hệ thống
pháp luật đồng bộ, thông thoáng và bảo vệ được lợi ích của các chủ thể kinh tế.
2.
Giữ vững ổn định chính trị - xã hội.
Song song với việc hoàn thiện môi trường pháp luật, Việt Nam cần phải giữ vững ổn
định chính trị xã hội.Bởi môi trường chính trị - xã hội thuận lợi các hoạt động kinh tế sẽ ổn
định phát triển. Thực tế cho thấy Việt Nam đã làm rất tốt điều này, thể hiện rõ qua các số
liệu thống kê:
- Những thập kỉ 80 Việt Nam là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới với
thu nhập bình quân đầu người dưới 100 đô la Mỹ. Sau 25 năm, thu nhập đầu người đã lên
tới 1.130 đô la Mỹ (vào cuối năm 2010), Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung
bình thấp.
- Tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống còn 14,5% vào năm 2008, đồng
thời các chỉ số an sinh xã hội khác cũng được cải thiện đáng kể.
- Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nền chính trị ổn định trên thế giới, các Tập
đoàn ở nước ngoài tìm đến Việt Nam như một sự đầu tư thông minh khi bạo động, xung
đột vũ trang đang có chiều hướng tăng lên ở các nước.
+ Theo Cục Đầu tư nước ngoài, 8 tháng đầu năm 2013, Việt Nam thu hút tổng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cấp mới và tăng thêm đạt 12,63 tỉ USD, tăng 19,5% so với
cùng kỳ năm 2012. Trong đó, vốn cấp mới cho 769 dự án là 7,405 tỉ USD, tăng 12,2% và
297 lượt dự án đăng ký tăng vốn với tổng vốn tăng thêm đạt 5,22 tỉ USD, tăng 31,7% so
với cùng kỳ. Số vốn FDI đã giải ngân 8 tháng được đánh giá là khả quan, khi đạt 7,560 tỉ
USD, tăng 3,8%.
+ Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút được nhiều vốn nhất của nhà đầu tư
nước ngoài với 370 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn cấp mới và tăng thêm là 10,817
tỉ USD, chiếm 85,7% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Giữ ổn định chính trị xã hội là điều kiện cần thiết hàng đầu cho sự phát triển của kinh
tế thị trường và phát triển ở Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới.Trong đó,
điều quan trọng hơn cả là công bằng xã hội phải được thực hiện, đời sống và tinh thần của
người dân phải không ngừng được nâng cao.
5
6
3.
Tạo lập môi trường kinh tế cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả.
- Sau những năm chiến tranh tàn phá nặng nề, Việt Nam đã và đang cố gắng xây dựng
và củng cố các hệ thống kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Hệ thống đường xá được mở rộng
và nâng cấp, sân bay bến cảng cũng được chú trọng đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Đặc biệt là hệ thống thông tin liên lạc ở Việt Nam phát triển với tốc độ nhanh chóng mặt
khi thực hiện cơ chế mở cửa thị trường, tiếp thu các thành tựu về khoa học công nghệ
thông tin từ thế giới:
+ Phóng thành công các vệ tinh viễn thông địa tĩnh Vinasat 1 (năm 2008) và Vinasat 2
(năm 2012), đã góp phần hoàn thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng thông tin truyền
thông quốc gia, đưa thông tin đến tất cả các vùng sâu vùng xa, biên giới, miền núi và hải
đảo, hỗ trợ hiệu quả cho công tác quốc phòng, an ninh, phòng chống lụt bão và giảm nhẹ
thiên tai.
- Môi trường kinh tế còn được tạo lập bởi các chính sách kinh tế: chính sách thuế,
chính sách lãi suất, chính sách giá cả, chính sách cạnh tranh… Việt Nam đã có những
chính sách đúng đắn và hợp lí điều chỉnh với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Bên
cạnh đó cũng có những chính sách không mang lại hiệu quả, chưa sát với tình hình, chỉ
mang lại lợi ích cho một số doanh nghiệp dẫn đến phát triển không đồng đều ở các lĩnh
vực.
4.
Xây dựng môi trường văn hóa – giáo dục.
- Không chỉ Việt Nam, mà nền kinh tế của tất cả các nước (đặc biệt là các nước phát
triển) phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển văn hóa, giáo dục. Đó là trình độ dân chí,
trình độ văn minh mà xã hội đạt được, trình độ lành nghề và các kĩ năng của những người
lao động… Và doanh nghiệp chỉ đầu tư khi nguồn nhân lực về cơ bản đáp ứng được yêu
cầu của họ.
+ Các số liệu thống kê cho thấy nước ta đang đạt được tỉ lệ dân số vàng điều mà rất
nhiều nước trên thế giới mong muốn, nhưng tại sao nền kinh tế vẫn chưa có sự đột phá và
phát triển. Người lao động tuy nhiều nhưng người lao động có trình độ lại chiếm phần trăm
rất nhỏ, ý thức của người dân chưa cao trong việc thực hiện các chính sách kinh tế của nhà
nước, mang nặng lí thuyết và chú trọng bằng cấp hơn là thực hành và kinh nghiệm thực tế.
+ Nhận định được điều này, Nhà nước cần có những phương án tận dụng lợi thế về số
lượng lao động, cải cách trong giáo dục, đào tạo các đội ngũ chuyên gia. Bên cạnh đó việc
giáo dục nếp sống văn minh, ứng xử văn hóa cho người dân thông qua các hoạt động xã
hội, ý thức bảo vệ môi trường… cần được đẩy mạnh hơn nữa.
6
7
5.
Đẩy mạnh cải cách hành chính.
- Bộ máy hành chính ở Việt Nam còn cồng kềnh, kém hiệu quả, ảnh hưởng rất lớn đến
phát triển kinh tế thị trường. Nhận thấy những hạn chế này Nhà nước ta đã có sự điều chỉnh
về cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính như cắt bỏ một số thủ tục phiền hà, không cần thiết;
chi tiết hóa hơn ở các điều luật, bộ luật…
+ Theo số liệu Văn phòng chính phủ đưa ra: Với 256 thủ tục ưu tiên, nếu Chính phủ
đồng ý dỡ bỏ, chỉnh sửa chúng ta đã tiết kiệm hơn 6.000 tỷ đồng... Nếu chúng ta rà soát,
hoàn thiện toàn bộ hơn 5.000 thủ tục hành chính thì số tiền còn lớn hơn rất nhiều.
