Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Nghiên cứu đánh giá trọng yếu trong kiểm toán BCTC của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán do các công ty kiểm toán độc lập Việt Nam thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.79 KB, 59 trang )

1
MỤC LỤC

DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

BCĐKT

Bảng cân đối kế tốn

BCKQKD

Báo cáo kết quả kinh doanh

BCTC

Báo cáo tài chính

CTNY

Cơng ty niêm yết

GTLV

Giấy tờ làm việc

KTV

Kiểm toán viên

TNHH


Trách nhiệm hữu hạn

TSCĐ

Tài sản cố định

TTCK

Thị trường chứng khoán

VACPA

Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam


2

BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ:
Sơ đồ 2.1: Các bước trong quy trình đánh giá trọng yếu
Bảng 3.1: Hướng dẫn xác định mức trọng yếu tổng thể PM theo hướng dẫn
của VACPA
Bảng 3.2: Bảng xác định mức trọng yếu ban đầu của công ty TNHH Deloitte
Việt Nam
Bảng 3.3: Hướng dẫn xác định mức trọng yếu tổng thể của công ty TNHH
Ernst & Young Việt Nam
Bảng 3.4 Một số chỉ tiêu so sánh giữa 2 công ty AASC và công ty An Phú
năm 2012
Bảng 3.5: Bảng cơ sở tính mức trọng yếu của AASC
Bảng 3.6: Nguyên tắc phân bổ tính trọng yếu tại AASC



3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi, ngày 11/7/1998, Chính phủ đã ký nghị
định 48/CP ban hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán, chính thức
khai sinh cho thị trường chứng khốn Việt Nam ra đời. Đến ngày 20/7/2000
Trung tâm giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh được đưa vào vận hành và
thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000. Từ thời điểm sơ khai
lúc mới thành lập, thị trường chứng khốn Việt Nam mới chỉ có 1 sàn giao dịch
chứng khốn và kèm theo đó là 2 doanh nghiệp niêm yết với 2 loại cổ phiếu
(REE-Công ty cổ phần Cơ điện lạnh và SAM-Công ty cổ phần Đầu tư và phát
triển Sacom) và một số ít trái phiếu chính phủ được niêm yết giao dịch. Nhưng
đến nay thị trường đã có 3 sàn giao dịch là sở giao dịch TP. Hồ Chí Minh,
trung tâm giao dịch Hà Nội và thị trường OTC, cùng với đó là hàng trăm cơng
ty được niêm yết.
Đó là những bước tiến đáng ghi nhận, tuy nhiên nó cũng đặt ra cho chúng ta
khơng ít thách thức, mà lớn nhất có lẽ là việc kiểm tra và xác minh tính chính
xác của các thơng tin được cơng bố trên báo cáo tài chính của các cơng ty được
niêm yết. Bởi đó chính là một thước đo quan trọng ảnh hưởng tới việc ra quyết
định của các nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư khơng am hiểu nhiều về
lĩnh vực tài chính. Hơn bao giờ hết vai trị của các cơng ty kiểm tốn càng được
coi trọng. Việc xác minh tính trung thực và hợp lý của thông tin trên BCTC
phụ thuộc rất lớn vào nghiệp vụ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của KTV
nói riêng và các cơng ty kiểm tốn nói chung. Mặc dù vậy, kiểm tốn cũng
khơng thể tiến hành kiểm tra tồn bộ thơng tin trên bào cáo tài chính nên địi
hỏi phải xác định những điều cơ bản, cốt yếu nhất của đối tượng để xác định
được bản chất của đối tượng, điều đó đặt ra nhu cầu đánh giá trọng yếu. Chính
vì vậy, đây là một vấn đề rất cấp thiết đang được đặt ra hiện nay.
Dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về kiểm tốn báo cáo tài chính được

cơng bố. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nào thực sự đi sâu vào vấn đề
nghiên cứu về đánh giá trọng yếu trong kiểm toán BCTC của các CTNY trên
TTCK do các công ty kiểm tốn độc lập Việt Nam thực hiện. Chính vì lẽ đó,
nhóm sinh viên chúng em quyết định chọn đề tài: “Nghiên cứu đánh giá trọng
yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính của các cơng ty niêm yết trên thị
trường chứng khốn do các cơng ty kiểm tốn độc lập Việt Nam thực
hiện” để nhằm đi sâu và làm rõ hơn về vấn đề này. Hy vọng, với những kiến
thức đã học được và sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô, đề tài nghiên cứu


4
khoa học của nhóm chúng em có thể góp một tiếng nói nhằm làm lành mạnh
hơn tính minh bạch của các thơng tin trên trường chứng khốn cịn non trẻ của
Việt Nam.
2. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề đánh giá trọng yếu trong kiểm toán
BCTC do các cơng ty kiểm tốn độc lập Việt Nam thực hiện đã nhận được
nhiều sự quan tâm của các học giả. Tại Việt Nam, có thể nói đến một số cơng
trình nghiên cứu như sau.
Luận án Tiến sĩ của tác giả Đoàn Thanh Nga tại Đại học Kinh tế Quốc dân
(2011). Với đề tài “ Nghiên cứu đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động trong các cơng ty kiểm tốn độc lập Việt Nam”
đã khẳng định tầm quan trọng của đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm tốn thơng
qua việc làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm
toán đến chất lượng kiểm toán. Luận án cũng đã chỉ ra một số tồn tại trong quá
trình đánh giá trọng yếu kiểm tốn của các cơng ty kiểm tốn độc lập Việt Nam
qua đó đề ra một số giải pháp rất thiết thực và phù hợp với điều kiện Việt Nam
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động trong các cơng ty kiểm tốn độc lập Việt
Nam.
Luận văn Thạc sĩ của tác giả Từ Thái Sơn tại Đại học Kinh tế Tp.Hồ Chí

Minh (2007) “ Nâng cao khả năng vận dụng tính trọng yếu trong kiểm tốn báo
cáo tài chính của hoạt động kiểm tốn độc lập tại Việt Nam”. Luận văn đã chỉ
ra sự khác biệt trong cách vận dụng chuẩn mực “Mức trọng yếu trong lập kế
hoạch và thực hiện kiểm toán” của Việt Nam (VSA 320) và cách vận dụng
chuẩn mực “Rủi ro kiểm toán và trọng yếu trong việc thực hiện kiểm toán” của
Hoa Kỳ (SAS 107) từ đó chỉ ra rằng cách vận dụng của Việt Nam chưa thực sự
hiệu quả, cần có thêm các hướng dẫn áp dụng trong đánh giá trọng yếu kiểm
toán chi tiết như Hoa Kỳ.
Luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thị Mỹ tại Đại học Kinh tế Quốc dân
(2012) “Hồn thiện kiểm tốn báo cáo tài chính của các cơng ty niêm yết trên
thị trường chứng khốn Việt Nam”. Luận án là một cơng trình nghiên cứu khá
cơng phu, đồ sộ về kiểm tốn BCTC các CTNY trên TTCK Việt Nam. Do
kiểm toán BCTC là một lĩnh vực rất rộng không thể cùng lúc nghiên cứu chi
tiết, cụ thể trên tất cả các khía cạnh nên việc đánh giá trọng yếu trong kiểm
toán BCTC với CTNY trên TTCK trong Luận án của tác giả - Nguyễn Thị Mỹ
mới chỉ dừng ở mức đánh giá chung, khái quát.