- Do vậy, việc cải cách hành chính là yêu cầu cấp thiết đối với nước ta. Mục tiêu là xây
dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh hiệu quả, tạo điều kiện và môi trường
thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Cần thực hiện đồng bộ trên bốn mặt: cải cách thể
chế hành chính, cải cách bộ máy, xây dựng đội ngũ công chức quản lý nhà nước và quản lí
tài chính công.
6. Đẩy nhanh cải cách doanh nghiệp nhà nước theo định hướng thị
trường.
- Theo một số nhận định của các chuyên gia tại Diễn đàn doanh nghiệp (VBF) diễn ra
ngày 03/12/2013, các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ở Việt Nam được ưu đãi nhiều
nhưng tận dụng kém.
+ Ông Preben Hjortlund, Chủ tịch EuroCham cho biết, các ước tính cho thấy khu vực
DNNN đang chiếm tới 40% toàn bộ nền kinh tế. Bản thân điều này không có gì đáng quan
ngại, tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ các DNNN nhìn chung được ưu đãi nhiều hơn thông qua
các khoản vay, tiếp cận đất đai, chỉ tiêu lợi nhuận thấp, v.v. nhưng thường hoạt động không
hiệu quả. Điều này đang kìm hãm sự tăng trưởng của nền kinh tế do dẫn đến việc giảm đầu
tư khu vực tư nhân trong các lĩnh vực này. Tại châu Âu, DNNN cũng lớn nhưng họ hoạt
động hiệu quả hơn nhiều.
+ Sự ưu đãi cho DNNN là lớn nhưng khu vực này lại không tận dụng hiệu quả, gây
ảnh hưởng sự phát triển kinh tế Việt Nam. Ông Sato Motonobu, Chủ tịch Hiệp hội Doanh
nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam nhìn nhận, nếu cứ tiếp diễn như vậy thì dòng vốn sẽ chỉ
chảy đến các doanh nghiệp nhà nước có hiệu suất kinh doanh thấp, và năng lực cạnh tranh
của Việt Nam cũng sẽ không còn.
+ Khu vực DNNN bị đánh giá là nơi tồn tại nhiều tham nhũng và xung đột lợi ích. Ông
Steven Winkelman, Chủ tịch Amcham phát biểu, các nhà đầu tư đang băn khoăn liệu tập
đoàn nhà nước nào tiếp theo sẽ thất bại từ việc mở rộng hoạt động quá mức hay tập đoàn
nào sẽ buộc phải kê các tài sản xấu vào bảng cân đối kế toán. Sự phân bổ không hợp lý các
7
8
nguồn lực hiện vẫn còn tiếp tục trong khi đây là thời điểm Việt Nam cần phải có những
quyết định sáng suốt hơn về chi tiêu nguồn vốn và chiến lược kinh doanh.
+ Việc tiếp tục ưu tiên và “bảo bọc” DNNN sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của khu
vực này và nền kinh tế, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của Việt Nam. Để nhanh chóng
cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam trong thời gian tới, cần tăng tiến trình cải
cách DNNN, làm cho khu vực này hoạt động hiệu quả hơn.
+ Đặc biệt, Chính phủ cân nhắc thoái vốn của DNNN ra khỏi lĩnh vực kinh doanh để
chuyển một phần nguồn lực sang các mục tiêu khác cấp bách và cần thiết hơn. Chính phủ
cần tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian sớm nhất có thể để
tạo ra một môi trường mang tính cạnh tranh hơn và hoạt động theo cơ chế thị trường.
7.
Củng cố, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước.
- Môi trường quốc tế hòa bình, ổn định tương đối là điều kiện để phát triển bền vững.
Do đó, việc tích cực tham gia vào đời sống kinh tế - chính trị quốc tế; góp phần duy trì và
bảo vệ môi trường đó là nhiệm vụ của toàn nhân loại, của tất cả các quốc gia trong đó có
Việt Nam. Việt Nam đã và đang mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới, củng
cố tình hữu nghị anh em, giúp đỡ chia sẻ khó khăn khi thiên tai hay dịch bệnh…bằng hiện
vật, thư điện hay chuyến thăm chính thức đến lãnh đạo các nước.
+ Điển hình như chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn
Tấn Dũng cùng Đoàn đại biểu Cấp cao Việt Nam khi nhận được lời mời từ Thủ tướng Nhật
Bản Shinzo Abe và dự các Hội nghị Cấp cao Kỷ niệm 40 năm Quan hệ Đối ngoại ASEAN
– Nhật Bản và Hội nghị Cấp cao Mekong-Nhật Bản lần thứ 5 tại Tokyo, từ ngày 12 đến
15/12/2013. Chuyến thăm đã góp phần làm sâu sắc thêm quan hệ đối tác chiến lược tốt đẹp
và tin cậy Việt Nam – Nhật Bản cũng như đạt được những kết quả quan trọng về trọng tâm
hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư; hợp tác chặt chẽ tại các diễn đàn, các cơ chế hợp tác
khu vực và quốc tế…
II. Phát triển kinh tế tri thức:
1. Thực trạng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam
8
9
Ở Việt Nam, ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định: “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút
tất cả các nước khác nhau”. Gần đây nhất, Đảng ta đã xác định gắn công nghiệp hóa, hiện
đại hóa với phát triển kinh tế tri thức: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát
triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường”.(Văn kiện Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt
Nam), trong đó Đảng ta khẳng định, phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực
then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững.Như vậy có thể thấy ngay từ thời kỳ
đầu, Đảng ta đã rất coi trọng việc tạo ra động lực cho việc hình thành và phát triển kinh tế
tri thức. Tuy nhiên, hiện nay về cơ bản nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế mang
những dấu ấn của kinh tế nông nghiệp, đang chuyển dần sang kinh tế công nghiệp. Vị trí
của Việt Nam trong nền kinh tế tri thức toàn cầu là rất thấp.Những chỉ số về kinh tế tri thức
của Việt Nam đều ở nửa dưới của bảng xếp hạng. Chỉ số KEI của Việt Nam hiện đang là
3,51, trong đó chỉ số sáng tạo chỉ là 2,72, trong khi đó chỉ số KEI của một số nước trong
khu vực là rất cao: Singapore là 8,44; Malaysia là 6,07; Thái Lan là 5,52.
Xét phương diện những đặc trưng của nền kinh tế tri thức thì chúng ta thấy cơ cấu kinh
tế - lao động của Việt Nam hiện nay vẫn là lạc hậu: tỷ trọng các ngành dịch vụ, công
nghiệp trong GDP còn hạn chế, ngành nông nghiệp còn cao. Cơ cấu lao động cũng chưa
chuyển biến mạnh mẽ: lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng rất cao,
chất lượng lao động còn nhiều hạn chế. Trong khi đó hiện nay ở Mỹ khoảng 80% lực lượng
lao động làm việc trong các ngành dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng và triển khai.
Tỷ trọng các ngành trong GDP năm 2010
(Đơn vị tính: %)
Công nghiệp
41,1
Nông nghiệp
Dịch vụ
20,6
38,3
Hiện nay, hàm lượng chất xám trong sản phẩm của Việt Nam là rất thấp, “đến 2020
giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45%
trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị
sản phẩm công nghiệp”.(Văn kiện Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam).
9
10
Sự đầu tư cho khoa học, công nghệ ở Việt Nam so sánh tương quan với các quốc gia
trong khu vực là rất thấp. Hiện nay, Việt Nam chỉ dành khoảng 0,3% GDP cho hoạt động
khoa học, công nghệ, trong khi đó con số này ở Malaysia là 1%, Singapore là 3%.
Theo Robert Walter Global – một công ty chuyên về tuyển dụng: năm 2012 mặc dù
kinh tế khó khăn, nhiều công ty phá sản hoặc giảm quy mô hoạt động, Việt Nam vẫn
“khát” nhân sự có trình độ. Hiện nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Việt Nam đạt khoảng
35%, đây là con số rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Một trong những tiêu chí quan trọng của kinh tế tri thức là sự ứng dụng công nghệ vào
sản xuất kinh doanh và quản lý. Phần lớn các doanh nghiệp ở nước ta đều thiếu thông tin
về công nghệ. Theo một khảo sát của Viện Nghiên cứu và Quản lý TW trên 82 doanh
nghiệp, chỉ có 16 doanh nghiệp có ý tưởng đổi mới công nghệ. Xét một cách tổng quát,
những yếu tố cho sự ra đời và phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay đang ở thời kỳ hình
thành.
2. Giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam đang quá độ sang kinh tế công nghiệp. Vì vậy, để tạo điều kiện
và thúc đẩy kinh tế tri thức phát triển cần quán triệt và thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ và tri thức.Sự phát
triển của khoa học, công nghệ là điều kiện cần để hình thành và phát triển kinh tế tri
thức.Cần đầu tư hơn nữa cho khoa học, công nghệ; tạo ra chính sách phát triển khoa học,
công nghệ.
Hình 2.1: Trang thiết bị hiện đại của trường đại học FPT
Thứ hai, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực cho kinh tế tri thức.
Nghiên cứu khoa học được coi là nền tảng của tăng trưởng kinh tế, đóng vai trò quan trọng
trong các quá trình hình thành kinh tế tri thức. Theo một nghiên cứu mới nhất, hiện nay nếu
không có gì thay đổi thì Việt Nam cần khoảng thời gian là 60 năm mới có thể theo kịp về
10
11
số lượng bài báo ở thời điểm năm 2005. Việt Nam vẫn đang thiếu chuyên gia nghiên cứu
khoa học tầm cỡ quốc tế, chất lượng lao động Việt Nam đạt 4/10 điểm (theo WEF).
Hình 2.3 Những công trình nghiên cứu của sinh viên và giảng viên các trường đại học
ở Việt Nam
Thứ ba, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN hướng đến việc phát
huy vai trò của khoa học, công nghệ, hướng đến kinh tế tri thức. Cần tạo ra môi trường
pháp lý lành mạnh, thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo, khuyến khích các chủ thể kinh tế phát
huy tối đa tiềm năng của mình, trong đó nhấn mạnh các vấn đề về sở hữu trí tuệ, chuyển
giao công nghệ, bản quyền...
Thứ tư, tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng
sang kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với chiều sâu. Cần kết hợp hợp lý
phát triển kinh tế theo hai mô hình này, một mặt khai thác những lợi thế sẵn có về lao
động, tài nguyên; mặt khác phải “đi tắt, đón đầu”, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo mô hình “hiện đại”, “rút ngắn” để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
III. Xây dựng nhà nước Pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay
Hiện nay, Việt Nam đã có đủ các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội để từng bước xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do
dân, vì dân, có sắc thái riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống,
văn hóa của Việt Nam. Cần nhận thức rằng việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở VN là
quá trình lâu dài, phải được tiến hành từng bước, chia thành nhiều giai đoạn, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Mỗi giai đoạn tương ứng với một mức độ phát triển của xã hội và của
nhà nước. Xây dựng Nhà nước quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự
lãnh đọa của Đảng cần quán triệt những vấn đề có tính nguyên tắc sau:
11
12
1. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân là cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân
dân.