5
Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn chưa có đề tài nghiên cứu nào đi sâu vào khía
cạnh đánh giá trọng yếu trong kiểm tốn báo cáo tài chính của các cơng ty niêm
yết trên thị trường chứng khốn, đặc biệt do các cơng ty kiểm tốn độc lập của
Việt Nam tiến hành.
3. Mục tiêu và ý nghĩa nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cứu cụ thể hóa lý luận chung về đánh
giá trọng yếu của kiểm toán vào kiểm toán BCTC các CTNY trên TTCK Việt
Nam, qua đó đưa ra một số biện pháp để hoàn thiện việc đánh giá trọng yếu
trong kiểm tốn các CTNY do các cơng ty kiểm tốn độc lập Việt Nam thực
hiện. Qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty kiểm toán

độc lập tại Việt Nam.
Cụ thể, đề tài sẽ tiến hành theo các mục tiêu sau:
Về lý luận: đề tài tập trung vào làm rõ bản chất của trọng yếu và quy trình
đánh giá trọng yếu trong kiểm tốn BCTC của các CTNY trên TTCK.
Về thực tiễn: đề tài tập trung vào việc nghiên cứu, phân tích về thực trạng
đánh giá trọng yếu kiểm toán của các CTNY trên TTCK do các cơng ty kiểm
tốn độc lập Việt Nam thực hiện.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá các vấn đề trên, đề tài đưa ra phương hướng
và giải pháp nhằm hồn thiện đánh giá trọng yếu kiểm tốn BCTC của các
CTNY trên TTCK do các cơng ty kiểm tốn độc lập Việt Nam thực hiện
3.2 Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Đề tài đã đưa ra được một cái nhìn tổng qt đồng thời cũng hướng người
quan tâm có cái nhìn và nhận thức đúng đắn hơn đối với khái niệm trọng yếu
cũng như tầm quan trọng của việc vận dụng trọng yếu trong kiểm toán BCTC
với hoạt động kiểm toán độc lập mà khách thể là các CTNY trên TTCK.
Thơng qua việc tìm hiểu về thực trạng đánh giá trọng yếu trong kiểm toán
BCTC của các CTNY trên TTCK do các cơng ty kiểm tốn độc lập Việt Nam
thực hiện, Đề tài có đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện
khung pháp lý và nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt
Nam, góp phần làm lành mạnh nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
nền kinh tế xã hội.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đề trên, nhóm em đưa các câu hỏi
nghiên cứu tương xứng như sau:


6
Câu hỏi 1: Bản chất của trọng yếu trong kiểm tốn là gì và quy trình đánh
giá trọng yếu trong kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK diễn ra như thế
nào?

Câu hỏi 2: Các cơng ty kiểm tốn độc lập ở Việt Nam thực hiện quy trình
đánh giá trọng yếu như thế nào với khách thể là các CTNY trên TTCK?
Câu hỏi 3: Giải pháp nào được đưa ra để hồn thiện quy trình đánh giá trọng
yếu trong kiểm tốn BCTC của các CTNY trên TTCK do các cơng ty kiểm
toán độc lập Việt Nam thực hiện?
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận trọng yếu
trong kiểm tốn BCTC của các doanh nghiệp, từ đó đi sâu đánh giá trọng yếu
trong kiểm toán BCTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam.
CTNY được nhóm lựa chọn trong đề tài là các công ty cổ phần – công ty
được phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng
Về phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về đánh giá trọng yếu trong kiểm
tốn BCTC của các CTNY (cơng ty cổ phần) trên TTCK do các cơng ty kiểm
tốn độc lập thực hiện. Các cơng ty kiểm tốn độc lập được nhóm chia thành 2
nhóm trong q trình lựa chọn để khảo sát, thu thập dữ liệu là nhóm các công
ty Big 4 (Công ty TNHH Deloitte Việt Nam và Cơng ty TNHH Ernst &Young
Việt Nam) và nhóm các cơng ty ngồi Big 4 (Cơng ty Hãng kiểm tốn AASC,
Cơng ty TNHH Kiểm tốn An Phú.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong đề tài là thu thập, tổng
hợp và phân tích thơng tin kết hợp với so sánh, đánh giá giữa các thông tin thu
thập được.
7. Bố cục của đề tài
Đề tài gồm 50 trang 07 bảng biểu 02 phụ lục chia làm 4 chương.
Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về đánh giá trọng yếu trong kiểm tốn báo cáo tài
chính của các cơng ty niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Chương 3: Thực trạng đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
của các cơng ty niêm yết trên thị trường chứng khốn do các cơng ty kiểm tốn
độc lập Việt Nam thực hiện

Chương 4: Thảo luận về kết quả nghiên cứu và đề xuất giải pháp hoàn thiện
đánh giá trọng yếu trong kiểm tốn báo cáo tài chính của các công ty niêm yết


7
trên thị trường chứng khốn do các cơng ty kiểm toán độc lập Việt Nam thực
hiện


8
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU TRONG
KIỂM TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC CƠNG TY NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
2.1 Bản chất của trọng yếu trong kiểm toán
Theo từ điển Tiếng Việt: Trọng yếu là một tính từ chỉ sự quan trọng. Trong
các lĩnh vực khác nhau, trọng yếu lại mang ý nghĩa riêng.
Khái niệm trọng yếu trước hết được nhắc tới trong nguyên tắc trọng yếu của
kế toán. Theo nguyên tắc này, kế toán phải thu thập, xử lý và cung cấp đầy đủ
những thơng tin có tính chất trọng yếu. Thơng tin được coi là trọng yếu nếu
thiếu thông tin hoặc thiếu độ chính xác của thơng tin đó thì sẽ làm sai lệch
đáng kể báo cáo tài chính, gây ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng
thông tin.
Trong lĩnh vực kiểm toán, khái niệm trọng yếu được hiểu như sau:
Theo Văn bản Chỉ đạo Kiểm Toán Quốc Tế Số 25 (IAG 25) về “Trọng yếu
và rủi ro kiểm toán” Liên đồn Kế tốn Quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố:
“Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ và bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) của
thơng tin tài chính hoặc là đơn lẻ hoặc là từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể
nếu dựa vào các thơng tin này để xét đốn thì khơng chính xác hoặc là sẽ rút ra
kết luận sai lầm”.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 320 “Mức trọng yếu trong lập kế

hoạch và thực hiện kiểm tốn” thì trọng yếu được hiểu: “Là thuật ngữ dùng để
thể hiện tầm quan trọng của một thơng tin (một số liệu kế tốn) trong BCTC.
Thơng tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thơng tin đó hoặc thiếu
tính chính xác của thơng tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử
dụng BCTC. Mức trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng và tính chất của
thơng tin hay của sai lệch được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng
yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin
cần phải có. Tính trọng yếu của thơng tin phải xem xét cả trên phương diện
định lượng và định tính”.
Như vậy, trọng yếu trong mối quan hệ với nội dung kiểm toán có thể hiểu là
khái niệm chung chỉ tầm cỡ và tính hệ trọng của phần nội dung cơ bản của
kiểm tốn có ảnh hưởng đến tính đúng đắn của việc nhận thức và đánh giá đối
tượng kiểm toán và sử dụng việc đánh giá đó để ra quyết định quản lý. Trên
góc độ người sử dụng thơng tin, một thơng tin được coi là trọng yếu và cần
phải trình bày trên BCTC khi nó có khả năng ảnh hưởng đến quyết định của


9
người sử dụng thơng tin đó. Trong khái niệm trọng yếu bao gồm hai mặt: quy
mô và bản chất của khoản mục.
Về mặt quy mô, đây là một nhân tố quan trọng để xác định tính trọng yếu
của sai phạm. Tuy nhiên, trong kiểm tốn rất khó có thể ấn định con số cụ thể
về tầm cỡ cho những điểm cốt yếu của nội dung kiểm toán, đặc biệt khi có yếu
tố tiềm ẩn. Vì vậy ranh giới của quy mơ khác nhau của đối tượng kiểm tốn
được xem xét chủ yếu trong quan hệ với mức độ ảnh hưởng của các khoản
mục, các hoạt động đến kết luận kiểm tốn từ đó ảnh hưởng tới việc ra quyết
định của người sử dụng thơng tin đã được kiểm tốn. Quy mô bao gồm hai loại
là quy mô tuyệt đối và quy mô tương đối.
Quy mô tuyệt đối là việc KTV sử dụng con số tuyệt đối để đánh giá tính
trọng yếu. Nhưng KTV ít khi sử dụng con số tuyệt đối như một tiêu chuẩn để