Đó là Nhà nước trong đó đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì thế
quyền lực nhà nước là thống nhất, không tam quyền phân lâpk nhưng có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật, tăng cường
pháp chế, xử lý nghiêm minh kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện Và bảo vệ
được các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp pháp của
nhân dân, ngăn ngừa mọi sự tùy tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ công
chức nhà nước, đồng thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỉ luật, thiếu kỉ
cương. Đó là Nhà nước mà mọi tổ chức ( kể cả tổ chức Đảng), hoạt động phải dựa trên cơ
sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước công dân về mọi hoạt động của
mình. Vì vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa có quan
hệ khăng khít với xây dựng xã hội công dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, doi dân, vì dân, là cách thức cơ bản đẻ phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, huy động nội lực của toàn thể nhân dân, của tất cả các thành phần kinh tế vào sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội công dân là bộ ba hợp thành không thể tách rời, là điều
kiện và tiền đề cho nhau, là bảo đảm là kết quả công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Hiến pháp và pháp luật nước ta ghi nhận quyền của công dan tham gia
quản línhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chính của cả
nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa
phương, kiến nghị, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với các cơ quan nhà
nước.
Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền khiếu nại, tố cáo… các
quyền và sự tự do đó trong nhiều trường hợp là điều kiện để nhân dân kiểm tra hoạt động
của Nhà Nước, nhưng trước hết đó là một trong những phương thức quan trọng để thực
hiện dân chủ. Vì vậy, cần chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mọi ngừoi; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam
đã kí kết hoặc tham gia. Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các nghành, của
cán bộ, công chức trong việc giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của công dân.
Quyền lực của nhà nước ở nước ta là quyền lực nhà nước thống nhất. Sự thống nhất đó
là ở mục tiêu chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Xét theo cơ
chế tổ chức thì quyền lực nhà nước tối cao, tức là những chức năng và thẩm quyền cao nhất
thuộc về những cơ quan đại diện cho nhân dân. Ở nước ta, đó là Quốc Hội và Hội đồng
nhân dân các cấp. Quốc hội có thẩm quyền lập hiến và lập pháp, quyền giám sát tối cao;
12
13
quyền quyết định kế hoạch phát triển đất nước; quyền lâpj ra các cơ quan và chức vụ nhà
nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do
nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên.
3. Một trong những điểm cơ bản của việc xâu dựng Nhà Nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân là quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở
phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là
phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, họa động lập pháp đang đứng trước những nhiệm vụ mới
mẻ và phức tạp cảu việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Lập pháp phải đảm bảo
tính khả thi của các quy định pháp luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp
luật vào đời sống. Hoạt động lập pháp phải vừa đảm bảo chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu
của sự pháp triển vừa bảo đảm phản ánh được sự phát troeẻn sống động của đời sống xã
hội trong các lĩnh vực, lại vừa bảo đảm tính chuyên môn pháp lý của các quy định để có sự
phối hợp chặt chẽ giữa khâu làm luật việc ban hành các văn bản dưới luật, tổ chức thực
hiện pháp luật.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của bộ
máy hành pháp của nước ta còn nhiều nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp
ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Tổ chức hành pháp chưa thông suốt, còn yếu
trong việc xử lí những mối lien kết dọc và ngang, thậm chí còn có hiện tượng cục bộ.Chế
độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch, làm trầm trọng thêm tác phong làm việc
quan liêu và dựa dẫm.Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân chưa được quy định chặt chẽ.
Thái độ làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ cán bộ, công chức vẫn còn là vấn
đề đáng nói hiện nay.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, Hiến pháp và luật pháp của Nhà nước ta trước sau
như một đều khẳng định các yêu cầu về bình đẳng, công bằng, về sự độc lâọ của toàn án
khi xét xử, bảo đảm mọi vi phạm đều bị xử lý, tăng cường bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp và chính đánh của người dân. Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động tư pháp đã trở
thành một hoạt động hết sức quan trọng của nhà nước ta, thể hiện vao trò mới, những đòi
hỏi và những nhiệm vụ mới của lĩnh vực đó. Trên cơ sở những thành tựu và kinh nghiệm
đã có, cần đẩy mạnh cải cách tư pháp theo Nghị quyết ) 08 của Bộ Chính Trị ( khóa IX) mà
những nội dung cơ bản phải là cải cách hoạt động xét xử và cải cách các thủ tục tố tụng,
nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm chính trị- pháp lí của
cán bộ tư pháp.
13
14
4. Một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phân
phối hợp quyền lực nhà nước và cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp
giữa trung ương và địa phương. Sự phân công, phân cấp ấy phải nhằm khuyến
khích và nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ
quản lí ngành và quản lí lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Việc phân công và phân cấp giữa trung ương và địa phương phải dựa trên nền tảng của
một hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, có tính chuyên nghiệp cao và đủ sức giải quyết
mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đây đang là một khâu yếu.
5. Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với việc đưa pháp
luật vào cuộc sống, tạo thói quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ
và mọi tầng lớp nhân dân.
Cho nên, xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sôngd phải thực sự là hai mặt
cảu một nhiệm vụ.Đổi mới và hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện
thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc
khuyến khích và tạo điều kiện cho các hoạt động của các tổ chức và công dân nhằm sử
dụng đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của họ, sự khuyến khích tính tích cực pháp lý
phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đổi mới và cải cách hành chính và hệ
thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các hành vi phạm và
tội phamk, kiên quyết chống quan liêu và tham nhũng trong bộ máy của Đảng và Nhà
Nước.
6. Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn luôn
cần đến sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và hữu hiệu.
Các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải thực hiện được coi trọng và hoàn thiện
ở mức cao nhất, đảm bảo cho quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân
dân và đất nước, phpá luật luôn luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương được giữ vững.
Đối với các cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để các cơ quan đó thực
hiện đúng chức trách và thẩm quyền của mình, đồng thời là điều kiện phối hợp các hoạt
động một cách có hiệu quả. Đến lượt mình, các hoạt động, các hình thức và cơ chế kiểm
tra, giám sát phải có sự phân công, phối hợp đầy đủ và hoàn thiện hơn.
7. Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng, quan
điểm tích cực, tiến bộ, phản ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với
công lý, tự do, bình đẳng.