đánh giá tính trọng yếu, vì với một con số cụ thể có thể trọng yếu đối với công
ty này nhưng lại quá nhỏ đối với công ty khác.
Quy mô tương đối là mối quan hệ tương quan giữa đối tượng cần đánh giá
với một số gốc. Tùy từng trường hợp cụ thể mà số gốc được lựa chọn sao cho
phù hợp. Với BCKQKD, số gốc thường được chọn là khoản mục lợi nhuận sau
thuế, bình quân thu nhập trong những năm gần đây; với BCĐKT, số gốc có thể
là tài sản cố định, tài sản lưu động… Ngoài ra, khi xem xét về quy mơ của tính
trọng yếu, KTV cần phải chú ý khơng chỉ quy mô tuyệt đối hay quy mô tương
đối mà còn phải cân nhắc cả sự ảnh hưởng lũy kế của đối tượng cần xem xét.
Chẳng hạn, có nhiều sai phạm khi xem xét chúng một cách cơ lập thì chúng
không đủ trọng yếu do quy mô nhỏ nhưng nếu cộng dồn tất cả các sai phạm sẽ
phát hiện sự liên quan và tính hệ thống của sai phạm và khi đó phát hiện tính
trọng yếu của chúng.
Về mặt bản chất, khái niệm trọng yếu gắn với tính hệ trọng của vấn đề cần
xem xét. Một yếu tố định tính quan trọng cần xem xét đó là bản chất của khoản
mục hoặc vấn đề đang được đánh giá.
Liên quan đến bản chất, tất cả các hoạt động, khoản mục được xem là trọng
yếu thường bao gồm:
Thứ nhất, các khoản mục, hoạt động có gian lận hoặc chứa đựng khả năng
gian lận như:
- Các hoạt động đấu thầu và giao thầu, giao dịch không hợp pháp: đây là các
khoản mục không được pháp luật cho phép nên rất dễ để các bên hối lộ,
tham ô tài sản nhằm tư lợi.


10
- Các hoạt động thanh lý tài sản: do các hoạt động này thường có sự cấu kết
giữa bên thanh lý và bên mua nhằm khai khống giá trị còn lại của các tài
sản.
- Các hoạt động về tiền mặt: tiền mặt có khả năng vận chuyển dễ dàng và có

giá trị theo thời gian, do đó khoản mục này dễ bị gian lận để sinh lợi.
- Các hoạt động mua bán và thanh tốn: có thể có sự thỏa thuận về giá của
bên bán và bên mua nhằm kiếm lợi cho bản thân nên cũng chứa đựng khả
năng gian lận cao.
- Các hoạt động bất thường: là các hoạt động xảy ra khơng thường xun do
đó khả năng gian lận cũng rất cao.
- Các hoạt động phân chia quyền lợi: thường xảy ra gian lận do các bên đều
muốn mang lại lợi ích cho mình.
- Các hoạt động cố ý bỏ ngoài sổ sách: các hoạt động này là biểu hiện rõ
ràng của sự gian lận khi không phản án nghiệp vụ phát sinh vào sổ sách.
- Các hoạt động xảy ra vào cuối kỳ quyết toán hoặc thuộc loại hoạt động mới
phát sinh: đây là các hoạt động xảy ra vào thời điểm gần ngày công bố các
báo cáo tài chính nên chứa đựng khả năng gian lận cao.
- Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa: các khoản mục này thông tin đã bị
sai lệch nên nhiều khả năng sẽ xảy ra gian lận.
Thứ hai, các nghiệp vụ và khoản mục có sai sót hệ trọng như:
- Các khoản mục, hoạt động phát hiện có sai sót ở quy mơ lớn hoặc có chênh
lệch lớn với các kỳ trước hoặc giữa các nguồn thơng tin có liên quan:
thường gây ảnh hưởng lớn đến thơng tin kế tốn do quy mơ tính chất của
các sai sót.
- Các hoạt động vi phạm quy tắc kế toán và pháp lý nói chung: các khoản
mục này do lỗi khơng cố ý nhưng khi xảy ra dễ kéo theo sai phạm hàng loạt
ở các khoản mục khác.
- Các hoạt động, khoản mục có sai sót lặp lại nhiều lần: đây là những sai sót
hệ trọng do bị lặp lại dễ làm cho thông tin các kỳ sau cũng bị ảnh hưởng.
- Các hoạt động, khoản mục có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau: Các
khoản mục liên quan đến nhiều kỳ kế tốn nếu xảy ra sai sót sẽ làm cho
thơng tin kế tốn khơng chính xác ở cả 2 kỳ điều này có thể dẫn đến những
sai sót hệ trọng.



11
- Các hoạt động, khoản mục là đầu mối hoặc gây hậu quả liên quan đến
nhiều hoạt động, khoản mục khác: các khoản mục này nếu sai sót dễ kéo
theo những sai sót khác lớn hơn do đó sai sót này là trọng yếu.
Để đánh giá một cách toàn diện, KTV khơng chỉ cần xem xét mặt quy mơ
mà cịn phải xem xét cả mặt bản chất của đối tượng kiểm toán. Tất cả các
khoản mục, hoạt động thuộc về bản chất của đối tượng kiểm toán đều liên quan
trực tiếp đến nhận thức đúng đối tượng và đưa ra ý kiến kiểm tốn. Vì vậy, về
ngun tắc khơng được bỏ qua khoản mục hay đối tượng nào.
Như vậy, khái niệm trọng yếu đã đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm tốn
với ngun tắc là khơng bỏ sót các khoản mục, các hoạt động có quy mơ lớn và
có tính hệ trọng. Vi phạm ngun tắc này sẽ tạo rủi ro kiểm toán.
2.2 Đánh giá trọng yếu trong kiểm tốn tài chính
2.2.1 Ý nghĩa của việc đánh giá trọng yếu
Trong kiểm tốn, việc kiểm tra hết tồn bộ chứng từ thông tin về các hoạt
động của doanh nghiệp hầu như là một điều không thể do giới hạn về chi phí,
thời gian của cuộc kiểm tốn. Chính vì thế KTV khơng thể xác định tồn bộ
các sai phạm có thể xảy ra, đặc biệt với các CTNY trên TTCK việc cố tình gian
lận để làm đẹp BCTC càng có xu hướng diễn ra nghiêm trọng hơn. Do đó việc
xác lập mức trọng yếu sẽ giúp KTV đảm bảo rằng các sai lệch trên BCTC sau
khi đã kiểm toán không ảnh hưởng đến các quyết định kinh tế của người sử
dụng BCTC. Đối với các CTNY thì điều đó càng có ý nghĩa quan trọng hơn vì
thơng tin của các công ty này được công bố công khai đến đơng đảo cơng
chúng, nhà đầu tư có quan tâm. Chất lượng của các BCTC sẽ ảnh hưởng rất lớn
đến quyết định đầu tư của họ, do đó việc hạn chế các sai sót, gian lận thơng qua
đánh giá trọng yếu sẽ làm lành mạnh TTCK, loại bỏ các công ty yếu kém thơng
qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.2.2 Quy trình đánh giá trọng yếu trong kiểm tốn tài chính
Tính trọng yếu có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc lập kế hoạch kiểm toán

và thiết kế chương trình kiểm tốn cũng như việc đưa ra kết luận kiểm toán. Sơ
đồ sau đây sẽ khái quát quy trình đánh giá tính trọng yếu trong một cuộc kiểm
toán:


12

Sơ đồ 2.1: Các bước trong quy trình đánh giá trọng yếu
Bước 1

Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu

Bước 2

Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng
yếu của từng khoản mục

Bước 3

Ước tính tổng số sai sót cho từng khoản
mục

Bước 4

Ước tính sai số kết hợp của tồn bộ
BCTC

Bước 5

Sai số tổng hợp ước tính với ước lượng

ban đầu (hoặc đã điều chính) về tính trọng
yếu

Lập kế hoạch cho các phạm
vi thử nghiệm kiểm toán

Đánh giá các kết quả

Trong năm bước thực hiện trên, bước 1 và 2 được thực hiện trong giai đoạn
lập kế hoạch cho các phạm vi thử nghiệm kiểm toán. Ba bước sau trong giai
đoạn thực hiện và kết thúc cuộc kiểm toán.
2.2.2.1 Ước lượng ban đầu về mức trọng yếu
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà KTV tin rằng ở
mức đó các BCTC có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến quyết định
của người sử dụng thơng tin tài chính. Nói cách khác, đó là sai sót có thể chấp
nhận được với tồn bộ BCTC.
Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu giúp KTV lập kế hoạch thu thập
bằng chứng kiểm toán thích hợp. Cụ thể, khi KTV ước lượng mức trọng yếu
càng thấp, nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên BCTC càng cao thì số
lượng bằng chứng kiểm toán phải thu thập càng nhiều và ngược lại.
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu khơng cố định mà có thể thay đổi trong
q trình kiểm tốn nếu KTV thấy rằng mức ước lượng ban đầu là quá cao hoặc
quá thấp hoặc một trong các nhân tố dùng để xác định mức ước lượng ban đầu
về tính trọng yếu bị thay đổi. VSA 320 về “Mức trọng yếu trong lập kế hoạch
và thực hiện kiểm tốn” có quy định: “Kết quả đánh giá mức trọng yếu và rủi ro
kiểm toán của KTV ở thời điểm lập kế hoạch kiểm tốn ban đầu có thể khác với
kết quả đánh giá ở các thời điểm khác nhau trong quá trình kiểm toán. Sự khác


13

nhau này là do sự thay đổi tình hình thực tế hoặc sự thay đổi về sự hiểu biết của
KTV về đơn vị được kiểm toán dựa trên kết quả kiểm toán đã thu thập được,
như: trường hợp lập kế hoạch kiểm tốn trước khi kết thúc năm tài chính, KTV
đã đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm tốn căn cứ trên dự tính trước kết quả
hoạt động và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu tình hình tài chính thực
tế và kết quả hoạt động của doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể so với dự tính,
thì việc đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm tốn sẽ có thay đổi. Hơn nữa,
trong khi lập kế hoạch kiểm toán, KTV thường ấn định mức trọng yếu có thể
chấp nhận được thấp hơn so với mức sử dụng để đánh giá kết quả kiểm toán
nhằm tăng khả năng phát hiện sai sót.
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là việc làm mang tính xét đoán nghề
nghiệp của KTV. KTV sẽ căn cứ vào các nhân tố ảnh hưởng đến trọng yếu (xét
cả về mặt định lượng và định tính) để đưa ra ước tính ban đầu về mức trọng yếu
với toàn bộ BCTC.
Trên thực tế, để hỗ trợ các KTV trong việc đánh giá mức trọng yếu này, các
cơng ty kiểm tốn thường đưa ra những hướng dẫn về việc lựa chọn các chỉ tiêu
làm số gốc và tỷ lệ tính trong các trường hợp cụ thể. KTV dựa vào các hướng
dẫn này để tính được mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu.
Tổng tài sản, tổng doanh thu, thu nhập thuần trước thuế, tài sản lưu động,
tổng vốn dài hạn, nợ ngắn hạn,… là những chỉ tiêu thường được KTV sử dụng
để làm số gốc trong ước lượng mức trọng yếu. Ưu điểm của việc sử dụng tổng
tài sản hoặc tổng doanh thu là các chỉ tiêu này thường ít biến động qua các năm
tài chính. Chỉ tiêu thu nhập thuần hoặc bình quân thu nhập thuần của mấy năm
gần đây cũng được xem như một thông tin then chốt nhất đối với người sử dụng
BCTC. Tuy nhiên, các con số tính toán này sẽ được điều chỉnh tăng lên hoặc
giảm xuống tùy thuộc vào các nhân tố định tính có liên quan đến cuộc kiểm
toán. Chẳng hạn, mức trọng yếu này có thể được điều chỉnh tăng lên do các nhân
tố định tính có lợi như: kết quả lần kiểm tốn trước (lần kiểm tốn trước phát
hiện ít các sai phạm, khơng có biểu hiện của hành vi gian lận, khơng có các hoạt
động phi pháp, vi phạm hợp đồng); tình hình tài chính khả quan; doanh nghiệp

hoạt động trong lĩnh vực ngành nghề kinh doanh phát triển. Ngược lại, mức
trọng yếu này sẽ được giảm xuống nếu các nhân tố định tính khơng thuận lợi
như: kết quả kiểm tốn trước có nhiều sai phạm trọng yếu; doanh nghiệp gặp
khó khăn trong kinh doanh, ngành nghề kinh doanh đang suy thoái, xuất hiện
thêm đối thủ cạnh tranh, môi trường kinh doanh khơng thuận lợi, có các dấu


14
hiệu của hành vi gian lận, vi phạm pháp luật, chế độ và các chuẩn mực kế toán,
vi phạm các điều khoản hợp đồng.
2.2.2.2 Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục
Sau khi KTV đã có được mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho toàn
bộ BCTC, KTV cần phân bổ mức ước lượng này cho từng khoản mục trên
BCTC. Đó cũng là sai số có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục.
Do kế toán thực hiện theo nguyên tắc ghi sổ kép nên nếu một sai phạm ảnh
hưởng tới BCKQKD thì hầu như cũng có ảnh hưởng tới BCĐKT. Vì thế, khi
thực hiện phân bổ ước lượng về tính trọng yếu cho các khoản mục trên BCTC,
KTV có thể phân bổ hoặc cho các tài khoản trên BCKQKD, hoặc cho các tài
khoản trên BCĐKT. Tuy nhiên, hầu hết các thủ tục kiểm toán tập trung vào các
tài khoản trên BCĐKT nên KTV thường phân bổ mức ước lượng cho các tài
khoản trên BCĐKT.
Việc phân bổ được thực hiện theo cả hai chiều hướng mà các sai phạm có thể
diễn ra: đó là tình trạng khai khống (số liệu trên sổ sách lớn hơn trên thực tế).
Cơ sở tiến hành phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản
mục trên BCTC là:
- Bản chất các khoản mục, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá
sơ bộ đối với các khoản mục. Nếu khoản mục được đánh giá là có rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm sốt cao thì mức trọng yếu được phân bổ cho khoản mục đó
sẽ thấp và ngược lại.
- Kinh nghiệm của KTV về các sai phạm khoản mục dựa trên kết quả của lần

kiểm toán trước và một số nhân tố khác dẫn đến một giá trị trọng yếu lớn hơn có
thể phân bổ cho khoản mục này. Do dự đoán của KTV về khả năng sai phạm
thấp nên phạm vi kiểm tốn có thể giảm đi.
- Chi phí kiểm tốn đối với các khoản mục: Chi phí kiểm tốn có ảnh hưởng
đến việc xác định mức trọng yếu. Khi chi phí kiểm tốn thấp phạm vi kiểm tốn
sẽ được thu hẹp lại và do đó KTV phải chấp nhận mức trọng yếu cao. Ngược lại,
khi chi phí kiểm toán cao hơn, phạm vi kiểm toán sẽ được mở rộng làm cho mức
trọng yếu được điều chỉnh thấp hơn.
Trong thực thế, việc phân bổ mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho
các bộ phận thường gặp phải các khó khăn sau:
Thứ nhất, số lượng các sai phạm trong các bộ phận, khoản mục không đồng
đều; các khoản mục có cùng số dư tại ngày lập BCTC nhưng mức độ tiềm ẩn sai