14
15
Trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
hiện nay, về mặt nhận thức, cần khẳng định các mối quan hệ chủ đaọ giữa các nguyên tắc
và yêu cầu của Nhà nước pháp quyền với hệ thống chính trị duy nhấ một đảng lãnh đạo;
với phương thức tổ chức nhà nước tập tring có phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước thực hiện các quyền lập pháp, tư pháp, với việc tôn trọng các
quyền tự do của
công dân và nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong việc đảm bảo một xã hội trật tự, kỉ
cương.
Về nguyên tắc, Nhà nước pháp quyền không mâu thuẫn với hệ thống chính trị của một
đảng lãnh đạo. Vấn đề là ở chỗ, bản chất của Đảng cầm quyền thế nào, mục tiêu chính trị
của mó có phải lợi ích chung của dân tộc, vì ocn người hay không và do đó có sẵn sang
tuân theo những quy định của pháp luật to lớn mà một Đảng cầm quyền duy nhất có nhiều
khả năng gặp phải hay không và nó có đặt ra và thực hiện được những kỷ luật nghiêm khác
cho chính mình hay không…
Thực tiễn phát triển của xã hội ta, đất nước ta xác nhận và khẳng định vai trò lãnh đạo
của Đảng. Hơn 74 năm qua, Đảng thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn
dân tộc. Đường lối của Đảng là sự phát triển đất nước. Đó chính là căn cứ, là điều kiện cần
thiết để chúng ta hoàn thiện phát luật. Hiên phát của nước ta đã ghi nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng phù hợp với
những nguyênn tắc của nhà nước pháp quyền, căn cứ vào kinh nghiệm thực tiễn và yêu cầu
của xã hội, cần cụ thể hóa hơn nữa mối quan hệ lãnh đạo của Đảng, mà cụ thể là các tổ
chức Đảng và cấp ủy các cấp. Hoàn thiện những cơ sở pháp lý sẽ giúp tránh được những
biểu hiện bao biện, làm thay hay can thiệp không đúng nguyên tắc của cấp ủy và cán bộ
Đảng vào công việc chính quyền mà có thời kì nhiều nơi mắc phải.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa vai trò phản
biện trong giám sát hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của
Đảng được tăng cường không phải chỉ dựa vào quyền uy, mệnh lệnh, mà là bằng trí tuệ,
năng lực lãnh đạo của Đảng, ở khả năng vạch ra đường lối chính trị đúng đắn, ở sự gắn bó
với nhân dân và khả năng giáo dục, thuyết phục toàn xã hội chấp thuận , ở vai trò tiên
phong của đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị- xã
hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội- nghề nghiệp. Trong điều
kiện hiện nay ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Việt Nam là điều quan trọng nhất, cơ bản
nhất đối vơi sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân.
15
16
IV. Đảm bảo sự hài hoà giữa thể chế chính trị, xã hội với thể chế kinh
tế
Hoàn thiện thể chế kinh tế trị trường:
Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách được thể chế hóa bằng luật và các văn
bản dưới luật nhằm thực hiện Định hướng chiến lược phát triển bền vững. Trong giai
đoạn kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, các chính sách tiếp tục hướng tới mục tiêu phát
triển nhanh và bền vững trong toàn nền kinh tế, các ngành và lĩnh vực, cũng như các
địa phương trong điều kiện hội nhập. Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã kết thúc đàm
phán và chính thức ký kết việc tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), là
thành viên thứ 150 của WTO đánh dấu bước ngoặt lớn trong việc phát triển kinh tế.
Nhà nước góp phần thúc đẩy phát triển bền vững qua hàng loạt các chính sách
về kinh tế:
•
Thứ nhất, Nhà nước xây dựng và từng bước hoàn thiện môi trường pháp lý
cho quá trình phát triển kinh tế. (chỉ riêng năm 2005, Việt Nam đã ban hành Luật
Đầu tư, Luật Doanh nghiệp thống nhất cho mọi loại hình kinh tế công và tư, được
đánh giá cao ở trong và ngoài nước. Các thủ tục hành chính cũng không ngừng được
tinh giản để các doanh nghiệp có thể thành lập với các thủ tục một cửa, tiếp cận thị
trường và tín dụng thuận lợi, thuận lợi trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế hay thủ tục
xuất nhập khẩu...)
•
Thứ hai, Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách phát triển kinh tế
nhiều thành phần. ( Tạo điều kiện cho các mô hình doanh nghiệp tư nhân, có vốn
nước ngoài...phát triển qua các ưu đãi về thuế, kho bãi, ...)
•
Thứ ba, Nhà nước đã thực hiện chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH. ( Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế theo
hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ,..)
•
Thứ tư, Nhà nước đã xây dựng và thực hiện các chính sách phát
triển hệ thống thị trường. (chú trọng tới các thị trường theo nhóm ngành như chứng
khoán, bất động sản, hàng tiêu dùng...và có các biện pháp khuyến khích vươn ra thi
trường thế giới như tập trung xuất khẩu, giảm thuế...)
16
17
•
Thứ năm, Nhà nước thực hiện chính sách điều tiết, phân phối thu nhập để
đảm bảo mọi người dân được hưởng các thành quả kinh tế trong từng giai đoạn phát
triển (chính sách tiền lương tối thiểu,...)
b. Kết quả:
Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001 - 2010 đã được thực hiện, đạt bước
phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Kinh tế tăng trưởng
nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước bình
quân đầu người đạt 1.168 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện.
Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi.Thế và lực của nước ta vững mạnh
thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những
tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa và nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân.
2.
Đổi mới thể chế chính trị, xã hội phù hợp với thể chế kinh tế
Thể chế kinh tế có quan hệ chặt chẽ với thể chế chính trị, xã hội.Sự lạc hậu,
không phù hợp của thể chế chính trị, xã hội có thể trở thành rào cản đối với việc
hoàn thiện thể chế kinh tế.
*Đổi mới thể chế chính trị theo hướng tích cực, tạo điều kiện cho nền kinh tế thị
trường phát triển rút ngắn và bền vững. Việt Nam tập trung thay đổi về tổ chức, cơ
chế vận hành, về nhân sự,...các cơ quan thuộc hệ thống chính trị đều xuất phát từ
mục tiêu này.
1. Thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
Nhà nước với thị trường
2. Hoàn thiện bộ máy nhà nước, tạo bước chuyển mạnh về cải cách hành chính
3. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí
4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong việc xây dựng bộ máy nhà nước
17
18
*Việt Nam rất quan tâm đến sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
xã hội, trong đó chú trọng tới các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội, thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội vì mục tiêu phát triển con người, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Chiến lược toàn diện về Tăng trưởng và Xóa đói giảmnghèo (CPRGS) của Việt
Nam (2002) đã được thực hiện có hiệu quả thông qua các Chương trình mục tiêu
quốc gia Giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010, Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2012 - 2015. Theo đó, các chính sách và giải pháp xoá đói
giảm nghèo được triển khai đồng bộ.
Trong chính sách kinh tế đã chú ý ngay tới một chỉ tiêu quan trọng của ổn định
kinh tế vĩ mô liên quan đến phát triển xã hội là tạo việc làm cho người dân ở cả
thành thị và nông thôn. Hệ thống chính sách thị trường lao động, giải quyết việc làm
được bổ sung hoàn thiện.
Chính sách bình đẳng giới ngày càng được quan tâm. Luật Bình đẳng giới; Luật
Phòng, Chống bạo lực gia đình; Luật Hôn nhân và Gia đình; Luật Đất đai là những
bộ luật cơ bản đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới. Các chiến lược
quốc gia như Chiến lược toàn diện về Tăng trưởng và Xoá đói giảm nghèo, Chiến
lược quốc gia về Chăm sóc sức khoẻ sinh sản 2001 - 2010, Chiến lược phát triển
giáo dục 2001 - 2010, Chiến lược quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010,
Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 đều đề cập đến
vấn đề bình đẳng giới nhằm nâng cao vị thế và quyền lợi của phụ nữ. Đồng thời,
lồng ghép giới là một yêu cầu quan trọng của Chính phủ đối với nhiều chương trình,
chính sách kinh tế - xã hội.Phát triển về văn hóa thông tin và nâng cao đời sống tinh
thần của nhân dân luôn là một ưu tiên quan trọng của Chính phủ Việt Nam. Việc
thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia Văn hóa giai đoạn 2001 – 2005 và 2006 2010 đã đem lại sự cải thiện đáng kể trong hoạt động văn hoá thông tin, thể thao. Hệ
thống nhà văn hoá, thư viện, tủ sách cấp huyện, xã, thôn bản, khu vực miền núi,
vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa đã được đầu tư
phát triển; các di tích lịch sử, văn hoá vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo
hoặc phục dựng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ về văn hoá của nhân dân.
V. Đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích của các tầng lớp dân cư
Lợi ích là động lực của các hoạt động kinh tế. Để tăng trưởng kinh tế nhanh và bên
vững, phải tôn trọng các lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh tế và tạo ra sự hài hòa giữa
18
19
các lợi ích đó. Đó cũng là cơ sở tạo ra sự ổn định về chính trị - xã hội, tiền đề để phát triển
bền vững.
Sự thống nhất ( hài hòa ) giữa các lợi ích kinh tế có nghĩa là việc thực hiện các lợi ích
này sẽ góp phần thực hiện các lợi ích khác, tạo động lực to lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, các lợi ích kinh tế không chỉ thống nhất mà còn mâu thuẫn với
nhau.Trong trường hợp có mâu thuẫn, việc thực hiện lợi ích này sẽ làm tổn hại đến các lợi
ích khác.Điều đó khong chỉ làm tổn hại động lực phát triển, mà còn gây ra những căng
thẳng, thậm chí xung đột xã hội. Để kết hợp hài hòa, điều hòa mâu thuẫn giữa các lợi ích,
nhà nước phải tạo lập được môi trường pháp luật hợp lí, thông thoáng, bảo vệ được lợi ích
chính đáng của chủ thể kinh tế và có các chính sách điều tiết hợp lý, côn bằng. Bởi vậy
đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích của các tầng lớp dân cư, thực hiện cồn bằng xã hội là
chứuc năng của nhà nước pháp quyền. Điều hòa mâu thuẫn giữa các lợi ích phải chủ yếu
giải quyết từ những tranh chấp, kiện cáo hang ngày , đến những nhân tố làm nảy sinh mâu
thuẫn: cơ hội tiếp cận các nguồn lực, phân phối phúc lợi…Điều hòa mâu thuẫn giữa các lợi
ích phải trên cơ sở pháp luật, sự công tâm của nhưng người “cầm cân, nảy mực”
VD: Thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư cũng là một cách đảm
bảo hài hòa giữa các tầng lớp dân cư
Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đang ngày càng tăng. Nhưng mức chênh
lệch về thu nhập giữa các thành phần kinh tế trong nước lại không giảm đi, đây đang là vấn
đề gây đau đầu cho các nhà vận hành chính sách, làm sao để điều hòa thu nhập, rút ngắn
khoảng cách giàu nghèo, thực hiện được mục tiêu an sinh xã hội?
Theo con số của Tổng cục Thống kê, GDP đầu người năm 2011 đạt khoảng 1.300
USD/người/năm, tăng 132 USD/người/năm so với năm 2010. Nhưng mức thu nhập đó tăng
không đồng đều, hơn nữa, sự chênh lệch thu nhập giữa các ngành nghề và vùng kinh tế cả
nước là khá lớn. Đặc biệt, nếu so sánh thu nhập ở các tập đoàn, tổng công ty nhà nước với
khối hành chính sự nghiệp và khối sản xuất nhỏ, nông - lâm - ngư nghiệp thì sự chênh lệch
còn lớn hơn nhiều. Ngay trong cùng tập đoàn, tổng công ty thì mức chênh lệch thu nhập
của người lao động cũng không nhỏ. Vấn đề này đang thực sự đẻ ra mâu thuẫn và nguy cơ
tiềm tàng trong xã hội.
1.
Phân tích sự chênh lệch thu nhập dưới các góc độ
a, Xem xét thu nhập dưới góc độ vùng kinh tế
− Ở thành thị, đặc biệt là các thành phố lớn và các khu công nghiệp phát triển, mức
thu nhập khá cao:
19
20
Theo số liệu của UBND Thành phố Hà Nội thì trong năm 2010, Tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) đạt 9-10%, thu nhập bình quân đầu người đạt 36,5-37,5 triệu đồng/năm (khoảng
1.950 USD). Năm 2011, GDP tăng 10,1 % so với năm 2010, thu nhập bình quân đầu người
đạt trên 1.850 USD/năm.
Cục Thống kê TP.Hồ Chí Minh vừa công bố tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn: GDP
năm 2011 tăng 10,3% so với năm 2010, thu nhập bình quân đầu người dù là năm nền kinh
tế khó khăn, vẫn đạt hơn 60 triệu đồng/năm, tương đương 3.000 USD.
Trong năm 2011, thành phố Cần Thơ đã đạt mức tăng trưởng kinh tế là 14,64%. Thu
nhập bình quân đầu người của thành phố theo giá hiện hành là 48,9 triệu đồng/năm, tương
đương 2.350 USD, tăng 332 USD so với năm 2010.
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu - địa phương gắn với vựa dầu mỏ, thu nhập bình quân đầu
người năm 2010 đã đạt 5.800 USD, cao hơn gần 5 lần bình quân cả nước và cao gần gấp
đôi TP.Hồ Chí Minh. Đặc biệt, nếu như TP.Hồ Chí Minh chỉ khiêm tốn đặt mức thu nhập
bình quân đầu người đến năm 2015 là 4.800 USD, Hà Nội là 70 triệu đồng (khoảng 3.300
USD) thì Bà Rịa - Vũng Tàu đã mạnh dạn đặt chỉ tiêu tới 11.500 USD, nếu tính cả dầu thô
là 15.000 USD.
-
Ở các tỉnh nghèo, kinh tế kém phát triển, thu nhập rất thấp:
Trong năm 2011, GDP của tỉnh Nam Định tăng 12,1% so với cùng kỳ, thu nhập bình
quân đầu người đạt 19,2 triệu đồng/năm.
GDP của Tỉnh Bắc Cạn - một trong những tỉnh nghèo nhất Việt Nam năm 2011 tăng
13% so với năm 2010. Thu nhập bình quân đầu người đạt 14,6 triệu đồng, tăng 2,7 triệu
đồng so với năm 2010.
Cũng là một tỉnh nghèo của Việt Nam - Quảng Ngãi hiện có mức thu nhập bình quân
đầu người rất thấp, chưa đến 9 triệu đồng năm. Tỉnh Hà giang có thu nhập bình quân đầu
người còn thấp hơn nữa, chưa đến 6 triệu đồng/năm (nhiều huyện nghèo, thu nhập chỉ
khoảng 3 triệu đồng/người /năm…).
Những con số nêu trên cho ta một bức tranh rõ nét về đời sống kinh tế của người dân ở
các vùng miền khác nhau. Trong khi các tỉnh như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bình Dương,
Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu có lợi thế về cửa khẩu, tài nguyên, cảng biển… thì những
tỉnh vùng cao như Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Bắc Kạn… hầu như không có
tiềm lực gì. Thu nhập bình quân đầu người ở thành phố lớn cao gấp 10 lần ở các vùng, tỉnh
nghèo.Đây là một lỗ hổng mà Nhà nước đang tìm mọi cách để cải thiện, nếu không, sự
chênh lệch giàu - nghèo sẽ ngày càng gia tăng, dẫn đến những hậu quả khó lường trong đời
sống kinh tế chính trị.
20
21
So sánh ngay giữa hai thành phố lớn nhất Việt Nam cũng cho thấy sự khác biệt. Hà
Nội và TP.Hồ Chí Minh là những địa phương có tổng sản phẩm nội địa cao nhất nước và
đứng ở tốp đầu về thu bình quân đầu người. Mức tăng trưởng GDP của Hà Nội, TP.Hồ Chí
Minh năm 2011 tương đương nhau và đều trên 10%. Thế nhưng, tiềm lực TP.Hồ Chí Minh
đã gấp hơn 6 lần Hà Nội. GDP của Hà Nội năm 2011 ước bằng 15,6% GDP của TP.Hồ Chí
Minh. Thu nhập bình quân đầu người của TP.Hồ Chí Minh cao hơn bình quân cả nước
khoảng 2,5 lần, Hà Nội chỉ cao hơn 1,4 lần. Đây là một khoảng cách khá lớn mà Hà Nội
phải phấn đấu để vươn tới.
b. Xem xét thu nhập dưới góc độ ngành kinh tế
− Thu nhập của nhân viên ngành ngân hàng
Số liệu thống kê từ các ngân hàng trong năm 2011 cho biết, hiện, Ngoại thương Việt
Nam (Vietcombank) có mức thu nhập bình quân đầu người đạt 22,4 triệu đồng/tháng đang
tạm dẫn đầu trong ngành ngân hàng. Tiếp sau là Ngân hàng công thương Việt Nam
(Vietinbank), đạt 20,76 triệu đồng/tháng. Theo tính toán dựa trên số tiền chi trả thu nhập và
tổng số nhân viên một số ngân hàng, thu nhập bình quân đầu người của cán bộ, nhân viên
Sacombank đạt khoảng 14,7 triệu đồng/người/tháng, ACB khoảng 16 triệu đồng, Bảo Việt
bank đạt 12,9 triệu, Eximbank 7 - 8 triệu đồng...
Những ngân hàng có mức thu nhập bình quân đầu người thấp nhất đều là những ngân
hàng nhỏ như Phương Tây (5,7 triệu đồng), Phương Đông (6,3 triệu đồng), HDBank (6,4
triệu đồng)…
Có thể thấy thu nhập bình quân đầu người của nhóm ngân hàng lớn gấp 2 - 3 lần nhóm
ngân hàng nhỏ.