15
phạm khác nhau nên mức độ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cũng khác
nhau.
Thứ hai, việc phân bổ cần phải được thực hiện theo cả hai hướng khai khống
và khai thiếu. Tuy nhiên, việc dự đoán bộ phận, khoản mục nào có khả năng sai
sót, sai sót đó là sai sót thừa hay sai sót thiếu vẫn là một khó khăn.
Thứ ba, giới hạn về chi phí kiểm tốn có liên quan phân bổ mức trọng yếu:
Khi chi phí kiểm tốn thấp KTV thường tập trung vào các khoản mục có tính
trọng yếu cao và có thể bỏ qua các khoản mục các khoản mục không trọng yếu
hoặc tính trọng yếu thấp từ đó KTV sẽ xác định tỷ lệ phân bổ mức trọng yếu ở
mức cao cho các khoản mục. Ngược lại, khi chi phí kiểm tốn cao, KTV sẽ kiểm
tra hầu hết các khoản mục có tính trọng yếu để đảm bảo tính trung thực hợp lý
của thơng tin từ đó, tỷ lệ xác định phân bổ trọng yếu khoản mục sẽ ở mức thấp.
Tuy nhiên trên thực tế, rất khó dự đốn về khả năng sai sót cũng như chi phí
kiểm tốn cho từng khoản mục nên cơng việc này mang tính chủ quan và địi hỏi
sự xét đốn nghề nghiệp của KTV.

Nhìn chung, việc ước lượng ban đầu về mức trọng yếu và phân bổ mức ước
lượng này cho các khoản mục được thực hiện ở các hai bước trên là vấn đề phức
tạp, phụ thuộc vào kinh nghiệm và xét đoán nghề nghiệp của KTV. Do đó, KTV
có trình độ chun mơn cao thường được phân công thực hiện công việc này.
2.2.2.3 Ước lượng tổng sai phạm cho từng khoản mục
Mức trọng yếu phân bổ cho các bộ phận, khoản mục là mức sai phạm tối đa
có thể bỏ qua đối với các bộ phận hay khoản mục đó. Khi tiến hành kiểm toán
từng khoản mục, từng bộ phận của BCTC, KTV dựa trên những sai phạm phát
hiện được trong mẫu để ước tính sai phạm tồn bộ khoản mục, bộ phận. Tổng
sai phạm đối với khoản mục được dùng để so sánh với sai phạm có thể bỏ qua,
quyết định khả năng chấp nhận thơng tin của khoản mục đó hoặc phải tiếp tục
tiến hành thêm thủ tục kiểm tra thích hợp.
2.2.2.4 Ước tính sai phạm kết hợp của báo cáo tài chính
Trên cơ sở ước lượng tổng số sai phạm trong từng khoản mục, KTV tổng hợp
sai phạm của các khoản mục trên BCTC. Con số tổng hợp này sẽ được dùng để
so sánh với ước lượng ban đầu về trọng yếu hoặc ước lượng ban đầu đã được
điều chỉnh.


16
2.2.2.5 So sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng sơ bộ về tính trọng
yếu (hoặc ước lượng đã được điều chỉnh)
Sai phạm tổng hợp của toàn bộ BCTC (kết quả bước 4) sẽ được so sánh với
ước lượng ban đầu về mức trọng yếu của toàn bộ BCTC hoặc ước lượng ban đầu
về mức trọng yếu đã được điều chỉnh trong q trình kiểm tốn. Việc so sánh
này cho phép đánh giá toàn bộ các sai phạm trong các khoản mục có vượt giới
hạn về mức trọng yếu chung cho tồn bộ BCTC hay khơng. Trong q trình này,
KTV cần kết hợp với việc so sánh tổng số sai phạm trong từng khoản mục (kết
quả bước 3) với sai số được phân bổ cho khoản mục đó (kết quả bước 2).
Khi tiến hành công việc so sánh này sẽ có hai trường hợp xảy ra:

Trường hợp 1: nếu sai số tổng hợp ước tính cho tồn bộ BCTC nhỏ hơn mức
ước lượng ban đầu (hoặc đã được điều chỉnh) về tính trọng yếu thì KTV sẽ
khơng phải thực hiện thêm các thử nghiệm kiểm tốn và có thể đưa ra ý kiến
chấp nhận toàn phần về BCTC.
Trường hợp 2: nếu sai số tổng hợp ước tính cho toàn bộ BCTC gần bằng (đảm
bảo nguyên tắc thận trọng, hạn chế rủi ro kiểm toán) hoặc lớn hơn mức ước
lượng ban đầu (hoặc đã được điều chỉnh) về tính trọng yếu thì KTV sẽ xem xét
xem có khoản mục nào có tổng số sai phạm ước tính cao. Đối với những khoản
mục này, KTV sẽ tăng cường các thủ tục kiểm tốn và mở rộng quy mơ mẫu
chọn để phát hiện thêm các sai phạm có bằng chứng chắc chắn để yêu cầu khách
hàng điều chỉnh và khẳng định lại ước tính về tổng số sai phạm của khoản mục
đó. Nếu khách hàng khơng chấp nhận điều chỉnh và các thủ tục kiểm tốn bổ
sung vẫn khẳng định có sai phạm trọng yếu trong khoản mục này thì KTV sẽ
đưa ra kết luận kiểm toán thuộc loại ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến bác
bỏ.
Như vậy, để quá trình đánh giá trọng yếu được hiệu quả, KTV phải có đủ
kinh nghiệm, trình độ và sự xét đốn nghề nghiệp. Quá trình đánh giá này phải
được thực hiện một cách linh hoạt mỗi khi có thơng tin thay đổi từ phía khách
hàng để tiết kiệm chi phí kiểm tốn nhưng vẫn đảm bảo chất lượng cuộc kiểm
tốn. Thơng thường các cơng ty kiểm tốn thường đưa ra những hướng dẫn cụ
thể cho qui trình đánh giá tính trọng yếu trên cơ sở các quy định chuẩn mực
kiểm toán quốc tế, và chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành.


17
2.3 Đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính của các cơng ty
niêm yết trên thị trường chứng khốn
2.3.1 Đặc điểm của các cơng ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
Niêm yết chứng khoán là việc đưa các chứng khốn có đủ tiêu chuẩn vào
đăng ký và giao dịch tại thị trường giao dịch tập trung. Để được niêm yết trên thị

trường, công ty xin niêm yết phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của
pháp luật. Khi đã có chứng khốn được niêm yết trên thị trường, CTNY cũng
phải tuân thủ một số yêu cầu như nghĩa vụ công bố thông tin, BCTC phải được
kiểm toán… để đảm bảo TTCK hoạt động hiệu quả. Ở mỗi quốc gia trên thế giới
có những quy định pháp luật khác nhau về các CTNY trên TTCK từ đó hình
thành nên các đặc điểm riêng của các CTNY. Song nhìn chung, các CTNY trên
TTCK có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, CTNY là loại công ty cổ phần, có hai loại chứng khốn mà cơng ty
được phép phát hành để tăng vốn đó là cổ phiếu và trái phiếu. Cơng ty cổ phần
là loại hình doanh nghiệp chịu trách nhiệm trước các khoản nợ và nghĩa vụ tài
sản của công ty trong phạm vi giá trị tài sản của công ty, vốn điều lệ được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, các cổ đông là các tổ chức và các cá
nhân sở hữu cổ phần của công ty.
Thứ hai, cổ phiếu của CTNY được sở hữu bởi số lượng lớn cổ đông và có sự
biến động liên tục do việc mua bán theo quy luật cung cầu. Nơi diễn ra các hoạt
động mua bán chứng khoán của CTNY là tại sở giao dịch chứng khoán hoặc
trung tâm giao dịch chứng khoán .
Thứ ba, các CTNY thường có quy mơ hoạt động lớn, nhiều chi nhánh và
thường kinh doanh đa ngành nghề, tính chất phức tạp. Điều này làm cho các
CTNY thường gặp phải nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh cũng
như trong quản lý.
Thứ tư, khi niêm yết chứng khoán trên TTCK, số lượng và trình độ người
quan tâm đến thơng tin tài chính của CTNY rất lớn và phức tạp: những người
tham gia mua bán chứng khoán sẽ phải xem xét, đánh giá và sử dụng thơng tin
tài chính nhiều hơn, đa dạng hơn và phức tạp hơn.
2.3.2 Đặc điểm kiểm tốn báo cáo tài chính của các cơng ty niêm yết trên
thị trường chứng khoán
Kiểm toán BCTC là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về tính trung thực
và hợp lý của các thơng tin trên BCTC của các đơn vị được kiểm toán bằng hệ
thống phương pháp khoa học của kiểm toán chứng từ và kiểm tốn ngồi chứng