− Thu nhập của nhân viên ở các tập đoàn - tổng công ty
Sau đây là số liệu thu nhập bình quân đầu người/tháng của một số tập đoàn trong năm
2011: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia (PVN) 16,2 triệu đồng, Tổng công ty Rượu Bia Nước
giải khát Sài Gòn (SABECO) 9,7 triệu đồng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) 8,6 triệu
đồng, Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) 7,7 triệu đồng, Tập đoàn Dệt may Việt
Nam (Vinatex) 3,9 triệu đồng.
Số liệu trên phản ánh mức thu nhập của một số tập đoàn cao ngất ngưởng, một số lại
rất thấp - PVN gấp hơn 4 lần Vinatex, hơn 2 lần TKV. Ngay trong một tập đoàn cũng có sự
chênh lệch lớn (như PVN, phải sử dụng rất nhiều chuyên gia, trong đó có chuyên gia nước
ngoài với mức lương lên đến 40.000 - 50.000 USD/người/tháng, do vậy, việc chia bình
quân mới cao như vậy; EVN là một ví dụ điển hình, thu nhập bình quân của khối văn
phòng gần 30 triệu đồng/người/tháng trong khi thu nhập bình quân của khối phân phối điện
21
22
chỉ là 7,9 triệu đồng/người/tháng; Thậm chí, chủ tịch, tổng giám đốc ở một số tập đoàn,
tổng công ty nhà nước được hưởng lương tới 70 - 80 triệu đồng/người/tháng, vượt qua
khung của Nhà nước cho phép là 50 triệu đồng/người/tháng). Sự chênh lêch này đang gây
bức xúc trong dư luận.
Số liệu thống kê thu nhập bình quân đầu người ở một số tổng công ty như sau: Tổng
công ty Thép 7,6 triệu đồng; Tổng công ty Hóa chất 7,0 triệu đồng; Tổng công ty Công
nghiệp dầu thực vật 6,9 triệu đồng…
− Khối sản xuất kinh doanh nói chung đạt 5,7 triệu đồng/người/tháng.
Có thể thấy, so với mặt bằng thu nhập chung của cả nước (2,16 triệu
đồng/người/tháng), khối các ngân hàng, tập đoàn - tổng công ty là rất cao (gấp từ 2 - 8 lần,
chưa kể so sánh giữa người có thu nhập cao nhất và người có thu nhập thấp nhất, số liệu
này còn cao đến chóng mặt).
− Thu nhập của công chức - viên chức khối hành chính sự nghiệp
Thu nhập bình quân đầu người của khối hành chính sự nghiệp tùy theo ngành nghề,
mức thu nhập cũng thay đổi không nhỏ: Các trường đại học cao đẳng đạt từ 3,5 - 8,5 triệu
đồng/người/tháng; các trường mẫu giáo mần non đạt 1,2 - 2,4 triệu đồng/người/tháng; Các
bệnh viện tuyến trung ương đạt 1,8 - 8 triệu đồng/người/tháng, các bệnh viện tuyến địa
phương đạt: 1,4 - 4 triệu đồng/người/tháng; các viện nghiên cứu đạt từ 2,5-7 triệu
đồng/tháng...
2. Các giải pháp:
- Tập trung nguồn lực kiềm chế lạm phát, để thu nhập của người dân trên danh nghĩa
không thấp xa so với thực tế.
- Chủ động điều hành linh hoạt lãi suất theo hướng giảm dần lãi suất cho vay đối với
các đối tượng chính sách, nông nghiệp, nông thôn, kiểm soát chặt tốc độ tăng trưởng tín
dụng, nhất là tín dụng bất động sản, phi sản xuất, ổn định tỷ giá ngoại tệ, vàng.
- Phát triển mạnh các ngành sản xuất, kinh doanh theo hướng tăng năng suất, chất
lượng và hiệu quả, đảm bảo tăng trưởng hợp lý. Đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí.
Chuyển mạnh đầu tư theo hướng ưu tiên vốn ngân sách cho các ngành, các lĩnh vực thiết
yếu để tăng nhanh năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, các Chương trình
mục tiêu Quốc gia (nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục mầm non..), bao
gồm cả đưa người lao động ở huyện nghèo đi lao động ở nước ngoài; Đầu tư cơ sở hạ tầng
ở cả cấp thôn/bản, xã, huyện;
22
23
- Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, chống đầu cơ, buôn lậu, tăng giá các mặt hàng
thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Bổ sung nguồn lực con người ở các cấp
quản lý và các tổ công tác cơ sở;
- Thực hiện tốt hơn các chính sách đảm bảo an sinh xã hội, bảo đảm cải thiện đời sống
dân cư, nhất là các đối tượng chính sách, các vùng nghèo, hộ nghèo và người làm công ăn
lương.
23
24
C.KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên ta thấy được thực trạng vấn đề phát triển bền vững ở
nước ta hiện nay.Phát triển bền vững là thách thức, là bài toán khó không chỉ với
nước ta mà còn với mọi quốc gia trên thế giới. Trong tình hiện nay thì phát triển bền
vững lại càng trở thành vấn đề cấp thiết với kinh tế ,xã hội của mọi quốc gia và đặc
biệt với môi trường, khí hậu toàn cầu . Vì thế, để có được một nền kinh tế phát triển
bền vững phải kết hợp nhiều yếu tố như môi trường, có cơ cấu kinh tế một cách hợp
lí,và đặc biệt là phải quan tâm đến việc cải thiện đời sống cho người dân.
24
25
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Giáo trình
1. PGS.TS Phạm Văn Dũng (chủ biên), TS. Vũ Thị Dậu, PGS.TS Mai Thị Thanh
Xuân, Giáo trình kinh tế chính trị
2.Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
3.Báo cáo quốc gia tại Hội nghị cấp cao của Liên Hợp Quốc về Phát triển bền vững
(RIO+20)
4. Tạp chí lao động và xã hội
5. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010
- Trang web
/> /> /> />Và một số trang khác
25