18
từ do các KTV có đủ năng lực và trình độ chuyên môn tương xứng thực hiện
trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực. Kiểm tốn BCTC nhìn chung có 3 giai
đoạn chính: lập kế hoạch kiểm tốn, thực hiện kiểm toán, kết thúc kiểm toán.
Đối với khách thể kiểm toán là các CTNY, các đặc điểm riêng của những công
ty này đã ảnh hưởng đến đặc điểm kiểm toán BCTC của các CTNY như sau:
Về chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến, kiểm toán BCTC của các CTNY
trên TTCK hướng đến cơng khai tài chính giữa các bên có lợi ích khác nhau như
nhà đầu tư, đối tác, ngân hàng, cơ quan Nhà nước,.. do đó, việc thu thập bằng
chứng đầy đủ, tin cậy về tình hình hoạt động của các cơng ty được qn triệt
trong suốt quá trình thực hiện chức năng chung của kiểm toán.
Về đối tượng kiểm toán, kiểm toán BCTC của các CTNY hướng đến đối
tượng là bảng khai tài chính của các CTNY trên TTCK. Những bảng khai tài
chính này tổng hợp, phản ánh rất nhiều thông tin về mối quan hệ kinh tế, pháp lý
cụ thể mà công ty có liên quan. Việc xem xét các mặt các yếu tố trong thực trạng
tài chính chỉ trên góc độ có liên quan đến các thông tin trên bảng khai tài chính
và được chọn lọc qua điều tra, phân tích thực tế tại các CTNY trên TTCK.
Về phương pháp kiểm toán, phương pháp kiểm toán cơ bản khi kiểm toán
BCTC của các CTNY trên TTCK là phương pháp kiểm toán chứng từ và ngồi
chứng từ để hình thành các trắc nghiệm kiểm tốn nhằm tìm hiểu, đánh giá tình
hình hoạt động và hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ của các công ty.
Về quan hệ chủ thể với khách thể, kiểm toán BCTC của các CTNY trên
TTCK là hoạt động bắt buộc và do các cơng ty kiểm tốn độc lập thực hiện.
Quan hệ giữa chủ thể và khách thể là quan hệ ngoại kiểm, và giữa chủ thể trực
tiếp là các KTV với khách thể cần có sự độc lập theo đúng với những quy định
nêu trong hệ thống chuẩn mực kiểm tốn.
Về trình tự kiểm tốn, trình tự kiểm toán BCTC của các CTNY gồm 3 giai
đoạn cơ bản theo trình tự chung của một cuộc kiểm tốn:

Giai đoạn lập kế hoạch kiểm tốn: thu thập thơng tin và tìm hiểu về khách thể
kiểm tốn để nhận biết những rủi ro tiềm ẩn khi thiết kế thủ tục kiểm toán, đánh
giá mức trọng yếu và lựa chọn rủi ro kiểm tốn mong muốn, tìm hiểu về hệ
thống kiểm soát nội bộ, thiết kế các thủ tục kiểm toán.
Giai đoạn thực hiện kiểm toán: là giai đoạn trung tâm và quan trọng trong q
trình kiểm tốn, trong giai đoạn này, KTV sẽ sử dụng phương pháp, kỹ thuật
kiểm tốn thích hợp để thu thập bằng chứng kiểm tốn.


19
Giai đoạn kết thúc kiểm toán: đưa ra kết luận kiểm toán, lập báo cáo kiểm
toán và giải quyết các công việc phát sinh sau khi lập báo cáo kiểm toán. Với
khách thể là các CTNY, các KTV cần lựa chọn dạng ý kiến kiểm tốn một cách
thích hợp và thận trọng . Đồng thời, các dạng ý kiến còn bị tác động từ yêu cầu
của Ủy ban Chứng khoán bên cạnh quy định nghề nghiệp kiểm toán.
2.3.3 Đặc điểm đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính của
các cơng ty niêm yết trên thị trường chứng khốn
Như đã trình bày ở trên, việc đánh giá trọng yếu trong kiểm toán BCTC của
các CTNY trên TTCK nằm trong cả ba giai đoạn của q trình kiểm tốn. Trong
các giai đoạn này, KTV phải đánh giá mức độ trọng yếu để ước tính mức độ sai
phạm của BCTC có thể chấp nhận được, xác định phạm vi của cuộc kiểm toán
và đánh giá ảnh hưởng của các sai phạm lên BCTC để từ đó xác định bản chất,
thời gian, phạm vi cần khảo sát (thử nghiệm) kiểm toán. Ở đây, KTV cần đánh
giá mức trọng yếu cho toàn bộ BCTC và phân bổ đánh giá đó cho từng khoản
mục trên BCTC. Với khách thể là các CTNY trên TTCK thì việc đánh giá trọng
yếu thường có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, việc ước tính ban đầu về trọng yếu với các CTNY thường được
đánh giá kỹ lưỡng hơn so với công ty không niêm yết. Việc ước lượng mức
trọng yếu tối đa-tối thiểu tùy thuộc vào chương trình kiểm tốn dựa trên nhân tố
ảnh hưởng: nhân tố định lượng (quy mô) và nhân tố định tính (tính hệ trọng).

Thơng thường, khi kiểm tốn BCTC của các CTNY, các KTV ước lượng ban
đầu về mức trọng yếu thấp hơn các khách hàng khác cùng loại, cùng quy mô mà
không niêm yết.
Thứ hai, khi tiến hành phân bổ mức trọng yếu cho các khoản mục KTV
thường chọn các khoản mục có tính hệ trọng cao liên quan trực tiếp đến tình
hình hoạt động của cơng ty như: Tổng doanh thu, lợi nhuận sau thuế,… Việc
phân bổ này nhằm giúp cho KTV có thể thu thập các bằng chứng kiểm tốn
thích hợp đối với từng khoản mục trong BCTC của các CTNY bởi vì khi xác lập
mức trọng yếu thấp đối với mỗi khoản mục là đòi hỏi tính đúng đắn của thơng
tin càng cao và khi đó các KTV phải thu thập nhiều bằng chứng kiểm toán có độ
tin cậy hơn. Chính điều này làm cho chi phí kiểm tốn của các CTNY thường
cao hơn so với các công ty không niêm yết.
Thứ ba, việc đánh giá trọng yếu của các CTNY thường khá phức tạp và khó
khăn trong việc cân đối giữa các mức trọng yếu lựa chọn và chi phí của cuộc
kiểm tốn. Vì nếu KTV đánh giá mức trọng yếu quá cao sẽ không phát hiện


20
được hết sai phạm và nếu chọn mức trọng yếu q thấp sẽ khơng có thời gian,
chi phí cho cuộc kiểm tốn. Chính vì thế, khi đánh giá trọng yếu trong các
CTNY trên TTCK địi hỏi đội ngũ KTV có chuyên môn vững vàng, nhiều kinh
nghiệm. KTV sẽ thu thập thơng tin để bước đầu tính tốn mức trọng yếu, cịn
GĐ kiểm tốn là người đưa ra quyết định cuối cùng về mức trọng yếu. Đối với
chương trình kiểm tốn đã tiến hành soát xét BCTC bán niên của CTNY, việc
xác định mức trọng yếu sẽ được xem xét trên cơ sở quyết định của GĐ kiểm
toán và so sánh với mức trọng yếu đã xác định trước đó để điều chỉnh thích hợp.


21
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU TRONG KIỂM

TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC CƠNG TY NIÊM YẾT TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHỐN DO CÁC CƠNG TY KIỂM TỐN ĐỘC
LẬP VIỆT NAM THỰC HIỆN
3.1 Hệ thống văn bản pháp quy và hướng dẫn nghề nghiệp của Việt Nam có
liên quan đến đánh giá trọng yếu
Về chuẩn mực kiểm toán, dù nghề nghiệp kiểm toán độc lập ra đời vào
những năm đầu của thập niên 90 nhưng đến tháng 9 năm 1999, chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam đợt 1 lần đầu tiên được ban hành. Ngày 06/12/2012, Bộ
Tài chính ban hành thông tư số 214/2012/TT-BTC quy định việc áp dụng hệ
thống chuẩn mực kiểm toán mới từ ngày 1/1/2014.
Các hướng dẫn liên quan đến trọng yếu trước hết được quy định trong Chuẩn
mực Kiểm toán Việt Nam Số 320. Chuẩn mực này được ban hành lần đầu theo
Quyết định số 28/2003/QĐ-BTC ngày 14/03/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
về việc ban hành và cơng bố 05 chuẩn mực Kiểm tốn Việt Nam (đợt 4), ban
hành về chuẩn mực VSA 320 “Tính trọng yếu trong kiểm tốn”. Theo thơng tư
số 214/2012/TT-BTC chuẩn mực mới được áp dụng là VAS 320 “Mức trọng
yếu trong lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán”. Chuẩn mực này quy định về:
Khái niệm tính trọng yếu; Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán;
Trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong đánh giá các bằng chứng kiểm toán; Đánh
giá ảnh hưởng của sai sót.
Ngồi ra, các chuẩn mực kiểm tốn khác có đề cập đến tính trọng yếu trong
kiểm tốn bao gồm: Chuẩn mực VSA 200 “Mục tiêu tổng thể của kiểm toán
viên và doanh nghiệp kiểm toán khi thực hiện kiểm toán theo chuẩn mực kiểm
toán Việt Nam”; Chuẩn mực VSA 240 “Trách nhiệm của kiểm toán viên liên
quan đến gian lận trong q trình kiểm tốn báo cáo tài”; Chuẩn mực VSA 330
“Biện pháp xử lý của kiểm toán viên đối với rủi ro đã đánh giá”; Chuẩn mực
VSA 500 “Bằng chứng kiểm tốn”; Chuẩn mực VSA 700 “Hình thành ý kiến
kiểm toán và báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính”.
Nhìn chung, các chuẩn mực về trọng yếu của Việt Nam về cơ bản phù hợp
với thông lệ và chuẩn mực kiểm toán quốc tế, vừa phù hợp với đặc thù nền kinh

tế và trình độ KTV. Các chuẩn mực này đã nêu rõ các khái niệm về trọng yếu,
mức trọng yếu và mức trọng yếu thực hiện; hướng dẫn khá chi tiết cách xác
định mức trọng yếu và mức trọng yếu thực hiện và các loại hồ sơ kiểm toán cần
lưu; đồng thời cũng quy định và hướng dẫn trách nhiệm của KTV trong việc


22
xác định trọng yếu. Như vậy, các chuẩn mực về trọng yếu này là cơ sở chắc
chắn cho việc đào tạo lại và đào tạo mới đội ngũ KTV; làm cơ sở cho KTV
trong thực hành công việc đánh giá trọng yếu nói riêng và thực hành kiểm tra,
giám sát, kiểm tốn báo cáo tài chính trong lĩnh vực doanh nghiệp cũng như
Nhà nước nói chung, tạo cơ sở nâng cao độ tin cậy của nhà đầu tư và xã hội vào
sự công khai, minh bạch của thị trường tài chính Việt Nam.
3.2 Đặc điểm các cơng ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
3.2.1 Đặc điểm chung của các cơng ty niêm yết trên thị trường chứng
khốn Việt Nam
Cơng ty niêm yết là cơng ty có chứng khoán được niêm yết trên Thị trường
giao dịch tập trung. Theo điều 53 và 54 Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày
20/07/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng
khốn thì điều kiện để niêm yết cổ phiếu tại sở giao dịch chứng khốn gồm:
Một là, là cơng ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm
yết từ 120 tỷ đồng Việt Nam trở lên nếu niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh và từ 30 tỷ đồng Việt Nam trở lên nếu niêm yết tại Sở
giao dịch chứng khoán Hà Nội tính theo giá trị ghi trên sổ kế tốn.
Hai là, có ít nhất hai năm hoạt động dưới hình thức cơng ty cổ phần tính đến
thời điểm đăng ký niêm yết nếu niêm yết tại Sở giao dịch chứng khốn thành
phố Hồ Chí Minh và ít nhất một năm hoạt động nếu niêm yết tại Sở giao dịch
chứng khoán Hà Nội (ngoại trừ doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa gắn với
niêm yết); tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) năm liền trước

năm đăng ký niêm yết tối thiểu là 5%; khơng có các khoản nợ phải trả quá hạn
trên một năm, không có lỗ lũy kế tính đến thời điểm đăng ký niêm yết; tuân thủ
các quy định của pháp luật về kế tốn báo cáo tài chính.
Ba là, tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của cơng ty do ít nhất 300
cổ đông không phải cổ đông lớn nắm giữ nếu niêm yết tại Sở giao dịch chứng
khoán thành phố Hồ Chí Minh và tối thiểu 15% số cổ phiếu có quyền biểu quyết
của cơng ty do ít nhất 100 cổ đông không phải cổ đông lớn nắm giữ nếu niêm
yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội, trừ trường hợp doanh nghiệp nhà nước
chuyển đổi thành công ty cổ phần theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Bốn là, công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên Hội đồng
quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng
Giám đốc), Kế tốn trưởng, cổ đơng lớn và những người có liên quan.


23
Năm là, cổ đơng là cá nhân, tổ chức có đại diện sở hữu là thành viên Hội đồng
quản trị, Ban kiểm sốt, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng
Giám đốc) và Kế tốn trưởng của cơng ty; cổ đơng lớn là người có liên quan với
thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó
Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc) và Kế tốn trưởng của cơng ty phải cam kết
nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 06 tháng kể từ ngày
niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 06 tháng tiếp theo, khơng tính
số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ.
Sáu là, có hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu hợp lệ theo quy định.
Từ đó, các CTNY trên TTCK Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, là loại công ty cổ phần, cổ phiếu và trái phiếu của doanh nghiệp
được niêm yết trên TTCK Việt Nam. Được quyền phát hành chứng khốn khi có
nhu cầu tăng vốn: Cơng ty có đặc trưng là sự tách rời giữa người sở hữu vốn cổ
đông và người quản lý. Điều này xét trên góc độ kiểm tốn, có thể là sự khơng
tin cậy từ các báo cáo (trong đó có các thơng tin tài chính) của các nhà quản lý

do mâu thuẫn lợi ích giữa cổ đơng và ban lãnh đạo CTNY, hoặc giữa nhóm cổ
đơng lớn và cổ đơng nhỏ.
Thứ hai, CTNY cịn bao gồm doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa, Nhà
nước chiếm trên 50% cổ phần (Luật doanh nghiệp 2005). Bên cạnh đó, CTNY
trên TTCK Việt Nam được phát hành chứng khoán làm tăng vốn giữa 2 dạng cổ
phiếu và trái phiếu. Công chúng ở đây là các nhà đầu tư, những người quyết
định đầu tư không đầu tư vào doanh nghiệp niêm yết thông qua quyết định mua
hoặc khơng mua chứng khốn của cơng ty. Các quyết định đầu tư với chứng
khốn của cơng ty chủ yếu do thơng tin mà chính Doanh nghiệp niêm yết cung
cấp theo luật định.
Thứ ba, CTNY thường có quy mô lớn và phạm vi hoạt động rộng khắp với
mục đích chính của doanh nghiệp khi lựa chọn con đường niêm yết nhằm đáp
ứng nhu cầu mở rộng vống kinh doanh trên quy mô lớn thông qua thu hút vốn
đầu tư dài hạn từ các nhà đầu tư, bên cạnh đó nhằm khẳng định thương hiệu và
uy tín, do vậy CTNY thường có quy mơ lớn và có tình hình tài chính phức tạp
hơn nhiều so với các cơng ty khơng niêm yết.
3.2.2 Đặc điểm báo cáo tài chính của các cơng ty niêm yết trên thị trường
chứng khốn Việt Nam
Cơ sở pháp lý đối với BCTC của các CTNY BCTC là bản báo cáo tổng hợp
về tình hình tài chính của DN, được lập trên cơ sở các quy định, chuẩn mực, chế


24
độ kế toán. Bởi vậy, BCTC chịu sự chi phối trực tiếp của hệ thống các văn bản
pháp luật về kế toán từ sắc luật về kế toán qua các nghị định và thông tư hướng
dẫn, hệ thống chuẩn mực kế toán và các văn bản pháp lý của Việt Nam cũng
như Quốc tế. Việc lập và trình bày BCTC của các CTNY thường tuân thủ các
qui định sau:
Một là, các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao quy định những vấn đề
chung nhất của kế toán như nội dung cơng tác kế tốn, tổ chức bộ máy kế toán,

… nhằm điều chỉnh hoạt động kế toán của mọi thành phần kinh tế và mọi lĩnh
vực hoạt động. Ngồi sắc luật cụ thể ra, cịn có những văn bản dưới luật kế toán
quy định chi tiết hơn cho những điều khoản trong luật.
Hai là, Chuẩn mực kế toán hoặc chuẩn mực BCTC Quốc tế (IFRS) (bao gồm
cả chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IAS) đã ban hành và cịn hiệu lực) và chuẩn
mực kế tốn Việt Nam (VAS) làm cơ sở cho việc lập BCTC và giải thích các
thơng tin trình bày trên BCTC. Chuẩn mực BCTC quy định việc ghi nhận, xác
định giá trị và trình bày thông tin về các giao dịch hay sự kiện quan trọng trên
BCTC cho mục đích chung cũng như trong các ngành cụ thể. Mỗi quốc gia, tùy
vào đặc điểm kinh tế, có những chuẩn mực kế tốn của riêng mình hoặc áp dụng
Chuẩn mực BCTC Quốc tế.
Ba là, các văn bản qui định cụ thể như quy trình, hướng dẫn hoặc các cẩm
nang hướng dẫn nghề nghiệp kế toán giúp người thực hiện hiểu rõ và cụ thể hơn
các quy định trên. BCTC của các CTNY vẫn phải đáp ứng những yêu cầu cơ
bản của BCTC doanh nghiệp thông thường về nguyên tắc tuân thủ, về cách lập,
về cơ sở lập, về mẫu biểu, về loại báo cáo, về thời gian nộp báo cáo…
Bên cạnh đó, những đặc điểm hoạt động của CTNY dẫn tới những đặc
điểm riêng BCTC của các CTNY trên các sàn chứng khoán Việt Nam:
Một là, số lượng và trình độ của những người quan tâm đến thông tin trên
BCTC của các CTNY rất đa dạng và phức tạp dẫn đến độ tin cậy BCTC của các
CTNY rất cao.
Hai là, do CTNY tham gia nhiều các ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh khác
nhau nên các thơng tin trình bày trên BCTC cũng như kết cấu các bộ phận đặc
thù trên BCTC của các CTNY khác nhau theo ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh
đó.
Ba là, CTNY là cơng ty cổ phần niêm yết chứng khốn trên TTCK dẫn đến số
lượng cổ đông của công ty rất lớn đồng thời biến động liên tục. Vì vậy, việc theo


25

dõi và phản ánh các nghiệp vụ chi tiết về vốn chủ sở hữu theo đối tượng cụ thể
trên sổ sách kế tốn rất khó khăn.
Bốn là, một số chỉ tiêu tài chính chỉ xuất hiện trên sổ sách kế tốn và BCTC
các cơng ty cổ phần nói chung và CTNY nói riêng như: Trên BCĐKT: chỉ tiêu
“thặng dư vốn cổ phần”, chỉ tiêu “cổ phiếu quỹ”; Trên BCKQKD: chỉ tiêu “lãi
cơ bản trên một cổ phiếu”; Trên thuyết minh BCTC: một số nội dung đặc thù
trên báo cáo tăng giảm vốn chủ sở hữu.
Năm là, các CTNY có rất nhiều cổ đông và thay đổi liên tục nên sẽ ảnh hưởng
tới việc điều hành cơng ty (ví dụ khi có thay đổi cổ đơng chiến lược hoặc cổ
đơng lớn…), đồng thời việc phân phối lợi nhuận vì vậy cũng phức tạp theo. Bản
thân CTNY là công ty đối vốn nên việc phân phối lợi nhuận thường xác định
theo tỷ lệ góp vốn của các chủ sở hữu (trừ khi điều lệ cơng ty có qui định khác).
Do vậy, khi phân phối lợi nhuận, các CTNY phải công khai thời điểm hưởng cổ
tức cùng tỷ lệ và cách thức hưởng cổ tức công khai trong đại hội đồng cổ đông
và trên các phương tiện thơng tin đại chúng. Chính vì vậy, việc theo dõi và ghi
nhận phân phối lợi nhuận trên sổ sách kế tốn và BCTC cũng rất khó khăn.
Sáu là, các CTNY thường có qui mơ lớn và thường hoạt động đa ngành nghề,
dịch vụ; tham gia vào nhiều lĩnh vực kinh doanh có nhiều rủi ro nhất là lĩnh vực
đầu tư tài chính. Bởi vậy, trong các CTNY ln tồn tại nhiều mối quan hệ tài
chính phức tạp nên việc theo dõi và xác định các bên liên quan hoặc khi hợp
nhất BCTC rất khó khăn.
Bảy là, cũng do người quan tâm đến thông tin trên BCTC của các CTNY có
số lượng lớn và tính đa dạng nên BCTC phải đảm bảo các quy định của TTCK.
Thông tin BCTC phải công bố theo từng quý và thời gian công bố thông tin
nghiêm ngặt hơn so với các DN thơng thường; BCTC của CTNY phải kiểm tốn
hàng năm và chương trình kiểm tốn phải có sự chấp thuận của cơ quan quản lý
(Ủy ban Chứng khoán); BCTC của CTNY phải được lập trên cơ sở tuân thủ
chuẩn mực kế toán hoặc các chuẩn mực lập BCTC đối với các CTNY.
3.3 Thực trạng đánh giá trọng yếu trong kiểm tốn báo cáo tài chính của
cơng ty niêm yết trên thị trường chứng khốn do các cơng ty kiểm tốn độc

lập Việt Nam thực hiện
3.3.1 Thực trạng việc đánh giá trọng yếu trong kiểm tốn báo cáo tài
chính các cơng ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam do các
cơng ty kiểm tốn thuộc nhóm Big 4 thực hiện


×